Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc
khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên
tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật
nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu
trời văn nghệ Việt Nam và thế giới. (Hình bên: Bùi Giáng và tác giả bài viết)
Tạp chí Tư Tưởng do viện trưởng Thích
Minh Châu làm chủ nhiệm là cơ quan luận thuyết là tiếng nói của viện Đại học
Vạn Hạnh, thường xuyên đăng tải bài viết của các bậc cao thủ này. Những tác
phẩm thi ca, tư tưởng, triết lý, đạo lý của họ vô cùng thâm thúy, có giá trị
mãi cho đến ngày hôm nay.
Lúc bấy giờ có nhà xuất bản An Tiêm do
Thanh Tuệ làm giám đốc, vì một cơ duyên hy hữu nào đó đã dốc toàn tâm toàn lực
ra để lo cho công việc in ấn riêng biệt những tác phẩm thơ văn, biên khảo, dịch
thuật của Bùi Giáng. Sức sáng tạo của thi sĩ vào thời gian này, từ năm 1962 đến
năm 1975 rất mãnh liệt, như ngọn lửa thiêng sáng bừng rực rỡ khắp trời đất u
huyền, khiến cho nhà xuất bản An Tiêm in ấn không kịp.
Tưng bừng xuất bản An Tiêm
Ấn hành cổ lục chung niềm cảo thơm
Mưa Nguồn tuôn ngát xanh rờn
Ngàn Thu Rớt Hột cô đơn cuối bờ
Đó là một điều không ai hiểu nổi vì suốt
ngày thâu đêm, người ta chỉ thấy một Bùi Giáng lang thang rong chơi, nhảy múa
ngoài đường. Thường ngâm thơ uống rượu lu bù với mọi giới bình dân đây đó, bạ
đâu ngủ đấy ngay ngoài vĩa hè xó chợ, góc quán hiên chùa, rong rêu lêu lổng
khắp đầu phường cuối phố, ngao du trào lộng giữa ta bà, quá độ nồng say như Tản
Đà, Lý Bạch nhưng vẫn thung dung :
Uống xong ly rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt nhớ đã từng đầu tiên
Uống như uống nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng tới phiền muộn sau
Uống
xong ly rượu cùng nhau
Hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời
Em còn ở lại vui chơi
Suốt năm suốt tháng suốt nơi lan tràn
Riêng anh về suốt suối vàng
Trùng phùng Lý Bạch nghênh ngang Tản Đà
Thi sĩ sống không nhà cửa, không vợ con,
không tài sản, không sự nghiệp, không danh lợi, không là gì cả ngoài một bầu
rượu túi thơ và một bộ quần áo xốc xếch cũ mèm, rách nát tả tơi, trông giống
như một Tế Điên, một Hàn San, Thập Đắc, một gã ăn mày quái dị lạ lùng. Thế mà
sức sáng tạo, sáng tác quá đỗi rạt rào như thác đổ trào tuôn, thật là vô tiền
khoáng hậu. Nhà thơ viết như thần nhập, như nhảy tung vào cõi mật ngôn ẩn ngữ,
làm khơi mở mối giềng xiết bao rực cháy, gây nên một nguồn cảm hứng tưng bừng,
dậy sóng phiêu bồng cho biết bao kẻ đồng điệu, đồng cảm vút hồn bay chuếnh
choáng, ngất ngây trong cơn say sưa túy lúy.
Thi sĩ Bùi Giáng sinh năm 1926 tại Quảng
Nam, quả nhiên là một hiện tượng kỳ lạ mà cho đến ngày nay, chưa một ai có thể
hiểu thấu đáo về thế giới tâm hồn hoằng đại, cõi tư tưởng hoằng viễn thâm hậu
và cõi thi ca bát ngát vô song đó. Có người hỏi tiểu sử thì Bùi Giáng cười
đáp : “Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây gay cấn ly kỳ và sẽ chết đi
giữa cỏ cây ly kỳ gay cấn… Thuở nhỏ bỏ học về nhà quê, làm thơ tặng chuồn chuồn
và châu chấu.” Hỏi về sự sáng tác phi
thường thì lai rai nói : “Con chim thì
ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ
nhưng thơ là gì, thì đó là điều ta không biết.”
Điện Bàn Đại Lộc Duy Xuyên
Xiết bao tình nghĩa thần tiên mộng đầu
Vĩnh Trinh Lệ Trạch Thanh Châu
Thi Lai Hà Mật nhìn đâu dáng người
Người đầu tiên đã mỉm cười
Nhìn tôi tưởng thấy niềm vui vô cùng
Tôi ngồi tưởng nhớ mông lung
Tưởng từ chín suối tới bao dung Bầu Trời
Thi sĩ khơi vơi ngồi nhớ quê như thế.
Quê hương cố xứ bên dòng sông Thu Bồn ở Duy Xuyên Quảng Nam. Về sở học của nhà
thơ, quả thật là thông đạt quảng bác vô cùng, làu thông nhiều ngôn ngữ như Anh,
Pháp, Đức, Hán. Không biết thi nhân tự học từ lúc nào mà trở thành một bậc
thượng trí, hầu như vô sư tự ngộ, chỉ do đọc sách mà phát minh tâm địa như trường hợp thiền sư
Huyền Giác đọc kinh Duy Ma Cật mà hoát nhiên triệt ngộ chân lý diệu thường. Từ
đó, trọn suốt cuộc đời thi sĩ cứ phiêu nhiên trên con đường thênh thang sáng
tạo, bước đi thi ca tỏa rợp trời thơ đất mộng bồng bềnh, bát ngát phiêu diêu.
Nhiều người cho rằng Bùi Giáng là một gã
cuồng sĩ điên rồ hay một đại thi hào, một Bồ tát nghệ sĩ gì gì đó cũng được, chỉ
là những danh từ, khái niệm mà thôi. Điều cần thiết phải làm là chúng ta hãy đi
vào bên trong tâm hồn phong phú, thể hiện qua tác phẩm, may ra có khám phá được
điều gì mới mẻ trong cõi tư tưởng của nhà thơ tài hoa này hay không ?
Tư tưởng trong thơ Bùi Giáng là gì ? Nhưng
tư tưởng là chi ? Theo Tuệ Sỹ thì : “ Tư tưởng là Con Đường, là Đạo, là Tiếng
Gọi mời ta lên đường. Chính bằng và trên Con Đường ấy, chúng ta mới có thể bắt
gặp được bóng dáng của con người.”*
Vâng, tư tưởng là con đường mời gọi
chúng ta hành động và do vậy, do bởi hành vi tư tưởng cho nên hành động mới
mang một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ mới lạ. Tư tưởng thi ca Bùi Giáng khởi phát
rạt rào từ suối nguồn sâu thẳm tâm linh, từ cõi ban sơ tịch mịch khôn dò. Đó là
cõi bờ âm thanh vi diệu ngữ của trời trăng mây nước, chim bướm cỏ hoa và ánh
sáng rạng rỡ huyền hòa, là bước đi đã đạt tới cảnh giới thượng thừa thi sĩ, chỉ
có thể cảm nhận chứ không thể suy nghĩ luận bàn.
Đi vào cõi thơ Bùi Giáng, chúng ta cần
phải buông xuống cái biên kiến, chấp thủ và chỉ khi nào cái bản ngã hạn hẹp của
mình được chuyển hóa thì lúc ấy chúng ta mới lãnh hội, tương ứng với ngôn ngữ
chân thực nghĩa tân kỳ của thi ca, của một cái gì vốn dĩ vô ngôn mà phải nói
đột xuất bất ngờ :
Ấy là nhạc ? Ấy là thơ ?
Ấy là rượu đế một giờ bỗng dưng ?
Ấy điên đảo ? Ấy điệp trùng ?
Ấy từ vô tận lừng khừng mà ra
Thưa em ngôn ngữ thật là
Cái gì như thể ngọc ngà thiên hương
Thưởng thức thơ Bùi Giáng, nên thưởng
thức như Phạm Công Thiện nói : “Đọc thơ cũng giống như đọc kinh. Phải thọ, trì,
đọc, tụng. Đọc không phải để hiểu mà để biết. Biết cái thâm mật của một giây
phút thoáng qua nhanh chóng hơn ánh sáng và biết cái thâm mật của tam thiên đại
thiên thế giới, của vô số hằng hà tỉ tỉ thiên hà trong lòng ta và ngoài kia
không gian phiêu dật, mà lòng ta là tất cà không gian phiêu dật.
Tại sao Nguyễn Du thường sử dụng chữ
biết trong thơ và ít khi dùng chữ hiểu ? Đây là một sự việc quảng mật cần nên
biết trong tương lai của văn hóa Việt Nam. Thơ là cái gì mà chỉ nên biết
chứ không thể hiểu, may ra thì chúng ta có thể biết được cái thâm mật, cái quảng
mật và cái thâm quảng mật, có thể biết được sơ sơ qua loa, chứ không thể nào
hiểu được. Đó là diệu nghĩa vô lượng của tam mật, tam muội trong thơ văn của
những thiên tài vĩ đại trên thế giới.”**
Bùi Giáng đương nhiên là một thi sĩ
thiên tài, siêu quần bạt tụy rồi. Tư tưởng nhà thơ bao trùm khắp thiên hạ và
thấu đạt hết ý nghĩa sâu xa thâm trầm của đạo học Đông phương cũng như triết lý
Tây phương. Hầu hết các bậc đạo sư, thiền sư, văn nghệ sĩ phương Đông như Đức
Phật, Duy Ma Cật, Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, Huyền Giác, Lâm Tế,
Tuệ Trung Thượng Sĩ, Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Lý Bạch, Tô Đông Pha, Tô Mạn
Thù, Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Tản Đà đến các
triết gia, văn hào, thi sĩ vĩ đại của phương Tây như Martin Heidegger,
Nietzsche, Hoelderlin, Wart Whitman, Shakespeare, Gerard Nerval, Kierkegaard,
Malraux, Karl Jaspers, Albert Camus, Saint Exepery, Andre Gide, Apollinaire,
Emily Dickinson, Paul Eluard, Dylan Thomas, Saint John Perse, Rimbaud, Rainer
Maria Rilke… đều được thi nhân nói đến một cách rốt ráo cặn kẽ, tận sâu vào
mạch ngầm tư tưởng uyên nguyên, uyên áo vô cùng.
Chúng ta hãy nghe Bùi Giáng phát biểu về
thi ca : “Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn được. Người ta
có thể diễn tả một trận mưa bằng lời thơ, thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ,
người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào hoặc một cơn gió thu, mà muốn
thực hiện điều đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn phép gì khác.
Thế có nghĩa là muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể phải làm
một bài thơ khác.
Người xưa am hiểu sự đó, nên họ chỉ vịnh
thơ, chớ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời nay trái lại,
họ buộc phải luận thơ có mạch lạc, luận lý, không được bốc đồng vịnh lăng
nhăng. Cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghì vậy.” Cho nên, ở đây người
viết không dám luận bàn về thơ Bùi Giáng mà giản dị chỉ là cảm nhận một phần
nào hương vị suối nguồn thi ca lai láng dạt dào, quá sức dữ dội của thi nhân mà
thôi.
Vào miền cõi thơ Bùi Giáng là tha hồ tự
do lang thang tang bồng, rong rêu phiêu lãng ngàn phương mọi chốn, trên rừng
dưới biển đầy kỳ hoa dị thảo, dạo chơi giữa ngả ba, ngả bốn những con đường sương
mù, mây trắng rồi bất ngờ mở ra một phương trời xanh biếc Nguyên Xuân, đồng
thanh tương ứng, tương giao theo điệu chào sơ ngộ xưa sau :
Hỏi rằng : Người ở quê đâu
Thưa rằng : Tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng : Từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng : Nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng : Đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng :
Ly biệt mai sau
Là trùng ngộ
giữa hương màu Nguyên Xuân
Nguyên Xuân
là mùa xuân rực rỡ sơ nguyên trong lòng người, là Diệu Tâm trầm ẩn nhiệm mầu của
chúng ta. Từ cõi quê lòng thanh tịnh đó, thi sĩ bước ra hòa điệu cùng cát bụi
phù hoa phố thị, ngao du ngày tháng ta bà qua biết bao heo hút dặm dài, giáp
mặt với sơn cùng thủy tận của mộng đời hư huyễn phù du. Nhà thơ chứng kiến cõi
người ta cứ lo tranh đấu, tranh cãi đúng sai, phải trái, hơn thua giành giật nhau
mãi, ai ai cũng phát huy cái bản ngã to bự của mình bằng cách chạy theo danh
lợi, địa vị, dấy khởi hoài tham lam, sân hận, si mê... để vô tình quên đi mất cái bản tâm thực tánh,
cái mặt mũi xưa nay, cái cõi miền Tâm Xuân thuần nhiên huyền diệu giữa lòng
mình, cho nên thi nhân chạnh lòng trắc ẩn, thương xót cho những cảnh đời quá
nhiều thống khổ điêu linh, bởi con người cứ mãi đắm chìm trong vọng tưởng, vô
minh, hiểu lầm ngộ nhận :
Trần gian
thơ mộng xiết bao
Mà buồn vô
tận ai nào biết ai
Chưa yêu dấu
đã lạc loài
Chát chua
ngộ nhận tự ngoài vào trong
Tháng giêng
đau khổ mặt trời
Đông sâu
lạnh giá đêm dài nửa năm
Về Bắc ngất
tạnh mù tăm
Về Nam chỉ
thấy thẳm thăm mịt mù
Đau thương
từ bấy đến giờ
Ai người đã
tỉnh đã mơ một lần
Ấy đau
thương ấy tử phần
Không cho
phép cánh đại bàng viễn du
Kể từ vô tận
mùa thu
Vô biên khốn
khổ tội tù một thân
Kể xa xôi kể
gũi gần
Không từ đâu
có dặm phần chia ly
Ôi từ vô
thủy ra đi
Đến vô biên
xứ từ quy xa vời
Trần gian
đáng lẽ tuyệt vời
Về sau chẳng
rõ muôn đời đảo điên
Niềm đau nỗi
khổ ưu phiền
Nối đuôi
tiếp tới triền miên từng giờ
Khi biết rõ
từng giờ từng phút buồn thảm, u sầu cứ triền miên vây khổn chốn phù sinh đầy
trầm mê, phiền não, khổ lụy như thế, thi sĩ phát đại bi tâm, nguyện yêu thương
hết cả trần gian, yêu muôn loài vạn vật, cả thập loại chúng sinh giữa ba
đời sáu cõi luân hồi, qua lại đến đi :
Tôi tự
nguyện sẽ một lòng chung thủy
Qua những
lần buồn tủi giữa đảo điên
Thân xương
máu đã đành là ủy mị
Thì xin em
cùng lên thác xuống ghềnh
Em đứng mũi
anh chịu sào có vững
Bàn tay bưng
đĩa muối có chấm gừng
Tôi đã
nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn
và hết cả da xương
Xin yêu mãi
yêu và yêu nhau mãi
Trần gian ôi
cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé
cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng
cùng sâu bọ cũng yêu luôn
Còn ở lại
một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm
còn thở dưới trăng sao
Thì cánh
mộng còn tung lên không ngại
Níu trời
xanh tay vói kiễng chân cao
‘‘Con vi
trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn’’ huống chi là con người phải không ? Tình
yêu, tình thương ấy tràn ngập khắp các tác phẩm thơ văn Bùi Giáng, dòng dòng
long lanh lấp lánh như Mưa Nguồn tuôn
đổ, như thác lũ trường giang, chảy hoài miên man ngàn trùng đại hải :
Anh đã định
chẳng bao giờ sẽ nói
Rằng tình
yêu là chóp đỉnh phượng thờ
Vì anh biết
gào kêu thân thiết gọi
Khó lọt vào
tim máu của em thơ
Anh đã định
sẽ yêu đời suốt kiếp
Suốt thiên
thu từ vạn thuở phiêu bồng
Rồi anh chợt
thấy mình luôn liên tiếp
Nửa điên
cuồng nửa rồ dại lông bông
Và từng phút
từng giây chồng chất ngất
Một trăm năm
đứt ruột nát gan vàng
Một vĩnh
viễn đoạn trường chìm ngây ngất
Dưới trầm
luân từ thực thể muôn vàn
Từ thực thể
muôn vàn trầm luân kiếp nhân sinh đó, cũng như Nguyễn Du, nhà thơ tự nguyện gánh vác lên vai
vô số khổ lụy đoạn trường của Thúy Kiều hay như sư cô Tam Hợp âm thầm nhiếp dẫn
từ bi cứu nhân độ thế. Chính vì dâu bể vô thường trong cõi đời máu lệ điêu linh
mà Diệu Pháp Liên Hoa kinh đi về thể hiện tinh thần ‘‘khai thị chúng sinh ngộ
nhập Phật tri kiến’’ chỉ ra Phật nhãn, cái thấy biết tuyệt vời tối
thượng :
Từ bi ?
Vô tận đoạn trường
Đạo cô Tam
Hợp ? Hoa Hương Bốn Mùa
Trăm năm dâu
bể thiệt thua
Cũng là Diệu
Pháp thượng thừa Liên Hoa
Từ cõi Diệu
Pháp vô vi bất khả tư nghì ấy bước ra, nên hành động của thi sĩ không giống như
cõi hệ lụy ta bà đầy đa đoan chấp ngã của chúng ta, thành thử nhà thơ tự nhận
mình là thằng điên, thằng khùng, ngây ngô khờ dại cho khỏe nhẹ để khỏi còn ai
thắc mắc phân vân :
Thần Tiên
Thánh Phật uy quyền
Giúp đời vô
tận thằng điên quý gì ?
Điên từ muôn
một liên miên
Mà ra vạn
thuở nối liền Liên Hoa
Ấy từ Diệu
Pháp mà ra
Đất đồng mộc
mạc nở hoa lẫy lừng
Đó là thể
điệu cuồng điên uyên mặc thượng thừa của thần tiên du hý, dậy lừng cung bậc
Lăng Nghiêm trầm hùng cùng tuyệt :
Tam bành tứ
trướng cuồng điên
Thần thông
du hý thiên tiên dự phần
Lăng Nghiêm
tam muội dậy lừng
Vượt non
băng núi qua trùng điệp truông
Ấy từ bất
khả nghị bàn
Từ vô tận xứ
mà Nghiêm Hoa rằng
Hoặc từ vô
tận hằng hằng
Từ đâu tới
một Ngiêm Lăng khôn lường ?
Lăng Nghiêm
kinh khai thị cái tâm chơn, tâm vọng của con người vốn bất nhị viên dung. Một
khi thấu thị kỳ cùng điều đó, thi sĩ bất thần nhập diệu vào cảnh giới huy hoàng
hoan hỷ địa, hồn phách bay bổng một niềm vui sướng lâng lâng :
Thượng thừa
thể lệ trăm năm
Thần tiên du
hý đánh chìm tài hoa
Cái tài hoa trác
việt, độc đáo của mình, đáng lẽ nên tự hào, hãnh diện nhưng thi sĩ tự mình làm
cho chìm khuất, tiềm ẩn đi, chứ không huênh hoang phách lối, khoe khoang, kiêu
ngạo phô bày ra như kẻ phàm phu tục tử thường tình. Đó là nhân cách cao thượng
của bậc đại trượng phu. Tự mình vượt lên trên vòng đối đãi thị phi phải trái,
thoát ra ngoài mọi sinh hoạt quy ước của xã hội, để sống tự do theo ý mình, thi
nhân thực hiện một bước nhảy trọng đại, ngoạn mục phi thường lả tự nguyện làm
người điên khủng, khờ dại, lãng trí, tự mình trách móc, mắng nhiếc mình theo
cách điệu thể thái tùy nghi :
Bỏ đi dẹp
mặt mày đi
Làm thằng
thi sĩ như mi dơ tuồng
Mi say rượu
mi điên cuồng
Mi không ý
thức vui buồn thế gian
Lão già say
rượu nói nhăng
Làm thơ lẩm
cẩm gia tăng tâm tình
Máu tim chia
sẻ tâm tình
Nửa dâng
Thần Rượn nửa trình Nàng Thơ
Suốt ngày
suốt tháng suốt năm
Nó be bét
rượu muôn năm đế nồng
Thượng thừa
kỳ vĩ vân mông
Sịch mành
tỉnh mộng đêm mồng một giêng
Đền bù xiết
kể bao lăm
Đáp đền muôn
một trăm năm dại khờ
Khờ như dại
dại như thơ
Dại không
biết thẹn trơ trơ điên cuồng
Nói thì nói khề
khà theo kiểu tự chế giễu, bỡn cợt khôi hài như thế, nhưng trái tim thi sĩ luôn
luôn rực hồng ngọn lửa tình yêu thương vô lượng vô biên đối với cuộc đời đang
sống trong túy sinh mộng tử này. Nhà thơ đau nỗi đau của con người, sầu nỗi sầu
thiên cổ của kiếp nhân sinh tàn úa phai nhàu :
Nỗi buồn
khôn tả từ đâu
Đi về phảng
phất nỗi sầu thiên thu
Giữa đêm
chén tạc chén thù
Một mình độc
ẩm sương mù dưới trăng
Nỗi thương
nỗi nhớ hằng hằng
Nhớ thương
vô cớ cầm bằng như không
Ừ thì như
không như có, như mộng như thực, như tỉnh như say... hết thảy đều là một chứ
chẳng khác gì nhau như Tâm Kinh đã nói “sắc tức thị không, không tức thị sắc”
đó mà :
Giật mình
tôi chợt nhớ ra
Rằng đây đất
của chúng ta chúng người
Mở môi em
mỉm miệng cười
Tình yêu từ
đó vẹn mười muôn năm
Yêu em yêu
mãi tấm lòng
Yêu em quá
độ long đong suốt đời
Nhớ em nhớ
suốt mây trời
Suốt trăng
vĩnh viễn suốt nơi nào là
Tình yêu đó
lai láng như trường giang đại hải mênh mông, cứ tự nhiên trôi chảy, thường
hướng đến những tầng lớp nghèo khổ trong xã hội như anh đạp xích lô, cô quét
rác hay cô mua bán ve chai. Niềm thương cảm của thi sĩ có cái gì đó thật khác
thường kỳ lạ :
Kính thưa
đồng chí đại ca
Xích lô vô
lượng kể đà bao phen
Từng phen lay lất ưu phiền
Niềm vui vô tận thường hằng đeo đai
Các em quét rác mỗi ngày
Mỗi năm mỗi tháng kéo dài muôn năm
Ve chai giày dép cũ càng
Em mua giúp hết dịu dàng em mua
Tơ trời thêu dệt bốn mùa
Đổi thay thời tiết nắng mưa luống từng
Dạn dày cho rõ phong sương
Âm thầm ý nghĩa muôn phương mây vàng
Từ cô thôn
nữ ở đồng quê chân lấm tay bùn đến cô em mọi nhỏ ở trên rừng truông rú thẳm
hoang lương, thi nhân cũng chia sẻ tỏ bày rất đỗi ân cần trìu mến :
Cày sâu cuốc
bẫm cấy bền
Tháng ngày
thanh thản êm đềm buồn vui
Thương em
ngày tháng ngậm ngùi
Nhớ em ngày
tháng sụt sùi giữa đêm
Thương em
như thương một nường
Thiên thu là
gái bình thường nhà quê
Em từ thôn
nữ năm kia
Về đây phút
chốc sẻ chia tấm lòng
Kể từ vô tận
tiêu tao
Yêu em mọi
nhỏ chốn nào đầu non
Thấy em như
thấy vuông tròn
Thành thân
thiên hạ biển non dịu dàng
Yêu em như
nước lan tràn
Nhớ em như
nhớ những tràng giang xa
Nguồn thơ
xanh ngát lại mênh mang chảy tràn qua cổng chùa tu viện, vào thăm viếng thùy mị
ni cô. Trước những tâm hồn thanh thản đoan trang, chàng thi sĩ lóng cóng theo
cách điệu bông đùa cà rỡn quý ni cô thuần hậu, thuần phác thảnh thơi :
Đi tu em nhớ
một lời
Đừng bao giờ
trở lại đời làm giai nhân
Đừng đẹp đẽ
đến vô ngần
Chỉ cần chút
đỉnh đẹp tần ngần tu ( đi )
Còn gì đẹp
hơn là buông bỏ hết những phiền não, vọng mê để lên đường xuất gia, đi tu một trận
ly kỳ, hy hữu giữa ảo mộng tồn sinh ? ‘‘Tu là cội phúc tình là dây oan’’ Nguyễn
Du đã nói như thế, còn Bùi Giáng thì :
Tu là cội
phúc phôi pha
Tình là oan
nghiệt chiết ma đoạn trường
Đó là thứ
tình dính mắc ràng buộc, chiếm hữu nên luôn luôn giận hờn ghen ghét, gây nên
bao tan nát đoạn trường. Vượt qua thứ tình yêu nô lệ đó là tự do cất bước thong
dong với chiếc áo nâu sồng mộc mạc, thoát khỏi mọi nỗi khổ niềm đau :
Nâu sồng đã
bén muối dưa
Còn tình đâu
nữa dây dưa tâm tình ?
Sự đời tắt
lửa tồn sinh
Hồng quần
quên mất rằng mình đã quên
Chép tờ địa
lý đầy vai
Hùng tâm
thánh nữ thiên tài ni cô
Định thần
mừng rỡ bước vô
Song trùng
chúc phúc hai cô một lần
Ni cô ?
Thánh mẫu nhu mì
Thành thân
vô tận thuận tùy đầu tiên
Ni cô ?
Thục nữ thuyền quyên
Tìm đâu thấy
được Nguyên Tuyền Ni Cô ?
Đặc biệt Bùi
Giáng dành một tình yêu thương thanh thoát đối với sư cô Trí Hải ở Đại học Vạn
Hạnh cũ, người đã dịch Câu chuyện dòng sông của Herman Hesse. Thi sĩ cũng
thường gọi sư cô là mẫu thân Phùng Khánh một cách tân kỳ sáng tạo :
Lúc về thờ
phượng ni cô
Mẫu thân
Phùng Khánh điểm tô đạo trời
Thần lên
tiếng thánh đổi lời
Niềm riêng
Vạn Hạnh mọc mời cô đơn
U hoài đầu
mộng hôm qua
Mẫu thân
Phùng Khánh thật là u u
Chân đi từng
bước hư phù
Mộng đi từng
bước tuyệt trù ống chân
Mẹ về đứng
giữa đầu sân
Cuối cùng mẹ
bước vô ngần mẹ đi
Mẹ còn nhớ
nữa con chăng
Mẫu thân
Phùng Khánh con hằng chẳng quên
Tuy đòi phen
chết nếp nền
Cung vang
lừng bậc điệu đền bù xoang
Mẹ về ngõ
vắng vườn hoang
Thừa Thiên
sông lạnh kéo sang khu rừng
Với một suối
nguồn thương yêu vô điều kiện, yêu thương vô phân biệt, nhà thơ cũng rộn ràng trang trải cùng các cô gái đứng
đường, xem các cô kỹ nữ như là tiên nương, thánh nữ giáng trần và tâm sự cùng
các cô chan chứa nỗi niềm :
Bất ngờ tôi
bắt gặp em
Vu vơ đi đứng
một đêm giữa đường
Đến gần bất
chợt tình thương
Bất ngờ tâm
sự phi thường gần xa
Em từ viễn
ngạn tuôn ra
Mười hằng
hồng lệ chín sa dòng dòng
Tôi từ lịch
kiếp long đong
Em từ lận
đận tấm lòng bao lâu
Chúng ta từ
cõi lao đao
Quen nhau từ
những kiếp nào xưa xa
Tâm hồn của
gái giang hồ
Các em vô
tận kể từ đâu ra ?
Anh nay tuổi
quá cỡ già
Thương em
như nhớ gian nhà lưu ly
Các em dù
tuổi tên gì
Cũng từng đã
thốt lời gì anh nghe
Ngày nay
đứng phố ngồi hè
Nhớ em mộng
tưởng muôn bề rã tan
Cậy em lời
cậy muôn vàn
Mình em
riêng một đá vàng thiên thu
Tình yêu vô
tận tự lòng
Tình không
yêu cũng tùy tòng vô biên
Lỡ làng chút
phận thuyền quyên
Chưa là
thánh nữ cũng tiên nương rồi
Chỉ có cái
nhìn vô phân biệt trí mới thấy được như thế. Dễ có mấy ai trên đời này xem các
kỹ nữ lầu xanh là tiên nương thánh nữ ? Chỉ duy nhất thi sĩ Bùi Giáng mới
có cái nhãn quan đại từ đại bi, đại hỷ đại xả như thế và từ cái nhìn thấu thị
nhân sinh đó, thi sĩ ngợi ca, tán thán hết lời và gọi chung tất cả thục nữ mười
phương là nàng thơ, nàng tiên diễm tuyệt vô ngần. Các nàng thơ, tiên nữ cứ đi
về kề cận gần gũi, thân thiết miên man, bàng bạc ở khắp mọi nơi khắp chốn, từ
phồn hoa đô hội đến lâm tuyền huyễn ngạn, ngoài bến gió bờ sương ngút ngàn quyến
rũ mộng mị chiêm bao, dạt dào xao xuyến, xiết bao tâm tình du dương tha
thiết :
Các em vô
tận thuyền quyên
Từ thiên cổ
tới đầu tiên bây giờ
Các em không
thể nào ngờ
Rằng đầu
tiên đã bài thơ luống từng
Em từ trái
đất tuôn ra
Em đi xinh
đẹp tiên nga dậy thì
Gặp em toàn
thể nhu mì
Non sông đất
nước thuộc tùy tình em
Thương em
hơn cả phượng thờ
Ông trời ông
Phật mút mùa thần tiên
Yêu em từ
cái diện tiền
Của em số dzách
thuyền quyên ấy là
Em từ một
thuở tuôn ra
Một hơi hô
hấp thiết tha dịu dàng
Từ đầu
truông tới cuối ngàn
Cỏ cây nhớ
mãi muôn vàn tình yêu
Thương em
mỗi lúc mỗi nhiều
Yêu em mỗi
lúc mỗi trìu mến em
Đường đi lát
đá êm đềm
Cậy em thủng
thẳng dịu mềm em đi
Mai sau còn
một tí gì
Ấy là khu
vực nhu mì của em
Cái gì vô
tận của em
Ấy là cái ấy
của em lạ lùng
Dị thường vô
tận hoành tung
Tình yêu tim
máu thủy chung tót vời
Anh từ vô
tận viễn khơi
Gặp em như gặp
đất trời vô biên
Riêng em có
lẽ thật là
Thiên thu
một thuở muôn nhà một nơi
Cùng em vô tận rong chơi
Khắp trùng dương dội sóng đời đời dâng
Ngân nga vang vọng sóng đời từ cuộc lữ
đến cuộc chơi, từ cuộc tình đến cuộc mộng rồi từ cuộc mộng đến cuộc thơ, mở ra tưng
bừng những làn gió hương màu phất phới, những phảng phất rung động trầm sâu mầu
nhiệm bồi hồi :
Lối đi bình lặng nhiệm mầu
Lối về phấp phới hương màu đầu tiên
Lối đi nhìn ngửa ngó nghiêng
Lối về phảng phất nợ duyên khôn bì
Chập chùng
những cuộc đi cuộc về trên con đường mây trắng phiêu du, lãng đãng phiêu bồng. Không
từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu nên thi nhân dấn mình nhập cuộc vào tồn lưu
trôi chảy và đột ngột, thốt nhiên bỗng thấy trần gian đẹp đẽ vô cùng. Đẹp kinh hồn đến độ choáng váng mặt mày, ngập tràn cơn
say chuếnh choáng, ngây ngất yêu đời vô tận nên nghêu ngao dạo khúc hát xênh
xang.
Trạng thái
xuất thần nhập diệu ấy càng ngày càng đến thường xuyên hơn trong cuộc sống
thường nhật, nên thi sĩ phiêu hốt, phiêu diêu trong cảnh giới tiêu dao vô ngại đó
nhiều đến nỗi phải khiêu vũ nhảy múa như một hoàng đế tự vất bỏ ngai vàng điện
ngọc, đi vi hành làm kẻ vô danh tiểu tốt, tha hồ đùa chơi tiếu ngạo, ngâm nga la
hét giữa phố thị ồn ào, tấp nập người qua kẻ lại, khiến thiên hạ cứ tưởng là
nhà thơ điên. Kỳ thực đó là những phút giây bay bổng, khinh an, hoan lạc, nhập vào
hoan hỷ địa xuất cốt diệu thường, cực lạc vô song :
Ông vua kỳ
vĩ thập thành
Vì vui quá
độ nên thành ra điên
Bây giờ tôi
dại tôi điên
Chắp tay quỳ
lạy khắp miền nhân gian
Chao
ơi ! Thái độ ‘‘Chắp tay quỳ lạy khắp miền nhân gian’’ đó, chẳng khác
chi hạnh nguyện của Bồ tát Thường Bất
Khinh, luôn luôn kính trọng hết thảy mọi người dù ngu trí, lớn nhỏ, giàu nghèo
một cách trân quý lạ thường. Dường như nhờ đọc sách, kinh điển Phật giáo Đại
thừa mà thi nhân bất ngờ trực ngộ, thấy ra tận tường cái bản tâm thanh tịnh chói
sáng vạn hữu an lành :
Thượng thừa
hồi phục tâm thanh
Thốt nhiên
đốn ngộ ngọn ngành cảo thơm
Bước vào nào
thấy chút chi
Bước ra bỗng
thấy cái mì nhu em
Toàn nhiên
đại ngộ hoát nhiên
Hoát nhiên
đốn ngộ thần tiên thượng thừa
Giữa đỉnh
cao và hố thẳm, giữa vô hình và hữu hình, giữa phù du và vĩnh cửu với điệu cười
sinh tử như không, thi sĩ thấy ra cảnh giới Hoa Nghiêm trùng trùng duyên khởi nên
hòa chung cung bậc đất trời rộng mở, thở cùng không khí phóng khoáng, hý lộng
giữa đôi bờ mộng thực, tỉnh điên một cách khoan thai thoải mái :
Cái điên cái
tỉnh ở đời
Nào ai dám
chắc thế thời ra sao ?
Kéo dài rất
mực chiêm bao
Cuộc chơi kỳ
vĩ tiêu tao điên cuồng
Cuộc chơi kỳ
vĩ thập thành
Các em kỳ bí
hơn anh quá nhiều
Tử sinh giữa
cuộc dấn liều
Tử sinh liều
giữa diễm kiều cuộc chơi
Chuyện sinh
tử đối với phần đông phàm phu tục tử chúng ta là rất đỗi trầm trọng, kinh hoàng
khủng khiếp, nhưng với thi sĩ thì thấy nhẹ như lông hồng, cho nên cứ tiếp tục cuộc rỡn đùa chơi, vì đã thấu
triệt được lẽ bất sinh bất diệt, chết rồi cũng chẳng mất đi đâu mà chuyển qua
hình thức khác, chuyển biến theo luân hồi giữa ba đời sáu cõi, tái sinh theo
nghiệp báo của riêng mình đấy thôi :
Em về choáng
váng tê mê
Em về từ tử
diệt về tái sinh ?
Em về vô tận
bình minh
Từ em tử
diệt tái sinh mừng chào
Chào mừng
cuộc sống vô lượng vô biên giữa biển đời trùng trùng sóng phong quang Bát Nhã,
sóng lai láng tràn vào từng trang cổ lục cảo thơm, giúp cho người ta thấy lại
vẽ đẹp huy hoàng tráng lệ của trí tuệ muôn đời tung bay phất phới :
Thình lình
vô tận biển khơi
Sóng triều
Bát Nhã đẩy chơi vào bờ
Thượng thừa
trí tuệ thẩn thơ
Chép tờ cổ
lục cho tờ cảo thơm
Trí tuệ Bát
Nhã ấy chẳng ở đâu xa mà nó ở ngay giữa tâm hồn chúng ta đây thôi. Em hãy quay
nhìn lại chính mình thì sẽ thấy ngay lập tức cái lòng trong trẻo nguyên sơ hiển
hiện ra khắp muôn chiều diệu dụng :
Em đi vô tận
trùng trùng
Em về vô
lượng tự lòng mà ra
Đại thi hào
Nguyễn Du cũng đã từng nói ‘‘Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra’’ giống
như Hoa Nghiêm kinh ‘‘Tất cả do tâm tạo.’’ Thì ra, cả sơn hà đại điạ, cả ba
nghìn thế giới này cũng đều do tâm mình tạo ra mà thôi. Người thi sĩ hốt nhiên
‘‘ồ lên một tiếng’’ và mỉm cười rỗng rang sảng khoái :
Cõi bờ con
mắt Hoa Nghiêm
Tường vôi lá
cỏ lim dim vô cùng
Cảnh giới
Hoa Nghiêm đang thị hiện diễn bày chung quanh khắp mặt đất trần gian cát bụi,
từ vô lượng kiếp đến một phút giây của từng sát na vĩnh cửu. Một hôm lang thang
lêu lổng, bỗng thi sĩ kỳ ngộ trùng phùng đức Thế Tôn bên vĩa hè phố chợ, khiến chàng rúng động cả thần hồn, vội quỳ
xuống đãnh lễ thành tâm :
Thập thành
đãnh lễ bước chân
Như Lai hộ
niệm phù vân điệu chào
Quan Âm Bồ
tát chốn nào
Cũng cho
nghĩ nghị lối vào Trung Niên
Ôi Bồ tát
hỡi Nhu Lai
Lời thơ đãnh
lễ lai rai vài hàng
Ngàn thu rớt
hột xuống trang
Lá hoa cồn
dậy muôn vàn bữa qua
Trung Niên
thi sĩ bàng hoàng, choáng ngợp trước ánh hào quang tuệ giác siêu việt, trực
kiến vô ngần Chân Không Diệu Hữu, không biết nói gì hơn là làm thơ tán thán
ca hát chan
hòa :
Ca về tuế
nguyệt thiên thâu
Về ca khoảnh
khắc sơ đầu sát na
Chân Không
Diệu Hữu là ca
Không chân
hữu diệu lưu sa hằng hằng
Đứng đi ngồi
ngả ba đàng
Thượng thừa
cung bậc muộn màng cứ ca
Chân Không
mà Diệu Hữu nên mới có chuyện nói đi nói lại, nói mãi suốt từ thiên cổ xưa nay.
Nói từ ngày Đức Phật chứng đạo dưới gốc cây Bồ đề đến bây giờ cũng bấy nhiêu
chuyện mà thiên kinh vạn quyển, trùng trùng vô tận vẫn nói không hết lời. Cho nên
thi nhân cũng hòa theo chiếu cố, ngưỡng mộ trước phong cách trầm hùng bất động vô
nhiễm của Như Lai :
Phật ngồi dưới
gốc Bồ đề
Tiên nương
dừng bước tóc thề chấm vai
Thưa rằng
Phật thật là tài
Thấy mà như
chẳng từ ngoài vào trong
“Thấy mà như
chẳng từ ngoài vào trong.” Chỉ cần một câu thơ đó thôi, Bùi Giáng đã lột tả hết
được tinh túy của đạo lý Đông Phương
suốt từ mấy ngàn năm rồi, Khổng Tử, Long Thọ hay Cưu Ma La Thập thì cũng
muốn nói quanh nói quẩn cái vô sở trụ, vô sở chấp ấy mà thôi :
Lời thô tục
? Ý u tồn ?
Ý nào u tục
thô ngôn là lời ?
Giả danh
chân đế cũng rồi
Giả danh tục
đế đún đẩy lời cũng qua ?
Trăm năm
trong cõi người ta
Lọ là Long
Thọ lọ là Khổng Khâu ?
Vàng beo lục
gấu trắng trâu
Đìu hiu
trăng mọc nhịp cầu phù du
Bão giông hằng thể bi thanh
Liên Hoa Diệu Pháp lịch hành Thệ Đa
Thập thành sử hiện ra hoa
Thập Ma La
Thập lời Hoa Nghiêm rằng
Rằng thì
là...như thế. Như thế là như thế nào ? Chúng ta hãy nghe Bùi Giáng khề khà đối
thoại thong dong :
“- Đọc thơ văn mày viết ra, tao thấy rằng
thỉnh thoảng mày nói lên đúng cái tư tưởng ẩn mật trong kinh Hoa Nghiêm, mặc dù
mày viết theo cái điệu riêng biệt của mày. Thế nên tao càng ngạc nhiên thấy
rằng thường thường mày cứ luẩn quẩn đọc những sách nhảm nhí lăng nhăng. Tao muốn
hỏi mày tại sao mà như thế ? Mày quên mất cõi tư tưởng lớn hay sao ?
- Tao cũng
chẳng rõ tại sao, nhưng mày thử giải nghĩa tao nghe thế nào là cõi tư tưởng
lớn. Lớn là lớn bằng mặt trời hay mặt trăng hoặc to bự như vũ trụ ?
- Cứ tạm cho
là to bự như vũ trụ.
- Thế thì
tao thử hỏi lại mày : Có khi nào mày nhìn thấy vũ trụ to bự nằm ở ngay trong
một giọt sương ?
- Có
- Trong một
lá cỏ ?
- Có
- Trong một
lổ chân lông ?
- Có
- Thế thì
bây giờ mày đã nhận thấy rằng câu hỏi của mày nêu ra ở trên kia đích thực là
lệch lạc ?
- Có lẽ ”
Thế đó, cảnh
giới Hoa Nghiêm là vậy, thấy tất cả vũ trụ mười
phương, muôn loài vạn vật, thánh phàm, thế gian và xuất thế gian đều nằm gọn
trong tâm của chúng ta đây mà thôi. Tâm như hư không, vốn là rỗng lặng thanh
tịnh, chẳng có hình dáng, không sinh không diệt, nhưng vô cùng diệu dụng rất sinh
động, tuy bất biến mà tùy duyên. Cái tâm sinh động ấy ứng vào lòng thi sĩ Bùi
Giáng nên hồn thơ xuất thần bay bổng lồng lộng giữa trời đất phong quang bát
ngát mông mênh. Bên ngoài thì nhảy múa hát ca nhưng bên trong vẫn tịch nhiên niệm
Phật như thường :
Huyền hoa
đứng ở giữa đường
Người đi rốt
cuộc phi thường vẫn đi
Nam mô Đà
Phật A Di
Lan mùa nam
diện lai quy phục hồi
Con đường hân
hoan sáng tạo bước đi đã quá đổi dập dìu, phiêu lãng hoan say, khiến cho thánh
thần cũng lắc đầu chịu thua, chỉ có những bậc Bồ tát mới độ lượng mỉm cười
tương ứng cùng thi sĩ sâu xa :
Bây giờ
huyền diệu sát na
Bước về gọi
mộng sơn hà Trung Niên
Là thằng thi
sĩ diện tiền
Làm thơ lố
bịch thánh hiền chịu thua
Chỉ duy Bồ tát
vui đùa
Niêm hoa vi
tiếu là vừa lòng thôi
Bồ tát là
người có tâm hồn rộng mở, bao dung, chấp nhận tất cả thuận nghịch tỉnh táo hay
điên rồ của thế gian, luôn ban vui cứu khổ cho con người, như Tuệ Sỹ phát
biểu : ‘‘Không tận hữu vi, Bồ tát chấp nhận sự tồn tại của dị biệt giữa
các loại chúng sinh mà kiến thiết quốc độ thanh tịnh. Không trụ vô vi, Bồ tát
nhận thức tính bình đẳng như hư không trong tất cả các loại chúng sinh, nên mọi
giá trị cá biệt đều được kính trong như
là giá trị phổ quát. Không tận hữu vi, nên Bồ tát xây dựng quốc độ thanh tịnh
không bằng hận thù tranh chấp. Không trụ vô vi, nên Bồ tát xây dựng quốc độ
thanh tịnh bằng tình yêu và sự kính trọng giữa các loại chúng sinh.’’*** Thế là, người thi sĩ tuy điên cuồng nhưng vẫn
được các vị Bồ tát chiếu cố, vì thế cứ tha hồ rong chơi, tiếu ngạo giang hồ và
chuếnh choáng làm thơ tình yêu, ca ngợi tình thương như muốn nhắn gởi điều chi
bí mật cho người em chí cốt vô lường :
Gởi em chút
đỉnh mùi hương
Tình yêu xa
vắng như dường như không
Gởi em mật pháp
phiêu bồng
Ngàn trăng
ngậm bóng sương đồng quy lai
Sau bao nhiêu
trận trận tang bồng, phiêu dật, nhà thơ đã truyền âm nhập mật pháp môn gì
đó ? Chỉ có nàng thơ mới có thể nghe và hiểu ra mật pháp đó mà thôi. Chúng
ta đừng có tò mò mà luận bàn đủ thứ. Thi sĩ hẹn hò nàng thơ cùng gặp nhau ở
phương trời cố quận cuối nẻo nào heo hút tận chân mây :
Mây theo gió
thổi về mau
Bây giờ tiễn
biệt mai sau trùng phùng
Cùng em cố
quận sẽ cùng
Xiết bao tâm
sự điệp trùng tái sinh
Bởi vì cũng từ
nàng thơ huyền mộng, từ ngày em xuất hiện trên mặt đất sa mạc hoang vu này đã
khiến cho thi sĩ bừng ngộ ra một điều chi kỳ bí lặng im :
Em từ thiếu
nữ bước ra
Thành thân
thục nữ tên là thuyền quyên
Mang thêm mỹ
nữ chênh vênh
Em làm đắm
đuối dưới trên bao người
Mỹ nhân cách
điệu tuyệt vời
Giai nhân từ
đó cũng vời tuyệt hơn
Em muôn vạn
xứ êm đềm
Cho em rất
mực muôn nghìn mà ra
Anh từ đó
ngộ thiết tha
Em là vô tận
em là em ơi !
Nàng thơ thỏ
thẻ hỏi chàng thi sĩ đã ngộ điều chi ly kỳ gay cấn như rứa thì chàng nhẹ lắc
đầu chỉ đáp :
Anh chỉ biết
mỗi một điều là như thế
Như thế
nào anh nói rõ em nghe ?
Là thế đó
muôn đời là như thế
Nói làm
gì em nghe nữa làm chi !
Phải chăng
đó là thể lệ vô ngôn, vì ngôn từ bất lực không thể diễn tả được cái trực ngộ
kia ? Thôi đành lặng lẽ lắng nghe điều huyền diệu đang dần dần lan tỏa
quanh gót ngọc em về dưới nắng sớm chiều mưa :
Em đi bất
chợt thượng thừa
Thoảng trong
phút chốc còn lưa muôn đời
Em từ viễn
tượng xa xôi
Về từ thiên
thượng tuyệt vời tố nga
Tình yêu có
lẽ chăng là
Tình thương
vô tận tặng quà vô tâm
Té ra là như
rứa, tất cả muôn sự muôn việc triền miên xảy ra từ xưa đến nay cũng chỉ là vô
tâm, vô niệm như không, chẳng là gì gì hết cả :
Như không là
ấy ruột rà
Như không vô
tận từ ta tặng người
Tặng người
em gái quê, gái phố, gái núi, gái rừng, gái biển, gái thuyền quyên thục nữ mười
phương một bài thơ tình thương yêu bất tuyệt vĩnh hằng :
Tặng em thể
điệu toàn thân
Kết chùm
nguyệt rộng đôi vần thi ca
Tặng em
thỉnh thoảng mà ra
Thiên thu
tặng vật đóa hoa tình đầu
Chiều nay
bỗng thấy tình thương
Chảy tràn
ngập khắp du dương cõi bờ
Chân tình
anh hỏi nàng thơ
Chẳng thà
như rứa chớ bơ vơ - ồ !
Hình thành
tinh thể bài thơ
Vô cùng kiều
diễm một giờ mà ra
Muôn trùng
vĩnh biệt thiết tha
Một giờ như
thể muôn hoa một mùa
Một mùa chi
mà lạ rứa ? Thưa rằng không biết nữa. Chỉ hay rằng, đặc biệt, nhà thơ Bùi
Giáng có một niềm tương ứng đậm đà, thâm sâu đến độ tâm đắc cùng lục bát Nguyễn
Du qua tác phẩm
Truyện Kiều. Hình ảnh thi hào Tố Như luôn luôn xuất hiện, đi về trên khắp hàng
ngàn trang thơ văn dặt dìu lãng đãng :
Sáng nay chim hót thật nhiều
Tưởng nghìn tiếng nói tình yêu đất trời
Chiều nay có lẽ lá rơi
Mưa rừng đổ xuống khắp nơi ào ào
Mai kia sẽ nhớ ngày nào
Ngày nay ấy mộng rì rào máu tim
Thượng thừa tiếng hót của chim
Của gà gáy sáng từ khuya tới giờ
Làm đi làm lại bài thơ
Kể từ tao ngộ bất ngờ Nguyễn Du
Tôi từ muôn kiếp phôi pha
Gặp em ngàn thuở mà ra một thời
Một lần vô hạn em ơi
Gặp từ vô tận đất trời Nguyễn Du
Chào em thiên nữ vong hồn
Thiên thu đã tới mang dồn dập hoa
Tán hoa thiên nữ ấy là
Thúy Kiều vô tận tên là Nguyễn Du
Thúy Kiều một thuở mà ra
Muôn thu vạn thuở nõn nà hiện thân
Kiều ôi có lẽ một lần
Hồng Sơn thiên lý tử phần tái sinh
Một vùng cỏ mọc nước ngâm
Nghìn năm nhớ mãi cung cầm Nguyễn Du
Các con không gặp Nguyễn Du
Chính ông cũng chẳng gặp Du bao giờ
Nhưng bài thơ ấy còn trơ
Bên nguồn vĩnh phúc bất ngờ tỏa ra
Những là ánh sáng chói lòa
Việt Nam văn hiến băng qua dặm nghìn
Đã hơn bốn nghìn năm văn hiến trôi qua,
thi sĩ đi về cố xứ và âm thầm nhập diệu vào cõi miền vĩnh cửu uyên tư :
Về bên cố quận tuyệt trù
Vượt biên giới nhập thiên thu vô lường
Thiên thu vĩnh cửu nằm ngay trong giây
phút bây giờ và ở đây. Không còn biên giới phân biệt nhị nguyên đúng sai, phải
trái, hết rồi những có không, mộng thực giữa chốn tồn sinh. Người thi sĩ hồn
nhiên như trẻ thơ, thở nhẹ nhàng từng điệu thở hài nhi nhẹ vời với tiếng cười
nhẹ nhõm reo vui :
Chưa biết nói đã biết cười
Cười như thượng thặng vẹn mười Như Lai
Hồn như Di
Lặc dẻo dai
Cười không
biết chán chường ai ai người
Quả nhiên nó
đúng là người
Mà sao nó
khác hẳn người chúng ta
Quả nhiên nó
rất là già
Mà sao nó
bảo nó là trẻ thơ
Trẻ thơ nào
có bao giờ
Biết làm thơ
để phượng thờ tình yêu ?
Bùi Giáng là
thế, vẫn tà tà cách điệu tiếu lâm, riễu cợt hài hước cho “vui thôi mà” chớ có
chi đâu mà trầm trọng, nặng nề phê phán đúng sai, trúng trật, dở hay phải không
? Thì ra là vậy, trên con đường miên man sáng tạo, trên ngõ về vô sở trú phong
quang, thi sĩ thung dung trỗi nhịp cung đàn hoan ca, hòa âm cùng cung bậc Bất nhị
như thị như nhiên. Với tinh thần vô sở cầu, vô sở chấp, vô sở đắc, lặng lẽ buông
bỏ, cho và cho hết những gì mà thiên hạ đang đấu tranh, giành giật chiếm hữu
lẫn nhau, thi nhân tự nguyện sống nghèo nàn hàn sĩ, làm kẻ ăn mày, một tên
cuồng sĩ lang thang suốt đời hát bản độc hành ca qua Ngày Tháng Ngao Du làm Rớt
Hột Phiêu Bồng giữa mênh mông thông lộ vô cùng bất tận, ngờm ngợp gió ngàn trăng.
Văn hào Mỹ
vĩ đại Henry Miller nói : “Từ chút ít sách vở tôi đã đọc, tôi nghiệm ra rằng,
những người lặn lội sâu nhất trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc đời,
những người
chính là cuộc đời đều ăn ít, ngủ ít, sở hữu ít hay không có gì cả. Họ không có
bất kỳ một ảo tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường hay duy trì quốc
gia. Họ chỉ quan tâm tới chân lý và chân lý mà thôi. Họ chỉ chấp nhận một hình
thức hoạt động là sáng tạo. Không một người nào có thể chỉ huy công việc họ,
bởi vì họ tự nguyện cho tất cả. Họ cho không, bởi vì đó là cách duy nhất để
cho.”****
Nhận định
trên của Henry Miller rất đúng với trường hợp Bùi Giáng biết bao. Một thi nhân đã
tận hiến cho cuộc sống bằng tất cả tinh thành chân thiết nhất, bằng con đường nghệ
thuật
thi ca.
Nhà thơ Bùi Giáng đã sống trọn vẹn một
cuộc đời hạnh phúc viên mãn theo ý nghĩa đạo Phật. Suốt bình sinh cuộc sống,
thi sĩ là hình ảnh quá cùng đẹp trong cái nhìn của thiên hạ mọi người, nhất là
giới tăng sĩ Phật giáo và giới văn nghệ sĩ, ai ai cũng nhìn ông với niềm ưu ái,
quý mến đầy ngưỡng mộ. Ngưỡng mộ sự tự do tự tại, thung dung thoát tục, không
dính bụi trần mà “hòa cùng ánh sáng, trộn cùng cát bụi ” của thi nhân. Bồng tênh tiêu sái, rong chơi suốt một đời thơ
giữa phố thị phù hoa như một hài nhi tóc bạc thơ ngây, nhảy múa hồn nhiên hát
ca vi vu vi vút.
Cuộc đời Bùi Giáng vô cùng thi vị, một
cuộc đời hoàn toàn sống vì nghệ thuật, dâng hiến tất cả cho nghệ thuật thuần
túy, chỉ biết sống hết mình cho thi ca và đệ nhất hy hữu nàng thơ tuyệt cùng
chơn mỹ :
Em đi hồn nhớ nhung gì
Anh ngồi nhớ cái nhu mì lẻ loi
Trời cho rất mực rạch ròi
Vào trong thục nữ ra ngoài thuyền quyên
Của em toàn thể uy quyền
Của em toàn diện thần tiên dịu dàng
Tư tưởng trong thơ Bùi Giáng mang một ý
nghĩa bùng vỡ khai phóng, đầy ắp hào quang sáng tạo. Tư tưởng nhập cuộc chịu
chơi vào cõi tồn lưu mà vẫn thanh thản thong dong, không dính mắc, không ràng
buộc, không chấp chặt của thi nhân thật chẳng khác gì thái độ vô tâm, vô niệm,
vô sự của những bậc thiền sư. Nhà thơ thõng tay vào chợ, tung hoành ngang dọc, nhảy
múa quay cuồng đủ thể điệu quàng xiên mà vẫn sáng suốt thông tuệ như như.
Tư tưởng phá chấp triệt để của Thiền
tông được thi nhân thể hiện suốt bình sinh cuộc sống bằng chính bản thân mình, như ngụ
ngầm khai thị một điều gì vi diệu mà mỗi một người trong chúng ta phải tự lãnh
hội, tự thấu hiểu ra mà thôi.
Sở dĩ con người đau khổ là vì cố chấp,
chấp ngã, chấp pháp, chấp đủ thử lu bù nên cứ mãi khổ đau trầm thống triền
miên. Muốn thoát khỏi vòng trầm luân khổ não đó, chỉ còn một cách là hãy trở về
lại chính mình, nhận biết cái bản tâm nguyên sơ, sống với thực tại đang là ngay
trong từng hơi thở luôn luôn mới lạ và mới lạ.
Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách nhận xét về
thi sĩ : “Bùi Giáng cũng như một người điên, cỡ Tế Điên. Cũng như Tế Điên, hình
như ông đến cõi đời này để dạo chơi, để đùa rỡn và cũng để giáo hóa cho con
người thấy tất cả đều chỉ là trò ảo giác của sắc thân, của chữ nghĩa, của tư
tưởng, chúng đều là chuyện đáng để đùa rỡn.”*****
Thật vậy, cuộc
rỡn đùa chơi hay đại hòa điệu chơi giữa cõi người ta, vì tất cả mọi sự trên thế
gian này đều chỉ là trò chơi, trò đùa huyễn mộng. Sống là chơi, chết là chơi, điên
rồ là chơi, tỉnh táo là chơi, uống rượu khề khà là chơi, mê gái là chơi, làm
thơ làm thẩn là chơi, làm văn nghệ là chơi, làm cuồng sĩ túy lúy ca là chơi,
làm thiền sư tự do tự tại là chơi, làm bất cứ việc gì cũng là trò chơi, trò đùa
du hý tam muội mà thôi :
Mỗi người có
một cách chơi
Em vui với
gió tôi ngồi nhìn trăng
Em đi năm
tháng thường hằng
Tôi nằm nhớ
mãi hàm răng em cười
Mở tờ giấy
mới ra chơi
Hình như
giấy cũng vui cười với em
Bài thơ do
đó lem nhem
Lúc vui lúc
khổ như em đó mà
Còn tôi vui
khổ thật là
Đảo điên rất
mực tiên nga giật mình
Trăm năm khó
đổi tính tình
Cũng không
có thể làm thinh muôn đời
Thôi thì cứ
nói cho vui
Nghìn năm
chỉ có một đời muôn năm
Làm sao quên
được giọng cười ‘‘vui thôi mà’’ của thi nhân ? Giọng cười ấy vẫn còn đồng
vọng khắp nơi trên mặt đất. Bất cứ ở đâu, nếu ai còn cảm được thi ca và phiêu
lãng đều nói về Bùi Giáng với niềm rỡn tếu, bông đùa một cách vui vẻ, thân mật,
gần gũi như là anh em chí cốt ruột rà vậy.
Ngày tháng vẫn
luân lưu trôi chảy mãi, nói về Bùi Giáng thì bất tuyệt và giọng cười vô sự cũng
mở ra bất tuyệt như Ma Ha Ca Diếp niêm hoa vi tiếu trên đỉnh Linh Sơn rờn mây
trắng từ nghìn xưa cho mãi đến bây giờ :
Niêm hoa vi
tiếu luống từng
Xuân phong
bài động thơ mừng vụt dâng
Người thi sĩ
thượng thừa đã về đã tới nơi chốn quê nhà, đã qui hồi cố quận, nằm ngắm trăng
đón gió cùng mây về hòa điệu khúc cung cầm vô thủy vô chung :
Tâm tình mấy
nẻo mông lung
Ta nằm cố
quận muôn trùng người đi
Kỳ tuyệt cõi
thi ca Bùi Giáng, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng sự sự vô ngại, lý sự viên dung của
pháp giới Hoa Nghiêm. Tư tưởng đó được thi sĩ tiêu dung, tiêu hóa và sáng tạo
thành một nguồn thơ độc đáo vô song. Hồn thơ như ngọn lửa thiêng ngời tỏa ánh
hào quang, cháy bừng lên rực rỡ huy hoàng làm ấm áp khắp mặt đất trần gian,
chan chứa nồng nàn trong cõi người ta tha thiết thiên thu.
Giữa thiên
thu vạn đại, ngưới viết xin kính tặng thi sĩ một bài thơ :
Không chỗ
trú chẳng bến bờ
Vẫn bầu rượu
với túi thơ dặm dài
Ngút mùa
cuồng sĩ lai rai
Nghêu ngao
vô sự hát bài Hoa Nghiêm
Có gì đâu
phải đi tìm
Ba nghìn thế
giới trong tim của mình
Tà tà giữa
cuộc phiêu linh
Một hôm bất
chợt thấy hình bóng xưa
Nên về cà
rỡn bông đùa
Múa ca diệu
dụng cùng mưa nắng cười
Miền hoan hỷ
địa rong chơi
Khơi nguồn
sáng tạo mở trời đất ra
Tâm Nhiên
_______________________________
* Tạp chí Tư
Tưởng số 5. Đại học Vạn Hạnh. Sài Gòn 1969
** Phạm Công
Thiện. Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử, Hoa Kỳ 2009
*** Tuệ Sỹ.
Huyền thoại Duy Ma Cật. Nhà xuất bản Phương Đông, 2007
**** Nguyễn
Hữu Hiệu. Con đường sáng tạo. Nhà xuất bản Hồng Hà, 1973
***** Nguyễn
Tường Bách. Mùi hương trầm. Nhà xuất bản Trẻ, 2001
Thơ văn Bùi Giáng trích trong các tác
phẩm : Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Sa mạc phát tiết, Sa mạc trường ca, Rong
rêu, Như sương, Đêm ngắm trăng, Mùa màng tháng tư, Ký ức, Trúc mai, Mười hai
con mắt, Rớt hột phiêu bồng, Bèo mây bờ bến. Thơ vô tận vui, Tuyết băng vô tận
xứ, Thúy Vân, Mùa xuân trong thi ca, Tư tưởng hiện đại, Lời cố quận, Lễ hội
tháng ba, Ngày tháng ngao du.