Chùa Trấn Quốc - nơi tâm linh của người Hà Nội
Để thực hiện
luận án, Tiến sĩ Hương đã tiến hành điều tra người đi lễ chùa vào ngày mồng một
và ngày rằm hàng tháng. Cách thức của chị là đứng ở cổng các ngôi chùa, cứ thấy
ai đi vào lễ là phát cho họ những phiếu in câu hỏi, đề nghị họ trả lời. Bộ câu
hỏi gồm nhiều mục đề: giới tính, tuổi, học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn
nhân, đã quy y hay chưa, cùng những câu hỏi về hành vi và quy luật đi lễ chùa
của họ.
Ở nhiều vùng nông thôn, người ta
vẫn quan niệm rằng khi phụ nữ bước qua tuổi 50 thì mới bắt đầu tới chùa, gia
nhập hội các vãi để tuổi già thanh thản nơi cửa chùa. Miêu tả theo cách định
tính của Phan Kế Bính trong cuốn sách Việt Nam phong tục thì có thể hình
dung được rằng trong xã hội truyền thống, hầu hết người đi lễ chùa là nữ giới.
Xét về khía cạnh tâm lý, nữ giới dễ tin tưởng vào các đấng siêu nhiên, cũng như
cần chỗ dựa về mặt tinh thần cao hơn nam giới. Nhưng ngày nay, kết quả điều tra
cho thấy, tỷ lệ nam đi lễ chùa chiếm 35%, nữ chiếm 65%. Mặc dù số lượng nữ giới
đi lễ chùa vẫn còn cao gấp 2 lần nam giới, nhưng rõ ràng tỷ lệ nam giới đi chùa
đã tăng cao gấp nhiều lần so với thời xưa.
Quan niệm ở những năm giữa và cuối
thế kỷ XX cho rằng chùa chiền chủ yếu thu hút những người già. Khi còn trẻ,
người ta thường bị cuốn hút bởi rất nhiều hoạt động kinh tế, xã hội, vui chơi
giải trí nên ít chú ý tới tín ngưỡng tôn giáo. Thế nhưng kết quả khảo sát cho
thấy, cơ cấu theo độ tuổi của người đi lễ chùa đang có xu hướng ngày càng trẻ
hóa. Trong những người đi lễ chùa: nhóm tuổi 20-30 chiếm ưu thế hơn cả, tới
40,9%; nhóm tuổi 30-40 chiếm 15,7%; nhóm tuổi 40-50 chiếm 10,9%; nhóm tuổi dưới
20 chiếm 11,3%. Thật ngạc nhiên, khi nhóm tuổi 50-60 chỉ chiếm 8,7% và nhóm
tuổi trên 60 chỉ chiếm 12%. Kết quả xác định với độ tin cậy 99%, tuổi trung
bình của người đi lễ chùa ở Hà Nội hiện nay vào khoảng 33-39 tuổi.
Những con số này dường như đang
làm nảy sinh nghịch lý rằng, khi về già con người không còn nhu cầu tôn giáo? Thực
ra không phải vậy. Vấn đề nằm ở chỗ, tác giả luận án chỉ khảo sát những người
đi lễ chùa, và cũng chỉ tiến hành vào các ngày mồng một và ngày rằm, ở một số
ngôi chùa mà thôi. Trong khi, mối quan hệ giữa người già và hoạt động Phật giáo
được thể hiện dưới rất nhiều hình thức, chứ không chỉ là việc đi lễ chùa. Tại
các chùa chiền ở Hà Nội hiện nay đều có hội gọi là Hội quy, hoặc Hội các vãi,
thành viên của các hội này phần lớn là phụ nữ trên 55 tuổi, với hoạt động khá
phong phú, như tụng kinh trên chùa hàng tuần, tham gia vào các khóa lễ, các
ngày lễ chính của chùa, tổ chức hành hương tới các chùa khác, thăm hỏi gia đình
các thành viên khi có người ốm đau hay tang lễ.
Vào ngày Chủ nhật hàng tuần,
nhiều chùa ở Hà Nội tổ chức thuyết giảng Phật pháp, người tới dự thường xuyên
là những người già. Trước khi vào nghe thuyết giảng, họ đều lễ Phật. Mặt khác,
người già có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn thanh niên và trung niên, nên họ có
thể đi lễ chùa vào bất cứ lúc nào, không nhất thiết phải đi lễ vào ngày rằm,
mồng một. Với thanh niên và trung niên, do bận mưu sinh thường nhật, bận việc
học hành nên mỗi tháng họ chỉ bố trí đi chùa 1-2 lần và thường chọn đi vào mồng
một, ngày rằm.
Từng có một thời, người ta thường
cho rằng các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo chỉ thu hút những người có trình độ
học vấn thấp. Ở nước ta, suốt một khoảng thời gian dài trước đây, một số nhà
nghiên cứu tôn giáo cho rằng, khi con người có trình độ học vấn càng cao sẽ
càng ít lệ thuộc vào tôn giáo. Thế nhưng kết quả khảo sát của Tiến sĩ Hương cho
thấy, chùa chiền ngày càng thu hút người có trình độ học vấn cao. Trong số
những người đi lễ chùa được hỏi, người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên
chiếm tới 61,9%; người có trình độ phổ thông trung học chiếm 18,8%; người trình
độ trung cấp chiếm 7,9%, còn lại là người có trình độ cấp 2 trở xuống.
Nghiên cứu về tình trạng hôn nhân,
tỷ lệ giữa nhóm đã kết hôn chiếm 46,9% và nhóm chưa kết hôn chiếm 43,9% trong
số người đi lễ chùa, số còn lại là người ly thân. Như vậy, sự khác biệt trong
hôn nhân không tác động tới việc họ đi lễ chùa. Riêng ở chùa Hà, người chưa kết
hôn chiếm tới 63,5%, dễ lý giải, vì chùa Hà nổi tiếng về “cầu duyên” nên dễ khi
người đi lễ chùa này phần đông là chưa kết hôn.
Về cơ cấu nghề nghiệp của người đi
lễ chùa, vì thống kê cả nước hiện có hơn 620 nghề khác nhau, nên nghiên cứu của
Tiến sĩ Hương không thể phân tích tỉ mỉ theo từng nghề, mà chia ra làm 7 nhóm.
Nhóm 1 là những người không có hoạt động nghề nghiệp (bao gồm người đã nghỉ
hưu, nghỉ mất sức, nội trợ ở nhà…), chiếm 15,7% trong số những người đi lễ
chùa. Nhóm 2 là những người đang chờ gia nhập thị trường lao động (bao gồm sinh
viên mới tốt nghiệp chưa đi làm, đang chờ việc, những người đang cần tìm kiếm
việc làm...), chiếm 2,6%.
Nhóm 3 tập hợp những người liên quan đến hoạt động
giáo dục và học tập, bao gồm học sinh, sinh viên và giáo viên, khảo sát cho
thấy nhóm này chiếm 28,5% trong số những người đi lễ chùa. Nhóm 4 là những
người tự nhận mình là nhân viên văn phòng, chiếm 7,7%. Nhóm 5 liên quan đến
hoạt động kinh tế (gồm những người kinh doanh buôn bán, tiếp thị, marketing, kế
toán, tài chính…) chiếm 16,1%. Nhóm 6 gồm những người tự nhận mình là cán bộ
nhà nước (công chức, viên chức, công an, quân đội…), chiếm 18,4% trong số những
người được khảo sát. Có 1,7% số người đi lễ chùa đã không trả lời họ làm nghề
gì.
Trong những ngày lễ chính của Phật
giáo, Phật tử đến chùa rất đông và họ tham dự vào các nghi lễ do nhà chùa tổ
chức. Nhưng khảo sát người đi lễ chùa vào ngày rằm, mồng một thì chỉ có 9,7% số
người cho biết là họ đã quy y Tam bảo. Số lượng người đi chùa vào ngày mồng một
luôn cao gấp nhiều lần so với ngày rằm. Có 66,8% số người nói rằng mồng 1 hàng
tháng họ cũng đi lễ chùa, nhưng chỉ có 22,4% số người cho biết họ có đi lễ ngày
rằm.
Một số người bán đồ lễ ở chùa Quán Sứ nhận xét: “Mồng một rất đông, còn
ngày rằm lượng người đi lễ chỉ nhỉnh hơn ngày thường một chút thôi. Lượng hàng
bán ra ngày mồng một thường cao gấp đôi so với ngày rằm”.
Nhiều người có thể không đi lễ chùa vào ngày
rằm, nhưng họ không bao giờ bỏ đi lễ ngày mồng một. Bởi vì, ngày mồng một là
ngày khởi đầu cho một tháng, theo quan niệm của nhiều người những điều xảy ra
trong ngày này sẽ có tác động cả tháng. Tôi đã ghi lại cuộc nói chuyện của 2
người phụ nữ khoảng 26-27 tuổi tại một ngôi chùa: “Hôm nay bực mình quá, lúc
đang lễ thì có người rút đồ lễ ra làm đổ cả đồ lễ của mình. Chẳng lẽ mới đến
chùa đầu tháng ra lại cãi nhau, nên đành phải nhịn”.
Xu hướng ngày càng có nhiều người trẻ đi lễ chùa
Theo cuốn Tập tục và nghi lễ dâng
hương của HT.Thích Thanh Duệ, thì trình tự khi vào lễ trong chùa ở miền Bắc
nên như sau: đầu tiên đặt lễ ở ban thờ Đức Ông (vì Đức Ông là vị cai quản các
công việc chùa chiền, phải lễ Đức Ông trước để xin phép được vào lễ tại chính
điện). Sau đó, đặt lễ tại chính điện (Tam bảo) để lễ chư Phật, Bồ-tát, rồi
thỉnh chuông. Lễ xong chính điện thì mới đi lễ tất cả các ban thờ khác ở bái
đường, cuối cùng là lễ ở nhà Tổ (nhà Hậu). Cuối buổi lễ sau khi đã hạ lễ, nên
đến nhà Trai giới hay đến phòng tiếp khách của nhà chùa để hỏi thăm các vị sư,
Tăng trụ trì.
Thế
nhưng kết quả khảo sát cho thấy, chỉ có 6,8% số người đi lễ theo đúng trình tự
này; 89,2% số người nói rằng họ không có trình tự đi lễ cố định. Có tới 69,3%
số người không bắt đầu từ ban thờ Đức Ông, mà lễ ở Tam bảo trước tiên, rồi đến
các ban thờ khác. Có chưa tới 2% số người đi lễ xong vào thăm các chư Tăng trụ
trì chùa, đa số đều nói họ không quen các sư trụ trì nên không dám.
Tỷ lệ người
đã quy y rất thấp, vì vậy trong thực hành khuôn mẫu của người đi lễ chùa thường
không đúng theo chuẩn mực của Phật giáo hiện nay là điều dễ hiểu. Mối liên kết
giữa các nhà chùa và người đi lễ vẫn còn rất lỏng lẻo, vì vậy các chùa cần phải
tăng cường các hoạt động gắn kết nhiều hơn với người đi lễ chùa, đẩy mạnh tuyên
truyền hướng dẫn họ thực hành lễ chùa theo chuẩn mực, đồng thời đưa giáo lý nhà
Phật đến với người đi lễ chùa.
Đó là những suy tư từ các con số thống kê ban đầu ở
một số ngôi chùa, vào những thời gian nhất định là rằm và mùng một âm lịch hàng
tháng tại Hà Nội qua khảo sát của Tiến sĩ Hoàng Thu Hương.
Thiết nghĩ, những
khảo sát thực tế như thế này ở các phương diện khác, trên nhiều địa phương,
chẳng hạn như nhận thức của người đi chùa về Phật pháp như thế nào…, để có
những định hướng trong công tác hoằng pháp của Giáo hội, nhằm điều chỉnh hành
vi của người đi chùa, người có tín ngưỡng đạo Phật, phù hợp với Chánh pháp và
truyền thống văn hóa Phật giáo Việt Nam.