Đỗ Đình Đồng Góp Nhặt
DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN
(333 Câu Chuyện Thiền)
tức GÓP NHẶT CÁT ĐÁ
Hiệu Đính và Bổ Sung
151. KHUYẾN CÁO CÁC THIẾU NỮ
Một vị sư già đã từng trải qua một cuộc đời dài và sinh
động, được giao cho vai trò tuyên huấn ở một học viện nữ sinh. Trong các cuộc thảo luận nhóm ông thường thấy
rằng đề tài tình yêu đã trở thành đề mục chính.
Điều đó đã tạo thành lời khuyến cáo cho các thiếu nữ như
vầy:
Các con hãy hiểu rằng trong đời sống bất cứ điều gì thái quá
cũng trở thành nguy hiểm. Quá giận dữ trong chiến đấu có thể đưa đến liều lĩnh
và cái chết. Quá nhiệt tình trong các niềm tin tôn giáo có thể đưa đến tâm trí
khép kín và ngược đãi tôn giáo. Quá đam mê trong tình yêu tạo ra những mộng ảnh
về người mình yêu--những hình ảnh mà cuối cùng tỏ ra là giả và sinh ra giận dữ.
“Yêu thái quá là liếm mật trên mũi dao nhọn.”
Một thiếu nữ hỏi:
- Nhưng là một ông sư độc thân, thầy làm sao biết được tình
yêu nam nữ ?
Vị sư già đáp:
- Các con thân
mến, có lúc ta sẽ kể cho các con
nghe tại sao ta trở thành nhà sư .
(Ngụ Ngôn Thiền)
152. BẤT CỨ QUYỀN HẠN
NÀO
Vị tổng quản các Thiền viện trên đảo Honshu trở nên phiền
não vì các báo cáo về những hành vi xấu nghiêm trọng tại ngôi chùa đẹp nhất của
họ ở thành phố hải cảng Yokosuka. Một
thời nó đã là lâu đài rồi được cúng dường cho cộng đồngThiền viện. Tăng chúng
(cũng là người) khó mà nhớ lời thệ nguyện sống cảnh thanh bần trong tình thế
lãng phí như vậy. Để đối phó tình trạng, ông gọi một trong những trưởng lão
đang ẩn cư trong sơn động đến.
Vị tổng quản nói:
- Tôi muốn trưởng lão điều tra những kẻ chịu trách nhiệm
chuyện trụy lạc, chuyện mua bán sa đọa và những hành vi bất chính khác.
Vị trưởng lão
hỏi:
- Nhiệm vụ của tôi là gì?
Tổng quản nói :
- Sửa chữa.
- Quyền hạn của tôi là gì?
- Bất cứ quyền hạn nào ông cần. Không hạn chế.
- Bao lâu ?
- Bao lâu ông cần.
Hai tuần lễ sau
vị trưởng lão trở về. Tổng quản hỏi:
- Về sớm thế?
- Vâng, đúng là sớm.
- Cách nào?
Vị trưởng lão
đáp:
- Lấy đuốc đốt
sạch.
(Ngụ Ngôn Thiền)
153. HÃY NÓI CHUYỆN
TỪ BI TRƯỚC ĐÃ
Một cậu bé mồ côi bảy tuổi được gửi đến một ngôi chùa vì cậu
không có gia đình nào khác hơn là ông chú họ xa. Ông chú chưa bao giờ gặp cậu
bé nói:
- Thà làm chú
tiểu còn hơn chết đói .
Ở trong chùa cậu bé lên cân nhưng trở thành bất hạnh vì kỷ
luật khắc nghiệt--bất hạnh đến nỗi cậu phải chạy trốn. Khi nhà cầm quyền mang trả lại, vị trụ trì đe
dọa trục xuất cậu bé, hỏi:
- Có lẽ mi
thích ra ngoài thế gian một mình để chết cóng?
Cậu bé đáp:
- Cảm ơn, thà
tôi chết rét ngoài phố còn hơn là sống ấm ở đây để bị hành hạ.
Vị trụ trì
nói:
- Nhưng ở đây
mi được học tụng kinh.
Cậu bé vừa
giở chiếc áo lên vừa nói:
- Hãy nói
chuyện từ bi với tôi trước đã.
Vị trụ trì đang chuẩn bị một câu trả lời châm chích; tuy
nhiên khi nhìn thấy những lằn roi kỷ luật trên lưng cậu và nước mắt rưng rưng
trên mắt cậu thì câu trả lời đã nghẹn lại trong cổ họng vị trụ trì.
- ‘Hãy cho chúng
tôi một cơ hội nữa,’ vị trụ trì van xin và ra lịnh đốt ngay chiếc roi kỷ luật.
Cậu ở lại chùa mười bảy năm cho đến khi cảm thấy mình sẵn
sàng đi vào thế gian như là một lão sư .
Bấy giờ được gọi là Kazi, sư trở thành nổi tiếng là nhà hòa
giải trong các cuộc tranh luận, dù cho kết quả cay đắng đến đâu.
Khi mỗi bên tuyên bố trường hợp của mình, sư đều chen vào
vấn nạn nổi tiếng của sư...
“Vâng, nhưng hãy nói chuyện từ bi
với tôi trước đã.”
(Ngụ
Ngôn Thiền)
154. TÔI KHÔNG MUA
CHUYỆN NGHIỆP NÀY ĐÂU
Một thanh niên
xuất thân từ trường đại học nói:
- Tôi không mua chuyện Nghiệp này đâu. Nó trái với cảm nhận
hoài nghi của tôi. Làm sao trong đời này chúng ta có thể chịu ảnh hưởng của
những lỗi lầm trong đời trước? Tôi không tin ngay cả chuyện tái sinh.
Vị thầy dạy Thiền nói:
- Hãy bắt đầu ở đây. Hãy suy xét mỗi buổi sáng anh thức dậy
là một người mới. Anh đến giường, anh ngủ, rồi anh thức dậy và anh bắt đầu trở
lại quãng đời còn lại của anh. Anh có sự chọn lựa vô giới hạn những gì anh muốn
làm và nhân vật gì anh muốn trở thành vào ngày hôm đó. Tuy nhiên, tất cả nhân
và duyên của đời anh trước sáng hôm đó trợ giúp những gì anh sẽ làm và sẽ là.
Nghiệp cũng như vậy.
- Vậy ...?
- Vậy có thể suy xét điều này: Hằng ngày hãy làm việc cực
nhọc hơn một chút để trở nên từ bi hơn.
- Và...?
- Và có thể anh sẽ không trở lại làm một ông thầy dạy Thiền
tồi cố gắng giúp một thanh niên sáng láng có tâm trí trì độn.
(Ngụ Ngôn Thiền)
155. PHÂN TRÂU CŨ ĐI ĐÂU CŨNG VẬY
Một viên
quan nhỏ đã tiêu phí phần lớn đời mình làm thị vệ phục vụ hoàng đế trong hoàng
cung. Khi đã lớn tuổi, ông ta bắt đầu
ghét những tranh biện nhỏ nhen và sự dùng mưu kế để tranh đoạt địa vị .
Đến khi về hưu, ông ta ly dị bà vợ
vô tích sự và dời đến một ngôi chùa Thiền nào càng xa kinh đô càng tốt.
Ông ta tự hứa với mình:
“đây, không có những ti tiện nhỏ bé của bản tánh con người, nếu không
giác ngộ thì ta cũng được yên tĩnh.”
Đến khi ở trong chùa, ông ta thấy
mình lên chức nhanh chóng trong hệ thống đẳng cấp; những kỹ năng cũ trong đời
sống cung đình lại dự phần ở đây
Mười một tháng sau, ông ta dọn ra
khỏi chùa và đến ở trong một sơn động đạm bạc. Khi có người hỏi lý do, ông
ta giải thích: “Phân trâu cũ đi đâu cũng vậy.”
(Ngụ Ngôn Thiền)
156. TẠI SAO TÔI PHẢI
NGỒI THIỀN
Một đêm nọ,
hoàng tử hỏi thầy:
-Tại sao tôi phải ngồi thiền đạt ngộ? Tôi có thể nghiên cứu,
có thể cầu nguyện, có thể suy nghĩ các vấn đề một cách rõ ràng. Tại sao phải làm cái việc rỗng tâm ngốc
nghếch này?
-Tôi sẽ chỉ
cho.
Ông thầy đáp, rồi lấy cái thùng múc đầy nước xách ra vườn
dưới ánh trăng tròn. Ông khuấy động mặt nước trong thùng rồi hỏi:
- Bây giờ anh thấy gì?
Hoàng tử đáp:
- Những lằn
sáng.
Ông thầy bảo:
- Đợi một lát.
Rồi ông đặt thùng nước xuống đất. Hai thầy trò nhìn mặt nước dần dần trở nên
yên tĩnh trong chiếc thùng tre sau mấy phút.
Ông thầy lại
hỏi:
- Bây giờ anh
thấy gì ?
Hoàng tử đáp:
- Mặt trăng.
- Như vậy đó,
ông chủ trẻ, cách duy nhất để đạt ngộ là tâm yên tĩnh.
(Ngụ Ngôn Thiền)
157. ĐÊM QUA TÔI LÀ
KHÁCH...
Ở Nhật, viếng kỹ viện là một phần
chánh thức (nếu không nói ra) trong truyền thống tu luyện Thiền. Thiền tăng
Dịch Đường, cũng như hàng ngàn tăng nhân khác trước ông, đã sống một đêm ở nhà
các geisha (kỹ nữ). Sáng hôm sau, Dịch Đường nói với bà chủ: “Đêm qua tôi là
khách của bà, nhưng sáng nay tôi là tu sĩ.
Hãy cho phép tôi làm Phật sự để tất cả mọi người trong nhà bà được phúc
lợi.” Bà chủ ngạc nhiên
nói, “Đây là lần đầu tiên một ông tăng không lẫn trốn như một ‘bác sĩ ’ hay một ‘sinh viên’. Ngày nào đó,
người này sẽ là một nhân vật.” Lời tiên đoán đã trở thành sự thật, quả nhiên
sau này Dịch Đường được chỉ định làm Trưởng quản phái Thiền Tào Động.
(Phật Giáo và Tính Dục)
158. CHÚNG TA HÃY CỨ
NHƯ VẬY ĐI
Một cô gái trong nhà geisha (kỹ nữ)
chào Thiền sư Mokudo bằng tên thế tục của sư.
Sư bước vào trong và khám phá ra cô gái là người quen thuở thơ ấu. Một năm làng quê bị mất mùa, cô gái trở thành
một kỹ nữ để trợ giúp gia đình. Họ nói chuyện xưa với nhau mãi cho đến chiều,
rồi cô ta yêu cầu sư ở lại đêm. Sư trả tiền cho bà chủ và cô gái trải chăn màn.
Cô ta kéo tấm chăn lại và nói: “Hãy đến đây với em. Chẳng ai biết đâu.” Mokudo đáp: “Cô tử tế mời
tôi, nhưng tôi nên ngồi thiền tốt hơn. Nghề cô đang làm là ngủ với khách, còn
việc hiện tại của tôi là ngồi thiền. Chúng ta hãy cứ như vậy đi.”
(Phật Giáo và Tính Dục)
159. LỜI MỜI CỦA ĐIẠ
NGỤC
Thiền sư Nhất Hưu có lần chạm trán
với một danh kỹ có biệt hiệu là “Địa Ngục”. Nhãn hiệu thương mại
của sắc đẹp quyến rũ chết người này là những chiếc áo xa hoa lộng lẫy của nàng,
trên ấy vẽ cảnh những kẻ tội lỗi rơi xuống Địa Ngục Dục Vọng, bị tra tấn dày
vò. Khi Địa Ngục nghe Thiền sư Nhất Hưu
đang ở trong thành phố, nàng gửi đến sư lời mời úp mở: “Một nhà ẩn tu như
ngài nên sống trong núi sâu, đâu phải ở đây trong thế gian trôi nổi này.”
Nhất Hưu đáp
lại bằng bài thơ Thiền như sau:
Bởi vì chẳng có thân, tâm Ta ở
cả núi sâu và thế gian trôi nổi .
Trước khi quyết định chấp nhận lời
mời của nàng hay không, Nhất Hưu đã dò hỏi về cái Địa Ngục đặc biệt này và được
cảnh cáo là coi chừng bị bỏng. Sư gửi
một bức thư ngắn khác: “Địa Ngục còn đáng gờm hơn ta
tưởng.” Nàng viết thư trả lời: “Không một nam nhân nào thoát khỏi
móng vuốt của Địa Ngục.”
Sư quyết định không nhận lời thách
thức và không xuống cái Địa Ngục đặc biệt này.
(Phật Giáo và Tính Dục)
160. ĐÀN BÀ LÀ KHO
TÀNG
CỦA PHẬT GIÁO
Một hôm, Thiền sư Nhất Hưu hành cước
qua một khu vực biệt lập, bất ngờ thấy một người đàn bà trần truồng chuẩn bị xuống
sông tắm. Sư dừng lại, hướng về phía âm hộ của người đàn bà bái ba bái rồi tiếp
tục đi. Những người đi đường chứng kiến cảnh ấy, chạy theo hỏi sư về hành động
kỳ lạ này: “Một người đàn ông bình thường, nhất là một tu sĩ Phật giáo,
sẽ liếc mắt đưa tình với người bàn bà khỏa thân đó. Tại sao sư lại cúi đầu bái
trước âm hộ của bà ta?” Sư đáp một cách sắc bén: “Đàn bà là kho tàng của Phật giáo,
là nguồn lưu xuất tất cả chúng sinh, kể cả Phật và Bồ-đề Đạt-ma.”
(Phật Giáo và Tính Dục)
161. TÔI KHÔNG MUỐN
NỮA, CẢM ƠN
Tatsu-jo là vợ của một trong những đạo hữu của
Thiền sư Nhất
Hưu, một hôm đến chùa phàn nàn về sự bất chính đáng nghi ngờ của chồng.
Nhất Hưu mỉm cười nói: “Đừng lo.” Họ uống rượu nho với nhau, và Nhất Hưu bắt
đầu nắm tay bà. Tatsu-jo ngạc nhiên và nói bà phải đi. Nhất Hưu bảo bà ở lại
đêm, bà tức giận ra về. Vừa khóc bà vừa kể cho chồng nghe những gì đã xảy ra,
nhưng chồng bà chỉ cười, nói: “Ồ, Nhất Hưu thực là một ông Phật sống, bà có ngủ
với ông ấy cũng chẳng có gì sai cả. Cứ đi đi!” Tatsu-jo miễn cưỡng mặc quần áo
đẹp, trang điểm lộng lẫy và trở lại chùa.
Khi gõ cửa phòng, bà ta nói giọng
nhỏ nhẹ, “Lúc chiều em chẳng nên từ chối thầy. Chồng em đã cho phép em
đến đây. Bây giờ em đây nè!” Nhất Hưu
tặc lưỡi, không mở cửa, nói: “Tôi không muốn nữa, cảm ơn. Lúc ấy
tôi cảm thấy như vậy, bây giờ thì không. Xin hãy về nhà đi.” Tatsu-jo phẫn
nộ vô cùng, nhưng chẳng làm gì được, vì vậy bà trở về nhà kể cho chồng nghe kết
cuộc câu chuyện. Ông chồng vỗ tay nói: “Khi
ông động, ông động, không ai làm ông động được.”
(Phật Giáo và Tính Dục)
162. NẾU ANH THẬT YÊU
TÔI, HÃY ÔM TÔI ĐI
Ở Nhật không có nhiều nữ Thiền sư,
nhưng Eshun là một trong những người sắc bén nhất, kể cả nam lẫn nữ. Vì bà đã
nổi danh cả nước là cô gái có sắc đẹp vô song, anh trai của bà, hoà thượng
Ryoan, đã chùn bước khi bà yêu cầu được thọ giới làm ni cô. Khi bà yêu cầu, Ryoan gạt đi, nói: “Chỗ của đàn bà
là ở trong nhà. Em có thể tu học Phật giáo một cách hoàn hảo như là một nữ cư
sĩ. Vả lại, em đẹp quá. Tăng chúng không phải bao giờ cũng có thể tự kìm chế họ được.” Vài ngày sau
Eshun trở lại, lần này với đầu cạo trọc
và cái mặt lệch lạc vì cô đã dùng than hồng đốt da mặt.
Thấy quyết tâm của cô, Ryoan bớt
nghiêm khắc, nhưng ngay cả với cái mặt có sẹo và quần áo lụng thụng che dấu
thân hình, Eshun vẫn đẹp không chê được.
Một ông tăng trẻ thầm yêu cô, nhét vào ống tay áo cô một lá thư
tình. Eshun viết thư trả lời: “Tôi chấp nhận
đề nghị của anh, nhưng vì chúng ta đã có lời thệ nguyện không gặp nhau bí mật.
Tôi sẽ cho anh biết thời gian và địa điểm.”
Lần kế khi tăng chúng tập hợp để
nghe vị sư trụ trì thuyết pháp. Eshun bỗng nhiên xuất hiện trước chánh điện,
không mảnh vải che thân. Cô đứng trước mặt ông tăng đa tình, nói: “Nếu anh thật
yêu tôi, hãy ôm tôi đi.” Ông tăng xấu hổ, bỏ chạy khỏi
chùa; trong khi vị trụ trì và tăng
chúng còn
lại mặt trơ như tượng gỗ.
(Phật Giáo và Tính Dục)
163. CÁI CỦA BỔN NI
SÂU KHÔNG CÓ ĐÁY
Vào một dịp khác, hòa thượng Ryoan
quyết định phái Eshun làm đại biểu đi dự một cuộc hộp được tổ chức tại ngôi
chùa lớn Viên Giác ở Kiêm Thương. Một
vài tăng nhân láo cá ở đó nghe được tin này liền bày ra qủi kế để trắc nghiệm
cô ni này. Không bao lâu sau khi cô đến chùa Viên Giác, một ông tăng nhảy ra
trước mặt cô, tự phô mình ra nói, “Cái của lão tăng đây dài ba
trượng! Còn đó thế nào?”
Không một chút do dự, Eshun mở vạt áo trước ra đáp: “Cái của bổn ni
đây sâu không có đáy,”
và lướt qua cạnh ông tăng.
(Phật Giáo và Tính Dục)
164. CÔNG ÁN CỦA
SHOSAN
Ở một ngôi chùa nọ có một nữ cư sĩ
rất sắc bén tên là Mujaku. Vị Thiền sư ở đó gửi tất cả những tăng nhân đã tu
lâu đến nữ cư sĩ này để dùng lửa thử vàng. Man-an, một trưởng lão có chỗ khác
người, đến để đọ sức Thiền. Mujaku gọi Man-an vào phòng của bà. Khi Man-an bước
vào liền thấy bà đang nằm trần truồng ngay đó.
Man-an chỉ ngay chỗ kín của bà, hỏi:
- Cái gì đó? Có phải là cửa chính đưa vào trần gian không?”
Mujaku đáp:
- Tất chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai; tất cả sáu
Tổ sư Thiền, tất cả chư đại đức thượng tọa đều do chỗ ấy mà đến.
Man-an hỏi:
- Như lão
tăng đây có thể trở lại chỗ đó được chăng?
Mujaku đáp:
- Bọn lừa
đực, ở đây chẳng có chỗ trở lại.
Mujaku vừa nói vừa quay phắt lại phía Man-an, dang hai chân
phô ra chớp nhoáng. Man-an mặt đỏ bừng, lúng túng, vội vã rút lui.
Công án của Shosan: Ông làm thế nào để
đáp câu hỏi, “Như lão tăng đây có thể trở lại chỗ đó được chăng?”
(Phật Giáo và Tinh Dục)
165. GỐC CỦA SANH TỬ
Thiết Chu là một cư sĩ ngộ đạo thời Minh Trị, sau trở thành
Thiền sư nổi tiếng. Chữ viết kiểu nghệ
thuật xuất sắc của ông được trưng bày trong các kỹ viện và các khu hành lạc. Có
lần ông tiết lộ:”Ngay cả sau khi ngộ, vấn đề tính dục căn bản vẫn cứ tồn tại. Mãi cho đến lúc năm bốn mươi chín tuổi (Thiết
Chu mất lúc năm mươi hai tuổi) tôi mới vượt qua được đam mê tính dục.”
Một người bạn gợi ý Thiết Chu rằng cư sĩ gìa rồi. Thiết Chu
bảo: “Không phải. Đam mê tình dục mà ông muốn nói là sự ham muốn
thể xác. Tôi đã vượt qua cái ấy lúc ba mươi mấytuổi. Nếu một người không thể
thâm nhập bản tánh của đam mê tình dục--gốc rễ của sinh tử và sức sống căn
bản-- đến tận cội nguồn của nó, cái ngộ của người ấy không có giá trị.”
Tính dục là
công án tối thượng.
(Phật Giáo và Tính Dục)
166. LÀM SAO DỨT BỎ
ĐAM MÊ TÌNH DỤC
Một trong
những đệ tử có gia đình của Thiền sư
Thiết Chu có lần nói với sư:
-Muốn thực sự
tu Thiền, cần phải dứt bỏ đam mê tính dục.
Sư cười
lớn, nói:
- Cảnh giới anh đang nhắm đến thực là cao vời. Đam mê tính
dục là cội rễ của toàn thể cuộc tồn sinh. Làm cách nào anh có thể dứt bỏ nó
được?
- Bằng cách lìa xa vợ tôi và tránh xa tất cả mọi người đàn
bà khác; lúc ấy mọi cám dỗ tính dục sẽ không nổi dậy.
- Vậy có hơi ích kỷ không? Vợ anh sẽ ra sao, một người bạn
đường trung thành đã hai mươi năm? Đó hoàn toàn không phải là cách dứt bỏ đam
mê tính dục -- đó chỉ là lẫn tránh nó thôi.
- Vậy làm sao
tôi có thể nhổ hết gốc rễ của đam mê tính dục?
- Hãy lao mình vào thế giới đam mê tính dục, làm cạn hết mọi
khả năng của nó, rồi anh sẽ thấy được giải thoát. Hãy yêu vợ anh và tìm giác
ngộ ngay giữa dòng đời - đó là ý nghiã của Thiền.
(Phật Giáo và Tính Dục)
167. NGƯỜI TU KHÔNG
NÊN GẦN ĐÀN BÀ
Trái ngược với quan điểm của Thiền sư Thiết Chu, Munan--một
Thiền sư Nhật khác--viết: “Không một tăng nhân hay tu sĩ nào
nên gần đàn bà. Dù cho không phạm giới luật thì ông ta cũng không thể ngăn được
tâm mình không bị ảnh hưởng vì sự hiện của người đàn bà. Vì vậy, gần gũi với
một người đàn bà là khởi đầu tạo nghiệp hướng về cảnh giới súc sinh. Tôi lấy sự
tránh xa đàn bà làm pháp môn tu tập của tôi bởi vì tôi ý thức được dư tập thú
tính trong tôi.”
(Phật Giáo và Tính Dục)
168. THẬT LÀ MỘT THỬ
THÁCH GIAN NAN
Thiền sư Mặc Lôi là trụ trì chuà Kiến Nhân ở Kyoto trong một
thời gian dài. Sư so sánh tu Thiền với
việc chui vào một trái bầu. Chỗ hở thì cực kỳ chật hẹp, nên hành giả phải tự
kiểm soát mình thật chặt để chui qua. Vì
vậy, sư ca ngợi Nantembo như là tấm gương sáng. Khi Nantembo ngồi thiền, hình
ảnh của những người đàn bà đẹp hiện lên trong tâm làm ông hưng phấn. Nantembo
nguyền rủa sự hưng phấn, dùng sức mạnh tuyệt đối của ý chí đè bẹp những ảo ảnh
cám dỗ đó. Chính Natembo đã kể lại câu chuyện sau đây: “Có lần tôi đang
du hành trên một con thuyền, ở một hải cảng nọ những hành khách cùng đi với tôi
gọi một nhóm kỹ nữ đến để mua vui. Họ cũng gọi cho tôi một cô, nhưng tôi chỉ
trả tiền và bảo cô ta đi đi . Các khoan thuyền chật như nêm. Tôi không có sự
chọn lựa nào cả mà chỉ có thể đặt mình xuống giữa sự cuồng lạc để ngồi thiền.
Thật là một thử thách gian nan.”
(Phật Giáo và Tính Dục)
169. ĐI CHƠI ĐÊM
Tangen là đệ tử giỏi nhất của Thiền sư Tiên Nhai, nhưng có
một tật xấu. Hầu như đêm nào Tangen cũng leo tường chùa ra ngoài đến các khu
hành lạc. Mặc dù Thiền sư Tiên Nhai rất hiểu bản chất con người, (có lần trong
lúc trời đang mưa tầm tã, sư đã sai một chú tiểu đem dù đến kỹ viện cho Tangen)
sư cảm thấy rằng sự quá độ như thế sẽ làm bại hoại người đệ tử của mình. Một
đêm sư dời hòn đá làm chỗ kê chân để leo tường của Tangen và ngồi ngay vào chỗ
đó tọa thiền. Ngay trước khi trời rạng đông, Tangen leo qua tường, trượt chân
trên một cái gì âm ấm, chạy vào chùa lấy làm lạ, tự hỏi: “Mình đã dẫm lên
cái gì ngoài đó?” Đến sáng, khi không thấyThiền sư Tiên Nhai xuất hiện trong
giờ họp, Tangen hỏi lý do. Có người trả lời rằng, “Hoà thượng bị
đau đầu dữ lắm.” Nhận thức được việc gì đã xảy ra, Tangen thề quyết tâm tu
sửa phong cách của mình.
(Phật Giáo và Tính Dục)
170. Ở HOÀN CẢNH NÀO
CŨNG NGỘ ĐƯỢC
Ohashi, nữ đệ tử của Thiền sư Bạch Ẩn, đã có thể đạt ngộ
ngay trong thời gian làm kỹ nữ. Là một thiếu nữ đáng yêu và có tài, Ohashi đã ký giao kèo làm kỹ nữ để
trợ giúp gia đình khi người cha samurai của cô thất nghiệp vì ông chủ lãnh chúa
qua đời. Tuyệt vọng vì số mệnh, Ohashi được một
ông tăng khách làng chơi hiền triết tặng lời khuyên như vầy: “Có thể đạt
ngộ và an tâm trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay cả ở đây trong chốn hoa tường
liễu ngõ này. Hãy tìm Phật ở mọi nơi và cô có thể đạt được giải thoát.” Từ đó về sau,
Ohashi cần mẫn ngồi thiền và quán xét chính cuộc sống như là công án tối hậu và cô đã đạt ngộ như vầy:
Để trừ bỏ tánh sợ sấm của mình, một hôm Ohashi quyết tâm
ngồi ở phía trước hiên nhà trong lúc có cơn bão mãnh liệt. Một lằn sét xẹt qua
ngay trước mặt, đánh cô bất tỉnh. Khi tỉnh lại, cô cảm thấy tựa hồ vũ trụ như
là của mình. Thiền sư Bạch Ẩn xác nhận cô đã ngộ, điều ấy chứng tỏ rằng ngay cả
một cô gái giang hồ cũng có thể thành Phật được. Cuối cùng Ohashi được một khách làng chơi
quen thuộc giàu có chuộc ra và cô đã kết hôn với ông ta. Sau đó,
được chồng cho
phép, cô trở thành một ni cô.
(Phật
Giáo và Tính Dục)
171. ÔNG CÓ CÔ CON
GÁI
KHÁ SẮC SẢO ĐẤY
Một trong những nữ đệ tử nhiều màu sắc của Thiền sư Bạch Ẩn
là Satsu. Tuổi lập gia đình của các cô gái thường là khoản mười sáu, mười bảy,
nhưng Satsu gặp phiền não trong việc thu hút các chàng trai theo đuổi bởi vì cô
xấu xí. Cha mẹ cô đã dạy cô cầu nguyện Bồ Tát Quan Âm để gặp được chàng trai
thích hợp. Một hôm cha cô sững sốt vì thấy cô đang ngồi trên một cuốn kinh Quan
Âm. Ông phẫn nộ hét lên:
- Mi làm gì mà
ngồi trên cuốn thánh thư đó ?
Satsu tỉnh
bơ đáp:
-Việc gì thế? Có gì khác nhau giữa
cái mông và cuốn kinh?
Không nói
thêm tiếng nào, người cha liền đến Thiền sư Bạch Ẩn tham hỏi ý kiến. Sư mỉm
cười nói:
- Ông có cô con gái khắc sắc sảo đấy. Hãy đem bài kệ của tôi
về cho cô ta làm công án:
Trong bóng tối ban đêm
Nếu nghe được tiếng con quạ không kêu,
Tương lai vô sinh
Và con có thể hiểu được tình cha thương
yêu.
Khi đọc bài kệ, hầu như Satsu không có ấn tượng gì, “Đó có
gì hay đâu ? Bạch Ẩn đâu có hay hơn con tí nào!”
Satsu trở thành đệ tử của Bạch Ẩn,
nhưng cô ta thật là rắc rối. Một lần trong lúc độc tham cô yêu cầu Bạch Ẩn giải
thích chỗ khó. Ngay khi sư vừa bắt đầu nói, Satsu cắt ngang, “Cảm ơn thầy,” rồi bỏ đi, để
sư ngồi há hốc mồm.
Satsu phản đối các đám hỏi cưới cô,
nhưng khoản năm cô hăm ba tuổi, Bạch Ẩn bảo, “Con hiểu rõ Thiền nhưng con cần
phải đưa nó vào thực hành. Đối với con tốt hơn hết là nên lấy chồng, hành động
phù hợp với luật âm dương tự nhiên. Tinh thần và thể xác, giác ngộ và hiện thực
phải hoà hợp với thực tế cuộc sống hằng ngày.”
Satsu theo lời thầy khuyên, lấy
chồng. Sau này khi một trong những đứa cháu thương yêu chết, bà khóc nước mắt
như suối, một người hàng xóm vô tình nói, “Tôi nghe bà đã ngộ và được Thiền
sư Bạch Ẩn ấn chứng, tại sao bà lại còn đa mang như vậy?”
“Đồ ngu!” bà mắng trả. “Nước mắt của ta tưởng nhớ còn
nhiều hơn cả trăm hòa thượng tụng niệm bi thương. Nước mắt này tưởng niệm tất
cả những trẻ em đã
chết. Đây chính
là cảm xúc của ta trong giây phút này.”
(Phật Giáo và Tính Dục)
172. ĐAM MÊ VÀ GIẢI
THOÁT
Môn “Vũ Điệu Thiền Tăng” của người
Triều Tiên bắt nguồn từ câu chuyện tình như vầy:
Chini là kisaeng (kỹ nữ) đẹp nhất đương thời. Cô ta tự tin
rằng không một nam nhân nào có thể cưỡng lại cô ta được, và khi cô ta nghe nói
rằng có một Thiền tăng thánh thiện đã sống ba mươi năm trong núi sâu, cô ta bèn
tìm cách cám dỗ ông tăng. Chini được chấp nhận làm đệ tử, nhưng ông tăng,
Chijok, luôn luôn đề phòng. Ông ta đã cưỡng lại được sự cám dỗ, cho đến một
ngày hè trời mưa khi Chini nhảy ra sân và bắt đầu vũ dưới mưa. Sau khi nhảy múa
đến lúc xuất thần, Chini đi vào am, cởi bỏ quần áo, ôm lấy Chijok bấy giờ đã
hăng say, và hai người trở thành một. Chijok đã trở về với thế gian sau kinh
nghiệm này, và người ta thường thấy Chijok nhảy múa hạnh phúc trên đường phố.
Khi có người hỏi ba mươi năm ở núi thích
thú thế nào, Chijok đáp: “Tuyệt diệu!” Nếu có ai hỏi:
“Tại sao ông trở lại thế gian?”
Chijok trả lời: “Chini đã cứu tôi khỏi mục rã trong núi sâu.” Một điệu vũ
đặt căn bản trên biểu diễn trữ tình của Chijok mang tên là “Đam Mê,” một
điệu khác đặt căn bản trên những bước lãng mạn của Chini gọi là “Giải Thoát.”
(Phật Giáo và Tính Dục)
173. THỂ HIỆN CÁI DỤNG
CỦA PHẬT TÁNH
Trong một bản văn được qui cho là của Bồ-đề-đạ-ma, Đại Tổ sư
Thiền Tông, có chỗ nhấn mạnh rằng: “Cư sĩ cũng như tăng ni tất cả vốn
là Phật, hễ ai thấy tánh thì thành Phật.” Một tu sĩ Phật giáo khổ hạnh đã phản đối: “Cư sĩ vẫn còn
vướng vào tính dục, làm sao họ thành Phật được?” Bồ-đề-đạ-ma kháng biện rằng: “Một người khi
thấy tánh thì sẽ nhận ra rằng bản tánh của đam mê tính dục là không, và người
đó không còn vui thích trong đó như là khoái lạc thể xác thuần tuý nữa. Tuy
nhiên, dù cho người ta còn đắm mình trong tính dục, thì đó cũng là thể hiện cái
dụng của Phật tánh, tự do không ràng buộc.”
Người ta có thể hỏi tiếp rằng: “Nếu Phật có thể
là cái ‘que cứt khô’ như trong một công án lừng danh
nọ [công án ‘Càn Thỉ Quyết’ của Thiền sư Vân Môn trong Vô Môn
Quan], tại sao người ta không thể ‘cường dương’ hay ‘thịnh âm’?” (Câu đáp khả
hữu là: “Nếu ông có thể ôm trong vòng tay mình một nữ thần tình ái mà ông vẫn
có thể thiền định được, thì điều đó áp dụng cho ông; nếu không, ông phải tu
pháp môn tự kìm chế.”)
(Phật Giáo và Tính Dục)
174. BÀI HỌC TỪ BI
Ở Nhật bản thời trung cổ trong một ngôi chùa nọ có một vị
lão sư, vì tư cách trong sạch phi thường và lòng từ bi vô hạn đã được vị trụ
trì bổ nhiệm coi sóc khoảng năm trăm tăng nhân. Kế bên chùa là một kỹ viện chứa
geisha (kỹ nữ) nổi tiếng vì các cô gái đẹp. . .
O-san, một trong những geisha thuộc kỹ viện gần chùa, cần
một món tiền lớn để trả chi phí giải phẩu y học nghiêm trọng cho người mẹ già
của cô. Là một geisha đẹp và có tài, cô
có nhiều khách quen. Cô đã đến từng người để vay, nhưng cô bị hết người này đến
người khác từ chối, vì các món nợ của cô đối với họ đã cao. Cô đã quá tuyệt
vọng khi một thương gia giàu có bước vào kỹ viện--một người được biết đến vì
tính biển lận cũng nhiều như tính thích rượu sake. Hy vọng rằng loại rượu thuốc
này sẽ nới lỏng trái tim và sợi dây buộc miệng túi của ông ta, cô rót hết ly
này rồi lại ly khác cho ông ta, chờ đúng lúc sẽ đưa lời cầu thỉnh. Đến khi ông
bắt đầu choáng váng và hành động có tình cảm.
“Tất cả những gì
em cần là vay một món tiền,” cô khẩn khoản, sau khi kể cho ông
ta nghe tình cảnh khó khăn của mẹ và phí khoản giải phẩu tốn kém như thế
nào. “Em sẽ trả, hãy tin em đi.”
Ông ta im lặng hồi lâu, làm như buồn ngủ. Rồi ông ta ngẩng
đầu lên nói:
- Anh sẽ không
cho em vay, anh sẽ cho em tiền nhưng với một điều kiện.
- Em sẽ làm bất
cứ điều gì anh bảo.
- Có chắc không
đó?
- Chắc chứ.
- Được rồi. Em biết cái ông lão sư ở chùa gần đây--một kẻ
không uống rượu, không hút thuốc, không liên hệ với đàn bà--anh ghét lão ta và
tính trung trực của lão.
- Ông ta có
quan hệ gì đến em đâu?
- Này: Nếu em có thể
quyến rũ được lão ta, anh sẽ cho em món tiền em cần cho mẹ em giải phẩu.
Mặt cô gái tối
sầm lại:
- Mọi người đều biết ông ta đạo đức thanh cao, cá tánh cương
trực. Em không bao giờ có thể thành công đâu. Em không muốn, chuyện ấy chẳng
phải .
- Thế thì em sẽ không được tiền của anh đâu .
O-san thống khổ vì tình cảnh của mình. Cô đã thử tìm những
chỗ khác, nhưng vô ích. Đây là cơ hội cuối cùng của cô. Phí khoản cao ghê gớm,
nhưng cô suy nghĩ, “Không có cuộc giải phẫu này mẹ chắc sẽ chết. Mình hết đường
chọn lựa. Mình phải chịu các điều khoản của ông ta.”
Vì thế hôm sau cô tìm cách vào chùa.
Cơn mưa phùn lạnh lẽo đang rơi thật phù hơp với kế hoạch cô vạch sẵn. — đầu kia
của sân chùa cô tìm được cái am nhỏ của vị lão sư. Bấy giờ áo cô ướt mẹp, tóc
cô rối bù. Cô gõ cửa và khi vị lão sư mở cửa, cô nói, “Xin hãy tha thứ
tôi đang quấy rầy thầy. Tôi bị lạc đường và lạnh. Thầy có rộng lòng từ bi cho
phép tôi vào tắm một chút cho ấm không?”
“Vào đi,” vị lão sư nói chỉ phòng tắm cho
cô. Sau khi tắm xong, cô trở lại trong chiếc ki-mô-nô cổ hở. Cô tiến hành dùng
đủ mánh lới của đàn bà cố cám dỗ vị lão sư--nhưng vô ích.
Cuối cùng cô quị xuống khóc và kể rõ tất cả câu chuyện cay
đắng cho lão sư nghe. “Hãy tin con đi,” cô nức nở, “Con không muốn
làm chuyện này. Con biết thầy thanh danh không tỳ vết và phụ trách hàng trăm
tăng chúng. Nhưng con đã tuyệt vọng. Xin hãy tha thứ cho con, con sẽ đi bây giờ.” Và cô ta bắt
đầu đi.
“Khoan,” sư bảo
cô. “Vì cách duy nhất để cô có tiền cho mẹ cô giải phẩu là chúng
ta phải ngủ với nhau, cô có thể ở lại đây suốt đêm.”
Chỉ trong vài ngày là tiếng đồn lan ra khắp chùa rằng cô
geisha O-san xinh đẹp đã sống một đêm với vị lão sư trong phòng riêng của ông.
Kinh ngạc, vị trụ trì cho gọi vị lão sư và muốn biết tin đồn có đúng không.
- Dạ, đúng vậy.
- “Cái gì!” vị trụ trì không tin kêu lên.” Một người như
ông làm sao có thể làm chuyện như thế ? Ông không nhận thức được chuyện này ảnh
hưởng đến những ông tăng trẻ tuổi dưới quyền ông sao? Ở đây ông hết dùng được
rồi. Ông phải đi.”
- Nếu đó là cảm nghĩ của hoà thượng, tôi sẽ đi.
Vị lão sư
không nói gì thêm và ra đi.
Khi tăng chúng biết vị lão sư bị bãi
chức đuổi đi, họ đến gặp vị trụ trì đòi ông phục chức lại cho vị lão sư. Vị trụ
trì hỏi:
-Tại sao ? Các ông
có biết là ông ta đã làm gì
không?
- Dạ biết.
- Không những hành vi của ông ta không tốt, tệ hơn nữa ông
ta còn tỏ ra không hối cải. Tại sao ông ta được phép trở lại?
Tăng
chúng đáp:
- Bởi vì
lão sư đã dạy cho chúng tôi một bài học giá trị về lòng từ bi.
Nếu hoà
thượng không phục hồi ông ta, chúng tôi sẽ đi.
Vì thế vị
trụ trì bớt nghiêm khắc và triệu hồi vị lão sư.
(Thiền:
Đông Tây Hợp Lưu)
175. HOA SEN ĐÊM
Philip Kapleau, một Thiền sư người Mỹ, đã đến Nhật học Thiền
mười ba năm và đã được Thiền sư Bạch Vân ấn khả, đã kể lại câu chuyện kinh
nghiệm của chính mình như sau:
Một hôm vào tháng hai, sau khi tôi đã ở tại chùa ba tháng,
lão sư bảo tôi, “Ngày mai anh có thể cùng chúng tôi đi thác
bát [khất thực].”
Đây là lần thác bát đầu tiên của tôi và tôi nhiệt tình hướng
tới nó như là chiều hướng mới trong sự tu luyện của tôi, dù cho nó có nghĩa là
đi bộ mấy giờ liền qua băng tuyết với đôi đép rơm và quần áo mỏng manh của tăng
nhân.
- Ngày mai
chúng ta sẽ thác bát ở đâu, lão sư?
- Đến làng bên cạnh. Sau khi thác bát chúng ta sẽ có một lễ
truy niệm trong một khu vườn.
- Vườn loại gì?
- Vườn hoa sen đêm.
- Nhưng. . .
- Đừng hỏi nữa,
Kapleau-san. Anh sẽ thấy, anh sẽ thấy.
Ngày hôm sau một nhóm mười người chúng tôi đi khất thực, lão
sư dẫn đầu. Khi chúng tôi tiến gần khu nhà lụp xụp của ngôi làng, vẫn xướng chữ
‘Pháp’, lão sư ra hiệu cho chúng tôi
dừng lại trước một ngôi nhà tồi tàn. Ông bấm chuông và chúng tôi chờ ở hành
lang. Chẳng bao lâu chúng tôi được một người đàn bà trông thô lỗ ra chào, dường
như có vẻ ngạc nhiên khi thấy chúng tôi. Hiển nhiên, chúng tôi đã đến sớm hơn
mong đợi, nhưng bà ta, giống như bất cứ một bà chủ nhà nào khác, không nhắc đến
điều này mà chỉ xin lỗi vì cảnh tượng trong nhà. Lão sư cười và từ tốn nói, “Chúng tôi luôn
luôn quá sớm hoặc quá trễ.” Bà ta bảo chúng tôi đi theo. Khi
chúng tôi bước vào căn phòng lớn phía trước thì nhạc và tiếng cười đùa của
những người đàn bà chỉ mặc áo nửa thân mình và những người đàn ông say mèm trên
sàn nhà dừng lại, tựa hồ như cái máy cassette bỗng nhiên bị tắt.
“Đây là nhà thổ!” tôi vụt nói,
không kịp giữ lại.
Hai người say tóc bù xù được dời qua phòng bên cạnh và hai
cánh cửa đẩy đóng lại phiá sau họ . Bà chủ vội chạy đi và chẳng bao lâu trởi lại với trà xanh và bánh
ngọt . Chúng tôi ăn trong im lặng. Sau bữa ăn nhẹ này, chúng tôi ngồi quì gối
chắp tay, xếp thành hàng theo kiểu người Nhật, cùng với bà chủ và các cô gái,
trước bàn Phật của “gia đình.” Trên bàn thờ, kế bên đức Phật, rõ ràng là một số
hình ảnh những thân nhân đã qua đời của
các thành viên trong “gia đình.” Với vẻ chăm chú của một nhà khoa học đang khảo
sát một chủng loại hiếm có, lão sư thắp một cây nhang cắm lên bên cạnh thức ăn
và làm lễ vật để cúng phật trên bàn thờ. Trở lại vị trí đầu hàng, lão sư cất
giọng tụng vài câu đầu tiên trong Bát Nhã Tâm Kinh, sau đó mọi người cùng tụng.
Tôi liếc nhìn những người đàn bà. Thời gian đã rời khỏi khuôn mặt của họ. Bỗng
nhiên họ là những cô gái bé nhỏ theo dự giáo lễ đầu tiên. Với sự ngây thơ trong
trắng, họ tụng:
“Sắc tức là không, không tức là sắc. . .”
Sau khoảng mười lăm hay hai mươi phút tụng,
thì xong lễ truy niệm.
Một lần nữa chúng tôi lại được đãi
trà và bánh ngọt, lần này mọi người cười vui vẻ khi lão sư và các tăng nhân nói
chuyện với bà chủ và các cô gái . Thay vì thức ăn như thường lệ, chúng tôi được
tặng tiền, sau đó bà chủ cho xe đưa về chùa.
Vài tuần sau đó, lão sư đến phòng
tôi và vui vẻ hỏi: “Thế nào anh có thích cùng đi với tôi đến nhà các geisha
không? Ba mươi phút nữa hãy đến phòng tôi nếu anh muốn.”
Đây là lần đầu tiên lão sư xã giao
mời tôi và dường như ông nhiệt tình muốn tôi cùng đi. Nhưng tại sao tới nhà
geisha? Viếng nhà thổ là một phần của thác bát và gồm cả các tăng nhân ấy; sự
mời này rõ ràng có một ý nghĩa khác. Có phải đây là một thứ trắc nghiệm Thiền?
Tôi sẽ được trắc nghiệm như thế nào ?
Tôi tự bảo, “Nếu mình đi, cùng lắm là uống
nhiều sake, bia và có lẽ cả rượu mạnh nữa. Rượu, tôi đã có kinh nghiệm đau đớn,
thì thật là tệ đối với dạ dày cũng như sự tu tập của tôi. Tôi đã tự hứa với lão
sư là tôi bỏ rượu. Chuyện lão sư mời là sự dụ dỗ tôi đầu tiên theo hướng ấy. Có
lẽ đây là một trắc nghiệm.
Tôi nhìn đồng
hồ và đã gần hết ba mươi phút. Với cảm nghĩ lộn xộn, tôi thấy mình bước về phía
phòng lão sư. “Kapleau-san, tôi vui vì anh đi với tôi,” ông nói khi
tôi bước vào. “Chiều nay sẽ vui lắm.”
Khi chúng tôi đến đó, vui vẻ chào nhau. Một cô geisha mặc y
phục thanh nhã cùng đi với chúng tôi đến một cái bàn tròn thấp đặt trong một
căn phòng giải trí lớn. Liền có ba cô geisha khác đến nhập bọn với chúng tôi.
Một trong ba cô, trước tiên mang đến mấy chiếc khay đựng sake và bia. Những nỗ
lực nồng nhiệt vừa phải của tôi chỉ thành công chút ít. Sau khi cố ngăn mà không thành công cô geisha
rót cho tôi rượu whisky Suntory do một người trong những ông khách muốn tặng
cho người Mỹ, bởi vì người Mỹ thích whisky trơn, tôi nhìn lão sư im lặng cầu
cứu. Ông gặc đầu về phía sau cười rống lên, rồi một lần nữa quay về phía các cô
geisha, đang bu quanh ông như một đám ong bên đóa hoa thơm, thưởng thức mật
ngọt những lời bình phẩm khôn ngoan của ông.
Trong góc phòng, một chiếc cat-set đang vang lên những điệu
nhạc nhảy Mỹ, rõ ràng là sự chào đón đầy tình cảm đối với một người khách nước
ngoài. Để chào mừng đúng mực sự hiện diện của tôi, cô geisha đề nghị, thay vì
biểu diễn các điệu vũ truyền thống Nhật bản, tất cả chúng tôi nhảy kiểu Tây
phương. Lập tức chúng tôi lao vào nhảy lộn xộn các điệu foxtrot, waltz, tango
và rhumba . Để kết chặt mối quan hệ Mỹ-Nhật chúng tôi chơi các bản “Swanee River”, “The Beer Barrel
Polka,” theo sau là điệu nhớ nhà Kojo no tsuki (Trăng trên Lâu Đài) và “Silent Night.” Những bản nhạc Mỹ
do tôi hát trước bằng tiếng Anh và rồi, thật đáng ngạc nhiên, lão sư và các
geisha hát theo bằng tiếng Nhật.
Đêm về khuya, sàn nhảy trở nên đông đúc, và giữa các bài hát
chúng tôi nhanh chóng trở thành quen với một nhóm ba thương gia người Nhật và cô
geisha đi với họ. Một người rõ ràng là bạn của lão sư, đặc biệt thích tôi.
Anh ta càng lúc tỏ ra thân thiện và
ồn ào hơn cho đến khi, giống như một con chó con bự có móng dính bùn, trở nên
phiền toái. Khi ca hát và chè chén lên đến tột đỉnh, anh ta hơi thủ đoạn đưa
tôi vào một căn phòng riêng cách hẳn phòng chính. Căn phòng trống trơn ngoại
trừ một chiếc giường. Anh ta định làm gì?
Trước khi tôi có thể nghĩ ra ý anh ta muốn gì, một thiếu nữ
trông thô, tô vẽ nặng nề khe khẽ bước vào, mỉm cười mời mọc tôi--không phải là
geisha mà rõ ràng là một thành viên chuyên nghiệp của cái thế giới cũ kỹ nhất.
Cô ta bắt đầu cởi quần áo. Ông “bạn” tôi nhào ra khỏi phòng, còn lại
một mình tôi với cô gái.
Đây có phải là trắc nghiệm theo vở
tuồng thứ lớp của lão sư không? tôi lấy làm lạ, “Tại sao ông không dụ tôi bằng một
cô geisha đẹp mà lại là một cô gái điếm xấu xí? Đấy là trắc nghiệm thật rồi.” Khi những ý
niệm này chạy qua tâm trí tôi, bỗng nhiên cô gái đẩy tôi lên giường và bắt đầu
kéo quần áo tôi. Tôi đẩy cô ra. Cô rụt lại, trông đau đớn và lúng túng. Tôi
nhìn chăm chăm cô qua đôi mắt ngà rượu của tôi. Tôi cảm thấy giống như một
Thiền tăng trong công án người leo cây cao, răng cắn cành, tay chân không chỗ
bám. Nếu mở miệng trả lời câu hỏi nghiêm trọng của người ở dưới đất, thì ông ta
sẽ té xuống tan thân mất mạng. Nhưng nếu không trả lời thì phụ lòng người hỏi.
Tôi tự bảo, “Nếu mình rơi vào tay cô ta, thì mình cũng rơi vào tay--cái
bẩy--của lão sư. Nhưng nếu rút lui là mình lẩn tránh trắc nghiệm của ông ta.”
Tôi phải làm
gì?
Nhưng vì sự tu luyện Thiền của tôi
đã phát sinh trong tôi niềm tin nhỏ bé, theo lời dạy trong kinh Pháp Hoa, rằng
một người gặp khổ nạn mà thành kính niệm danh hiệu Bồ Tát Quan Thế Âm thì sẽ
được cứu. Nhưng bây giờ tôi thấy mình đã cầu đức Quan Âm cứu độ khỏi tai ương.
Ngài ắt cảm biết lời kêu cứu của tôi là một trường hợp trắc nghiệm, nên liền
đáp ứng. Sự cứu độ đến bằng sự hiện thân của ba ông tăng lực lưỡng từ chùa đến,
trầm tĩnh nhưng nhanh nhẹn bước vào phòng, vẹt cô gái sang một bên, nắm lấy
tôi. Một người giữ đầu và vai tôi, hai người kia nắm lấy chân tôi, mỗi người
một chân. Giống như những người khiên quan tài, họ nâng bổng tôi một cách trân
trọng qua phòng giải trí đến lối ra cửa và xuống cầu thang. Lão sư của tôi, có
một đám geisha vui vẻ vây quanh, cười đến nỗi nước mắt chảy tràn xuống mặt.
Bên ngoài,
một đám đông tụ tập đứng xem, vẻ mặt thụ động tựa hồ như đây là cảnh diễn ra
hằng ngày. Các tăng nhân, tin tưởng thành công, mang đến cho tôi một chiếc xe
đạp. Tôi im lặng đạp xe về chùa.
Trở về phòng, tôi xếp loại những câu
hỏi lộn xộn trong tâm tôi. Làm sao mấy ông tăng đó biết dược tình cảnh khó khăn
của tôi? Có phải kế hoạch của lão sư đã bị trò khôi hài vụng về của người
thương gia say rượu đó làm hỏng, bắt buộc ông phải gửi mệnh lệnh cấp cứu tới
mấy ông tăng, hay người thương gia đã đóng vai trò được giao phó? Có thể nào mấy ông tăng đó, có khả năng thần
giao cách cảm, đã nhận được những tín hiệu phiền não của tôi? Hay là vị trụ
trì, biết được cái giờ thứ mười một trong trò chơi khăm của lão sư, đã phái mấy
ông tăng đó đến cứu tôi? Cuối cùng có lẽ sự cứu nạn có tính cách lăng nhục tôi
khỏi sự vò siết là kết quả cố ý của một tấn kịch?
Câu hỏi sau đây gậm nhấm tôi nhiều
hơn bất cứ câu nào khác: Vị trụ trì đã đóng vai trò gì, nếu có, trong vở kịch
Thiền này? Mặc dù tuổi đã tám mươi, ông ta vẫ còn rất hoạt động và rất có trách
nhiệm. Hay lão sư, người đã biết vị trụ trì thích cá nhân tôi, dám đem tôi đến
nhà geisha mà không cho vị trụ trì biết và ưng thuận? Hình như không phải vậy.
Và tại sao vị trụ trì, người không bao giờ đụng đến rượu trừ một vài hớp nhỏ
sake trong ngày lễ ở chùa, chấp thuận cho tôi viếng nhà geisha, nơi mà ông biết
có rất nhiều rượu và trò vui, trừ phi là để trắc nghiệm tôi.
Sau khi nghe
câu chuyện, có người hỏi:
- Tại sao lão sư [Philip Kapleau] lúc ấy không ngủ với cô
ta?
- Bởi vì
lúc đó tôi chưa học được đạo lý nền tảng.
Rồi một người
khác hỏi:
-Dù cho lão sư đã biết rằng đoàn kết
thì sống, chia rẽ thì chết, lão sư có thể thật sự trở thành một với cô gái điếm
ấy chỉ bằng cách ngủ với cô ta ?
- Nếu tâm linh tôi lúc đó đã phát
triển cao hơn thì có thể tôi đã có những
quan hệ với cô ta, không lợi dụng hay dè biểu cô ta, mà đã trở thành một
với cô ta và vượt qua hành động tình dục. Nhưng vì là một người mới bắt đầu học
Thiền, tôi đã vấp phải lỗi lầm chết người, tách rời mình bằng cách phán
định--tức là khinh bỉ-- cô ta . Kết quả, tôi đã cố chấp, không phải vào bản
tánh chân thật, cao quí mà vào bản chất không thật, thô lậu của cô ta. Bằng
cách từ chối sự tiến tới trước của cô ta, tôi đã phủ nhận tính trong sạch, cao
cả của một con người mà bất chợt là một cô gái giang hồ, và khi làm như vậy tôi
đã làm ô uế cả hai chúng tôi.
Đối với tôi, cô ta không có gì khác
hơn một cô gái điếm xấu xí . Đối với lão sư, cô ta là một đóa sen đêm. Trong
Phật giáo, hoa sen tượng trưng cho Chân Tâm, chỉ vì nó mọc lên từ bùn và nở ra
đóa hoa yêu kiều, Chân Tâm của chúng ta cũng vậy, không bị vô minh và phiền não
khuấy động làm ô nhiễm, tiết lộ sự thanh tịnh, cái đẹp trong giác ngộ.
(Thiền:
Đông Tây Hợp Lưu)
176. ĐÔI KHI CON NGHĨ
KINH NGHIỆM
TÌNH DỤC CÒN THỰC HƠN KIẾN TÁNH
Lão sư [Kapleau] thân mến, từ khi
gặp thầy đến nay đã lâu nên con nghĩ nên viết thư cho thầy. Bất chợt con cho
rằng dù con là một trong những đệ tử của
thầy trong một thời gian, thực ra thầy không biết gì nhiều về con, vậy hãy cho
con nói về con một chút.
Con sinh ở Chicago vào năm 1944, có
một người anh lớn hơn con một tuổi nhưng chẳng bao giờ gần gũi nhau. Con đã tốt
nghiệp ở một trường đại học với bằng cử nhân giáo dục, và hiện tại con là một
giáo viên tiểu học.
Con cảm thấy rằng con chịu nhiều đau
khổ trong đời sống và chính những đau khổ này dẫn con đến với Thiền. Con đã có
nhiều khái niệm sai lầm về ngộ và đã đi tìm ngộ như là một phương tiện để vơi
bớt nỗi đau đớn này.
Con chỉ tham công án Vô [Mu của
Triệu Châu] trong hai tháng thì được tỉnh ngộ. Trong sáu tháng đầu con nhập
định, và trong khóa nhiếp tâm bốn ngày con đã đạt đến tột đỉnh. Từ đó con bắt
đầu dần dần nhận ra rằng cái tỉnh ngộ nông cạn ấy không phải là câu trả lời cho
sự đau khổ của cuộc đời.
Con sẽ luôn luôn tọa
thiền, nhưng con phải biết cái gì nằm bên kia mà một người thâm ngộ kinh
nghiệm. Con nhận ra rằng tham công án là có giá trị, nhưng con cũng thấy rằng
một người không tham công án cũng được tự do y như người tham công án.
Con vẫn còn nhiều dục vọng, nhiều hy
vọng và tình cảm. Lời bình của thầy về công án “Đầu sào tiến bước” rất hữu ích đối
với con, vì trong đó thầy nhắc đến một người ngộ cao không có dục vọng, hy
vọng, tham vọng, vì người ấy hoàn thỏa mãn với đời sống của mình, dù tốt hay
xấu, vẫn nhận lấy niềm vui hay nỗi khổ của cuộc đời với lòng an nhiên và bình
thản. Lúc ấy con nhận thấy rằng nếu con
chỉ chấp nhận cuộc đời y như nó như vậy và ngừng chứa chấp mọi hy vọng , dục
vọng, vân vân. . . đời con sè trở nên yên tĩnh hơn. Sau bài thuyết pháp
[teisho: đề xướng] ấy, một cách có ý thức, con áp dụng quan niệm này trong đời
sống hàng ngày của con. Việc ấy giống như là con giải đáp một công án. Nó giúp
con nhiều đến độ con ngạc nhiên thấy rằng mình có thể khiến nó hữu hiệu bằng
cách suy nghĩ có ý thức về nó. Trước đây con nghĩ rằng tham công án liên tiếp
là vô ích bởi vì một người, một cách có ý thức, phải suy nghĩ về các công án và
những bài học của chúng để rút lấy lợi ích từ đó là hoàn toàn không tự
nhiên. Và bây giờ con thấy rằng điều này
chẳng tự nhiên gì cả.
Con muốn ngộ bởi vì con muốn biết ý nghĩa cuộc đời. Con phải
thú nhận rằng con vẫn chưa biết. Đôi khi cuộc sống này dường như vô tận. Mặc dù
con đã được tự do ở một mức nào đó đối với thân con, con không chịu đựng được ý
nghĩ mình trở nên già.
Một kinh nghiệm duy nhất đã ảnh
hưởng con sâu xa như kiến tánh, đó là kinh nghiệm tình dục đầu tiên, năm con
hai mươi tuổi. Đôi khi con trở nên lẫn lộn bởi vì con bắt đầu suy nghĩ rằng
kinh nghiệm tình dục đối với con còn thực và quan trọng hơn là kinh nghiệm kiến
tánh. Con biết rằng cuối cùng con sẽ khám phá ra rằng điều này không đúng,
nhưng ham muốn xác thịt vẫn bám chặt con đến nỗi con không thể không so sánh
kinh nghiệm tình dục và ngộ và nghĩ rằng kinh nghiệm tình dục còn vén mở sự
thật vĩ đại hơn là ngộ. Thầy phải nghĩ rằng con đang mất niềm tin nơi pháp và
con sẽ lạc mất trong sự theo đuổi khoái lạc trần gian. Con hiện đang đầy những
câu hỏi cần phải được trả lời, dù cho con biết rằng theo thời gian con sẽ tìm
ra câu đáp.
Làm sao con có thể nói lên được lòng
biết ơn của con? Dù nói gì cũng không hết những gì con cảm thấy. Con biết rằng
thầy không đòi hỏi gì nơi các đệ tử ngoại trừ sự giác ngộ viên mãn và con sẽ
tiếp tục ngồi hàng ngày suốt đời con.
Lão sư, xin
hãy tự chăm sóc lấy mình trong những tháng đông dài này.
Thâm tạ ân Thầy,
Joan
Sau đây là thư
đáp của Lão sư Philip Kapleau:
Joan thân mến, cảm ơn con đã viết
thư . Thầy luôn luôn vui khi được nghe tin từ các môn sinh của thầy, nhất là
những người sống xa thành phố, ít có cơ hội đến Trung Tâm [Zen Center in
Rochester, New York].
Joan, con nói về đau khổ. Ngày xưa
có một người đàn bà hầu như hóa điên, sầu não vì đứa con sơ sinh mới chết, đã
đến với đức Phật. Đặt đứa bé dưới chân Ngài, bà cầu xin Ngài hoàn trả sự sống
lại cho đứa bé. Sau khi kiên nhẫn lắng nghe, đức Phật bảo bà xuống phố mang về
một hạt cải từ một ngôi nhà nào trong đó không có sự chết xảy ra. Người đàn bà ấy đi hết nhà nọ sang nhà kia,
khắp cả thành phố mà không có nhà nào không có sự chết đến viếng. Nhận ra rằng
cái chết đến với tất cả mọi người, cuối cùng bà ta chấp nhận số mệnh của con
bà.
Có ai không đau khổ? Có phải rằng
chính đau khổ và ước vọng khắc phục nó đưa con người đến với Thiền và các
truyền thống tâm linh khác?
Mặc dù các môn đệ của thầy nghe thầy
lặp lại nhiều lần rằng một cái ngộ cạn chỉ là cái thoáng thấy chân tánh của sự
vật, tuy nhiên họ thấy khó chấp nhận điều này. Kinh nghiệm kiến tánh đầu tiên
có thể so sánh với ánh sáng của một cây nến trong một cái động mênh mông ngầm
dưới đất, toàn thể bóng tối không còn thắng thế, nhưng sự sáng tỏ vẫn còn mong
manh. Làm ngộ phát triển sâu cũng giống như càng lúc càng thắp thêm nhiều cây
nến, nhờ đó chiếu sáng cái động từng chi tiết.
Cảnh giới hiện tại của con không
phải không giống cảnh giới của con mèo con vừa mới mở mắt trước thế giới; không
còn chìm trong bóng tối nhưng chưa tự bảo vệ được. Tựa như con mèo con vẫn còn
cần mẹ, con vẫn còn cần tiếp xúc với thầy. Nhưng ít nhất bây giờ con đã biết
nhờ kinh nghiệm kiến tánh của con, ngộ không quét ai vào cực lạc vĩnh viễn và
sự tu tập của con có thể không có ngộ nhận thông thường này. Nên thừa nhận rằng
ngộ, dù cho có khiêm tốn, đang giải phóng con trên bước đường căn bản. Con có
nhớ ngày trước con, thật là e thẹn và rụt rè, bỗng nhiên con đến trước thầy như
một chiến sĩ. Quả thật có những loại ma cảnh cũng có thể phóng thích những kho
năng lực không kìm chế được, nhưng những gì xảy đến với con chẳng phải là ma
cảnh. Con có nhớ con đã đáp các câu hỏi trắc nghiệm của thầy nhanh và chắc biết
bao? Con nói rằng trạng thái định lực cao độ đã kéo dài sáu tháng--một thời
gian phi thường. Những gì con nói cho thấy rằng con đã có sự kiến tánh sâu hơn
là con nhận thức, và nguyện vọng của con cũng sâu, vả chăng, vì con không thỏa
mãn với cái đả thông tiên khởi này.
Hãy khẳng quyết rằng phía trước con
đang có cái ngộ rộng và rõ ràng mà bây
giờ con khó tưởng tượng được. Tuy nhiên, điều này con có thể tự mình làm được,
nếu con luôn luôn can đảm và quyết tâm. Ở một vài khía cạnh, thư của con làm
thầy nhớ đến Yaeko trong quyển Ba Trụ Thiền. Con có nhớ cô ta đã miêu tả niềm vui và sự kích động của
cô ta như là một Ộtrạng thái điênỢ không? Sự giácngộ càng lúc càng
sâu hơn mà cô ta tiếp tục kinh nghiệm là cái ngộ con cũng có thể đạt được.
Nhiều dục vọng và hy vọng vẫn còn, như
con nói, chỉ là những ảo tưởng mà thôi.
Ngày nào đó con sẽ nhận ra điều này. Trong khi sự thực là một vị Phật
giác ngộ tối thượng và viên mãn thì tự do tự tại với tất cả dục vọng, chúng ta
những người kém hơn còn phải chiến đấu với dục vọng. Nhưng hãy nhớ rằng có
những dục vọng ở mức thấp và những dục vọng có giá trị. Dục vọng ấy biến chuyển
đời sống và cá tính con người, dục vọng ấy làm thức tỉnh trọn vẹn để trợ giúp
làm nhẹ bớt sự thống khổ của con người - đây là những dục vọng ở mức cao nhất.
Các bậc tôn sư của thầy thường nói rằng cái phân biệt một vị bồ tát và một đức
Phật là một vị bồ tát còn vướng mắc vào dục vọng từ bi giải thoát tất cả chúng
sanh khỏi đau khổ. Mặt khác, một đức Phật không còn nghĩ đến giải thoát hay
không giải thoát; ngài trợ giúp mọi chúng sinh một cách tự nhiên như ngài
thở.
Con nói rằng tình cảm vẫn bám lấy
con. Tại sao không bám? Con không cần xin lỗi vì chúng. Con không nghe thầy nói
rằng trong lúc tọa thiền đều đặn hóa giải những khái niệm trừu tượng như hy
vọng, tiếc nuối và kỳ vọng trên con đường nó đi, trong tu tập Thiền không có nỗ
lực đè ép tình cảm chứ? Khi một Thiền sư khóc công khai tại đám tang người đệ
tử ưu ái của sư, một ông tăng trẻ nhân cơ hội hỏi: “Con nghe nói hòa thượng đã
vượt qua những cái ấy rồi, phải không?” Sư đáp: “Nếu ta không
khóc khi người đệ tử gần gũi nhất của ta qua đời thì khi nào?” Tình cảm chân
thành là đúng thực; hy vọng và dục vọng là đầu độc cái thực bằng lý tưởng.
Những lời con phê bình về bài thuyết
pháp của thầy “Đầu sào tiến bước” cho thấy con đã hiểu lầm điểm
trọng yếu. Về điểm người giác ngộ không có hy vọng, dục vọng hay tham vọng, ấy
chẳng phải là con người ông ta hoàn toàn thỏa mãn viới cuộc đời, dù xấu hay
tốt. Thỏa mãn, bất mãn--suy nghĩ bằng các hạn từ này là tự đặt mình vào cái bàn
kẹp lý trí. Chỉ thuận theo dòng nghiệp của Phật tánh và cuộc sống thì sẽ thuận
với và thông qua con. Hãy quán xét sâu xa điều này.
Người ngộ không chống cũng không phá những gì nằm phía trước
mình. Mọi sự tùy thuộc vào hoàn cảnh và thời gian. Khi cần hành động thì ông
hành động. Khi hành động của một người có tính cách quyết định, và có người đáp
ứng mà không lưu lại gì, thì tựa hồ như người ấy không có hành động gì cả.
Con nói, “Đôi khi cuộc sống này dường như vô
tận. Dù cho con đã được tự do đối với thân con ở một mức nào đó, con không thể
chịu đựng được với ý nghĩ mình trở nên già.” Cuốc sống này đường như vô tận
chỉ vì con đề ra một cứu cánh, một mục tiêu. Con phải tự giải tỏa mình ra khỏi
sự ràng buộc của thời gian. Chính con là thời gian--thân con, tâm con và những
sự vật chung quanh con. Hãy phóng mình vào dòng sông thời gian và bơi, đừng
đứng trên bờ sông nhìn dòng nước chảy. Ý nghĩ trở nên già phát khởi từ thiên
kiến yêu mình với thân. Con đã học được gì từ sự tu Thiền mà con nói bằng những
hạn từ nhị nguyên “già” và “trẻ”?
Nói theo ước lệ, tuổi thầy là sáu mươi lăm. Thầy không nghĩ
là mình già. Chỉ có kẻ nghĩ mình trẻ mới nói, “Ông ta là một ông già,” và khi phán
định như thế người ấy phải đứng tách rời tôi. Bằng cách đó người ấy không bao
giờ có thể biết được tuổi thật của trái tim tôi. Nhưng nếu chúng ta nồng ấm ôm
nhau, ngay lúc hợp nhất vô tâm ấy đâu là người già, đâu là người trẻ? Còn ai
nói, “Ông ta già, tôi trẻ.”
Con viết rằng kinh nghiệm duy nhất ảnh hưởng con sâu xa như
kiến tánh là kinh nghiệm tình dục đầu tiên của con. Phải, tình dục. Giác ngộ
của Thiền đã được miêu tả như là sự sung sướng ngây ngất trong lúc giao hợp của
vũ trụ. Song người ta chỉ có thể so sánh ngộ với sự sung sướng ngây ngất của
thể xác trong lúc giao hợp theo nghĩa hẹp. Để kinh nghiệm sự hợp nhất và niềm
vui bay bổng với người mình yêu trong cái ôm tình dục là tâm hồn rung động, hẳn
vậy, nhưng nó vẫn còn giới hạn và giảm thiểu bởi một người đặc biệt. Mặt khác,
tình yêu phổ bác hay tình yêu vũ trụ là sự tuôn tràn tự nhiên hướng về mọi vật,
vĩ đại hay nhỏ bé, và được bồi tiếp nhiên liệu không phải bằng tình yêu tính
dục mà bằng ý thức trực tiếp về tính không thể phân chia của toàn bộ cuộc sống.
Khi một người yêu theo kiểu này thì không có sự ràng buộc hay mong đợi một cái
gì đó đáp lại. Tình yêu như biển cả đó người ta không thể nhận ra được bằng
cách đứng tách rời, cô đơn với người mình yêu, mà bằng cách buông xả cái ta của
mình và khi làm như vậy là ôm lấy tất cả mọi cái ta . Trong sự tu tập của con ở
điểm này thì kinh nghiệm tình dục đối với con rõ ràng có thể thực hơn là kiến
tánh, bởi vì, kiến tánh tự bản chất không cống hiến một cái gì để bám lấy. Nó
là cái “Không” của ngộ bay lướt trên bề mặt của tất cả những nỗ lực
cố neo nó xuống như một kinh nghiệm khác, dù là phi thường. Như con biết, ngộ
không phải là một kinh nghiệm, không phải là một thứ gì xảy ra đứng đối lập với
những cái khác. Kinh nghiệm tình dục, mặc dù thực theo nghĩa người ta cảm thấy
nó một cách mãnh liệt, cũng qua nhanh như mọi kinh nghiệm khác. Khi gặp một
người con cảm thấy hiểu và hấp dẫn nhau mạnh mẽ, thì rất dễ bị cơn sóng tình
cảm theo sau lừa gạt, lẫn lộn nó với chỗ đến và là nhà của con. Nếu con dừng
lại hưởng thú vui tình dục và nghệ thuật âm nhạc, thì sự tiến tới giác ngộ viên
mãn của con sẽ bị trở ngại, và cái tốt hơn can thiệp vào cái tốt nhất.
Chính tâm phân biệt nuôi dưỡng ý niệm cặn bã như là “muốn biết ý
nghĩa cuộc đời.” Nếu con thực sự thâm nhập cái gì con đang làm thì có chỗ cho
sự suy tư về ý nghĩa của nó không? Huyền bí của cuộc đời sẽ được tiết lộ qua
sống với nó, không phải qua suy tư về nó.
Vui thay khi thấy con nhận ra tầm quan trọng của ngồi thiền
sau khi đã thấy tánh và đang tiếp tục ngồi đều đặn. Vì như Thiền sư Đạo Nguyên
nói, “Tu không có bắt đầu, ngộ không có chấm dứt; ngộ không có bắt
đầu, tu không có chấm dứt.”
Cho đến khi con có gì khác để hỏi, thì câu trả lời, như con
nói, sẽ đến.
Với một cái ôm,
P. K.
(Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)
177. KHÔNG LÀ GÌ ?
Có người hỏi lão sư Kapleau:
- Chữ “Không” của Phật giáo có nghiã
là gì? Tôi biết sách nói: Nó là cái
trống không, sunyata, và là tất cả .
Nhưng, “Sắc tức là không, không tức là sắc,” có nghiã là gì?
Lão sư Kapleau
đáp:
-Giả sử anh là thợ kim hoàn muốn làm một tượng
Phật nhỏ bằng
bạc, khi bạc tan chảy, nó có khả năng tự hiện thành bất cứ vật gì--đó là không,
tánh không. Khi anh đổ bạc đang chảy vào một cái khuôn và nó đông cứng lại--đó
là sắc. Nhưng bây giờ hãy giả sử rằng, sau khi làm xong tượng Phật, anh không
hài lòng và muốn làm một cái gì khác với kim loại đó. Vì vậy anh nung tan tượng
Phật ra, bạc trở lại thành vô sắc. Trong yếu tính, không không khác với sắc.
Đừng quên, tất cả những gì tôi vừa nói chỉ là một mẫu khái niệm, không phải vật
thực. Vậy nói tôi nghe, làm sao anh bám vào không như là một sự kiện cụ thể ?
Hãy đến đây chỉ tôi xem!
Người hỏi
đến gần lão sư:
- Cách này
[chụp vào hư không]!
Lão sư:
- Không, cách
này! [chỉ].
Người hỏi:
- Úi cha!
Lão sư:
- Rốt ráo,
không chỉ là sắc, phải không?
(Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)
178. ĐỌC VỀ NGỘ CŨNG GIỐNG
NHƯ
GÃI NGỨA NGOÀI GIÀY
Có người hỏi
lão sư Kapleau:
- Có lẽ tôi đang chường cổ ra [chịu nguy hiểm], nhưng dù sao
tôi cũng phải hỏi điều này. Thường sau khi đọc về ngộ, dường như tôi hiểu rõ nó
là cái gì, và nhiều lần nhất định tôi đã cảm thấy tính hợp nhất của toàn bộ
cuộc sống. Nhưng giữa cách hiểu này với giác ngộ trong Thiền có gì khác nhau?
Lão sư:
- Đọc về ngộ cũng giống như đọc các món ăn trong lúc anh
đang đói. Cái đó có no bụng anh không? Hiển nhiên là không. Chỉ khi nào anh
nếm, nhai, nuốt món ăn và cảm thấy thỏa mãn, thì có thể so sánh với ngộ hay
giác ngộ. Nhưng ngay cả khi thức ăn đã vào bụng nó cũng sẽ không nuôi dưỡng anh
cho đến khi nó thực sự tiêu hóa và đồng hóa. Cũng vậy, cho đến khi nào anh phối
hợp trọn vẹn vào đời sống hàng ngày những gì anh nhận thức được, thì cái hiểu
của anh không có tác dụng gì--nó sẽ không biến đổi đời anh. Giống như bước cuối
cùng trong dinh dưỡng là thải bỏ, rốt cuộc người ta phải loại bỏ cho chính mình
ý niệm, “Tôi giác ngộ.” Chỉ khi ấyanh mới có thể “bước đi thong
dong giữa đất trời.”
Bây giờ giả sử bàn chân anh bị ngứa.
Nó cảm thấy thoải mái hơn khi anh gãi bàn chân trần hay khi anh gãi nó qua
chiếc giày?
Người hỏi:
- Đương
nhiên là khi gãi bàn chân trần.
Lão sư:
- Đọc về ngộ cũng giống như gãi ngứa qua chiếc giày.
(Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)
179. ĐỌC HAY KHÔNG
ĐỌC?
Có người
hỏi lão sư Kapleau:
- Có hai điểm liên quan đến việc đọc làm tôi bối rối. Lão sư
nói rằng muốn ngộ, người ta cần phải bỏ suy nghĩ bằng những hạn từ như ta và
người, ngừng chơi đùa với khái niệm, và lão sư ám chỉ rằng nên bỏ đọc, vì nó
nuôi dưỡng khái niệm và ý nghĩ tản mác. Tôi đã đọc và biết rằng thời xưa ở
Trung quốc và Nhật bản có nhiều Thiền tăng học giả, hiển nhiên họ đã đọc rất
nhiều.
Điểm thứ nhì có tính cách cá nhân.
Tôi đang học để trở thành một y sĩ chữa bệnh tâm thần, tôi không có quyền lựa
chọn mà phải đọc rất nhiều, không chỉ trong lãnh vực riêng của tôi mà cả những
lãnh vực liên hệ.
Lão sư:
- Anh phải đọc “những lãnh vực
liên hệ” gì?
Người hỏi:
- Chẳng hạn, muốn hiểu các vấn đề của những người ở các nước
khác, nếu quen với cách họ diễn đạt hay suy nghĩ sẽ giúp ích. Việc đó liên hệ
đến đọc. Nhưng nếu đọc có hại cho việc
tọa thiền của tôi và tôi bỏ đọc tất cả các thứ, kể cả các nhật báo kỹ thuật,
làm sao tôi phát triển và có thể giúp đỡ
bệnh nhân tốt hơn?
Lão sư:
- Những gì tôi muốn nói là phải bỏ cái đọc không phân biệt,
không phải toàn bộ việc đọc. Những sinh viên như anh và các nhà chuyên môn cần
đọc và nghiên cứu; nên xem những hoạt động này như là một phần của tọa thiền.
Ngồi đều đặn, bằng cách tăng thêm sức mạnh chú tâm, làm tâm và tình cảm yên
tĩnh, sẽ khiến cho anh có thể nghiên cứu tốt hơn cũng như giữ lại được những gì
anh đã học. Nhiều thành viên của Trung tâm chúng tôi là sinh viên, giáo sư và
những nhà chuyên môn.
Người hỏi:
- Lão sư
định nghĩa đọc không phân biệt như thế nào?
Lão sư:
- Đọc không phân biệt là đọc không điều độ các báo, tạp chí,
tiểu thuyết và những vấn đề không thiết yếu hay không liên hệ gì với việc làm
hay nghiên cứu của anh. Hãy chú ý chữ “không điều độ.”
Anh đã từng nhìn những người ở trạm xe buýt, ở phi trường hay trên máy bay
chưa? Rất thường khi, nếu là họ một mình ở đó, ngay khi họ vừa ngồi xuống là có
báo, tạp chí hay sách đến liền. Rất ít người có thể thiền định hay chỉ ngồi im
lặng. Đọc tiêu thụ năng lực, trong khi tọa thiền bảo tồn và qui tụ nó. Nếu
trong khi tọa thiền anh có thể đặt trọng tâm của anh ở chỗ ngay dưới rốn độ một
bàn tay [đan điền], là anh thiết lập được cái giếng năng lực ở đó, nó sẽ nuôi
dưỡng toàn thể con người anh. Anh có thể so sánh quá trình này với quá trình
của một cái máy phát điện tiếp điện năng cho một cục pin.
Thầy tôi thường bảo các môn sinh rằng càng ít đọc sách về
triết học hay về Thiền họ càng ngộ nhanh hơn. Tại sao như vậy? Bởi vì ông biết
rằng cái đọc này đặc biệt làm tâm bế tắt vì những khái niệm và quan niệm dính
chặt. Lão sư Nguyên Điền (Harada), là một cựu giáo sư đại học, có lần nói rằng
kinh nghiệm ngộ độc nhất của Tổ sư thứ sáu [Huệ Năng] khi nghe một ông tăng
hành cước tụng kinh Kim Cang có thể cho là Tổ không biết chữ - nghĩa là sự thực
tâm của Tổ không có những suy lý giải đãi do đọc và nghiên cứu nuôi dưỡng.
Sa di trong các Thiền viện được khuyến khích chỉ đọc hành
trạng của các sư và tổ, họ cũng nhớ thuộc lòng một số kinh, mục đích là để
tụng. Khi có sự thân cận với một bậc thầy họ có thể trực tiếp nghe đạo lý từ vị
thầy ấy, họ không cần đọc những trang sách in vô sinh khí. Thiền nhấn mạnh, “Nghe Đạo, tin
và tu.” Nghe Đạo, vì Đạo được một người đã kinh nghiệm nó nói ra, nó âm ba một
năng lực mà ngôn ngữ viết dù hùng biện nhất cũng không sánh được.
Hãy cảnh giác sự đọc quá độ bất cứ
loại nào, giống như những liều thuốc quá độ, làm tâm nặng gánh và thui chột khả
năng suy nghĩ sáng tạo của nó. Đọc không phân biệt cũng có thể nuôi dưỡng lòng
tham những sự kiện vô ích và tâm kiêu hãnh vì sở hữu chúng, những phẩm chất
không dẫn đến tiến bộ tâm linh. Trí tuệ chơn chánh, cuối cùng, bao gồm khả năng
đọc những kinh sách không văn tự. Triết gia Đức Nietzshe viết rằng khi mắt ông
trở nên tệ quá đến nỗi ông không thể đọc được nữa, cuối cùng ông bắt đầu đọc
chính mình.
Đọc và tọa thiền không bổ túc cho
nhau. Kéo dài sự đọc, nhất là các sự kiện và lý thuyết làm óc mệt và thân suy
nhược, làm tê liệt lòng ham muốn tọa thiền. Mặt khác, sau khi tọa thiền, tâm sẽ
cảm thấy sạch sẽ và minh mẫn đến độ anh không muốn nó bị che mờ bởi đọc bất cứ
cái gì.
Người thứ
hai hỏi:
- Nhưng tôi nghĩ rằng đọc lời các sư
nói sẽ hứng khởi và đọc đạo lý Phật giáo cũng bổ ích.
Lão sư:
- Nếu anh làm việc gần gũi với một bậc thầy, anh có thể từ
chính sự thiền tọa mà suy ra đạo lý. Tâm càng tự do với các sự kiện và lý
thuyết, nó càng thanh tịnh đón nhận lời dạy và càng tiến bộ nhanh hơn. Tuy
nhiên sau khi ngộ, đọc kinh và lời các sư nói có thể rất hữu ích. Những gì vừa
nói áp dụng cho những người gần gũi với một vị đạo sư. Nếu không có đạo sư kế
bên, thì tốt nhất là đọc những gì tăng thêm sức mạnh cho niềm tin và xác tín.
Đừng rơi vào thói quen đọc mọi sách mới viết về Thiền hay Yoga, hoặc bất cứ
truyền thống nào anh thích thú. Dù có thầy hay không, anh cũng cần khám phá cái
nệm ngồi thiền và biết làm cách nào tự mình giữ kỷ luật. Một khi anh tin quyết
rằng cần kỷ luật tinh thần và tu luyện, hãy tìm một vị thầy và bước lên đường
Đạo.
Người thứ ba
hỏi:
- Khi muốn sống cuộc đời đạo hạnh, loại sách nào đọc tốt
nhất?
Lão sư:
- Nhà bình luận Emerson nói, “Cuốn sách đó hay, nó đưa tôi vào
tâm thái làm việc.”
Nếu anh muốn nhận ra
Chân tánh mình--không phải chỉ suy lý về nó--thì cuốn sách đó hay, nó có chiếc
vòng chân lý sâu khám phá qua kinh nghiệm cá nhân. Cuốn sách hay kích động trái
tim, đốt lửa trí tưởng tượng và đưa đến quyết tâm không để bất cứ cái gì cản
trở trên đường đến giác ngộ viên mãn. Tóm lại, nó phải lôi anh ra khỏi ghế êm,
đặt anh lên cái nệm ngồi thiền.
Người thứ
tư hỏi:
- Lão sư có
sách gì đặc biệt giới thiệu?
Lão sư:
- Tôi có bảng liệt kê những cuốn sách mà chính tôi
tìm thấy hứng khởi và sự chỉ dạy[1]. Một vài nhan đề đã bị bỏ vì sách không còn in
nữa. Đừng nghĩ rằng anh cần phải đọc một trong những sách giới thiệu này, hay
bất cứ cuốn nào trong những quyển đó. Ngay cả những cuốn anh đọc, tùy theo
nguyện vọng và mức phát triển tâm linh, một vài cuốn chỉ nếm ở đầu lưỡi cũng
đủ, những cuốn khác chỉ cần trệu trạo, một vài cuốn phải nhấm sâu và nuốt lấy
một cách thích thú như một người đã nhiều ngày không ăn. Mỗi cuốn trong những
sách này, hãy để tôi nhấn mạnh, mang một nhãn hiệu, “Cảnh cáo: Có
thể tạo thành thói quen. Nguy hiểm khi uống quá liều lượng.”
(Thiền:
Đông Tây Hợp Lưu)
180. NẾU TÔI NÓI
THIỀN, ĐẤY
CHẲNG PHẢI THIỀN TÔI NÓI
[Xuất hiện trước một nhóm các nhà tâm phân học].
Giám đốc
viện [sau vài lời giới thiệu]:
- Bây giờ, lão sư Kapleau sẽ nói với chúng ta Thiền là gì.
[Hai môn sinh tháp tùng lão sư đặt hai tấm nệm với bồ đoàn
trên sàn nhà. Lão sư tự ngồi lên một cái. Một môn sinh lễ bái trước lão sư rồi
ngồi trên bồ đoàn kia cách lão sư độ một thước.]
Môn sinh hỏi:
- Thiền là
gì?
[Lão sư lấy
ra một trái chuối chín, lột vỏ và bắt đầu ăn.]
Môn sinh
lại hỏi:
- Chỉ có thế thôi à? Lão sư không
thể chỉ con thêm cái gì khác sao?
Lão sư bảo:
- Làm ơn
xích lại gần hơn.
[Môn sinh xích lại gần hơn. Lão sư bảo, “Hãy cắn một
miếng.” Môn sinh ăn hết trái
chuối, lễ bái rồi lui ra.]
Môn sinh
thứ hai [nói với khán thính giả]:
- Quí vị có
hiểu không?
[Không ai
trả lời.]
Quí vị vừa chứng kiến một cuộc biểu diễn Thiền ở mức đầu
tiên. Có vị nào hỏi gì không?
[Im lặng một lúc lâu]
Có người
hỏi:
- Thưa lão sư, tôi không thỏa mãn với sự biểu diễn của ngài.
Lão sư đã cho chúng tôi thấy một điều mà tôi không chắc rằng tôi hiểu. Hiển
nhiên, lão sư có thể nói cho chúng tôi biết Thiền là gì.
Lão sư:
- Có rồi: “Cá lội trên
không, chim bay dưới biển.”
Người hỏi:
- Tôi hiểu
cái ấy khá hơn.
[Cười]
Người thứ
hai hỏi:
- Có câu
nào chi tiết hơn không?
Lão sư:
- Nếu tôi nói
Thiền, ấy chẳng phải Thiền tôi nói.
(Thiền:
Đông Tây Hợp Lưu)
[1] Bảng liệt kê các sách đại loại như: Tự Truyện
của Thiền sư Hư Vân, Đại thừa KhởI Tín
luận của Mã Minh Đại sư, Bích Nham Lục của Thiền sư Viên Ngộ, Thiền Luận cuả
Suzuki, Vô Môn Quan cuả Thiền sư Huệ khai, Lâm Tế Lục của Thiền sư Nghĩa Huyền,
v.v..— đây chỉ sơ lược. Muốn đầy đủ xin đọc: “Zen, Merging of East and Wes”t
,pp.277-88.