Đỗ Đình Đồng Góp Nhặt
DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN
(333 Câu Chuyện Thiền)
tức GÓP NHẶT CÁT ĐÁ
Hiệu Đính và Bổ Sung
241. PHẬT MẶT TRỜI,
PHẬT MẶT TRĂNG
Kinh nói rằng Phật Mặt Trời sống một ngàn tám trăm năm, và
Phật Mặt Trăng chỉ sống có một ngày một đêm.
Có một lần Đại sư Mã Tổ bị bịnh nặng và lâu, viện chủ đến
thăm, hỏi:
- Hòa thượng
cảm thấy thế nào?
Mã Tổ đáp:
- Phật Mặt
Trời, Phật Mặt Trăng.
Sống khi mình có thể sống là phúc đức, và chết khi mình có
thể chết cũng là phúc đức. Đối với một người hiểu lẽ sống, thì dù sống một trăm
năm hay chỉ một đêm đều có giá trị như nhau .
(Trí
Tuệ Thiền Sư)
242. QUI CỦ THIỀN ĐƯỜNG
CỦA BÁCH TRƯỢNG
Sau khi Đại sư Mã Tổ tịch, Thiền sư Bách Trượng thừa truyền
chánh pháp.
Rồi sư thiết lập Bách Trượng Thanh Qui, hay là qui củ Thiền đường, và nó đã trở thành nền móng cho
điều lệ tu viện cũng như cho Phật giáo Thiền tông nói chung. . .
Bách
Trượng Thanh Qui qui định chi tiết
điều lệ đời sống hằng ngàycủa vị trụ trì và tất cả những người trong tự viện
dưới ông.
Điều lệ đòi hỏi
vị tăng tương lai nguyện giữ năm giới chính:
-Không sát
sanh;
- Không trộm
cướp;
- Không tà dâm;
- Không nói
dối;
- Không say
sưa.
Và các điều
sau:
- Không ngủ
trên cái giường cao hay rộng quá;
- Không xem hay
tham dự các tuồng trên sân khấu;
- Không tự tôn;
- Không cất giữ
tiền bạc hoặc các vật quí;
- Không ăn các
món bậy và không ăn ngoài giờ qui định.
Chỉ khi nào giữ
được các giới điều trên, người tăng nhân tương lai mới được cạo tóc và trở
thành tăng nhân thực thụ.
Bách Trượng cũng thiết lập hệ thống làm việc, không những
cho người tăng nhân trung bình làm việc ngoài đồng, mà cho cả vị trụ trì nữa.
Ở Ấn độ, tăng nhân bị cấm làm nông và, do đó, tùy thuộc vào
sự cúng dường của các thí chủ trung thành.
Với hệ thống thanh qui, Bách Trượng nhằm loại bỏ cách sống
xin ăn và ký sinh trùng này.
Tại sao một tăng nhân khỏe mạnh lại sống như một loại ký
sinh trùng, hút máu sống của những người dân thường?
Vì vậy sư đòi hỏi tất cả tăng chúng dùng thời giờ khai khẩn
đất đai để trồng trọt và canh tác thực phẩm cho chính họ.
(Trí Tuệ Thiền Sư)
243. MA NGÔN NGỮ
Ngưỡng Sơn là học trò của Qui Sơn.
Một hôm Qui Sơn nói:
- Này con, phải nhanh lên mà ngộ đi. Chớ bám vào ngôn ngữ
văn tự.
Ngưỡng Sơn đáp:
- Ngay cả tin
con còn chẳng muốn nữa kìa.
Qui Sơn hỏi:
- Con không muốn vì con tin hay con không muốn vì con chẳng
tin?
Ngưỡng Sơn hỏi
lại:
- Ngoài mình ra
còn cái gì khác có thể tin được?
Qui Sơn đáp:
- Nếu vậy, con
chỉ là đệ tử của Tiểu thừa.
Ngưỡng Sơn nói:
- Ngay cả Phật
con còn chẳng muốn gặp.
Qui Sơn lại
hỏi:
- Trong tất cả kinh điển, có bao nhiêu là lời của Phật, bao
nhiêu là lời của ma?
Ngưỡng Sơn đáp:
- Tất cả là ma
hết.
Qui Sơn khen:
- Giỏi lắm! Giỏi lắm! từ nay không có gì quấy rầy con được
nữa .
Cuối cùng, Ngưỡng Sơn kế thừa y bát của Qui Sơn và truyền
Thiền theo phong cách của sư.
(Trí
Tuệ Thiền Sư)
244. TRIỆU CHÂU ĐỘI
DÉP RƠM
Tăng chúng hai nhà đông tây của chùa Nam Tuyền tranh nhau
một con mèo. . .
- Nó là của nhà
phía đông chúng tôi.
- Nó là con mèo
nhà phía tây chúng tôi.
Nam Tuyền nghe
ồn ào, bèn ra bắt con mèo giơ lên bảo:
- Ai nói được thì mèo sẽ sống. Không ai nói được, tôi sẽ
giết con mèo tại đây.
Tất cả đều im lặng. Vì thế, Nam Tuyền chém con mèo làm hai
mảnh.
Đến chiều, Triệu Châu về, Nam Tuyền thuật lại chuyện hồi sáng.
. .
Sau khi nghe xong, Triệu Châu không
nói một lời, chỉ cởi đôi dép rơm đội lên đầu, đi ra.
Nam Tuyền nói:
- Hồi sáng, nếu
có ông ở nhà đã cứu được con mèo.
(Trí
Tuệ Thiền Sư)
245. BỊ LỪA ĐÁ
Sau khi ngộ đạo, Triệu Châu dạo bước khắp nơi, viếng nhiều
Thiền sư thời ấy.
Một hôm sư đến
thăm Vân Cư Đạo Ưng. Vân Cư hỏi:
- Đại lão hán,
đại lão hán, sao không tìm một chỗ trụ đi cho rồi?
Triệu Châu nói:
- Trụ ở đâu bây
giờ?
Vân Cư đáp:
- Sau núi kia có ngôi chùa hoang, hòa thượng đến đó là phải.
Sau Triệu Châu đến viếng sư Tu Du. Tu Du hỏi:
- Đại lão nhân, đại lão nhân, sao không tìm một chỗ trụ đi cho rồi?
Triệu Châu lại
nói:
- Trụ ở đâu bây
giờ?
Tu Du nói:
- Ơ kìa, cái lão này còn không biết trụ ở đâu nữa mới lạ chứ!
Triệu Châu nói:
- Ba mươi năm đùa với ngựa không sao, bữa nay lại bị lừa đá.
Cuối cùng, cho đến năm tám mươi tuổi, sư mới định cư ở viện
Quan Âm, phía đông ngoại ô thành Triệu Châu.
Trong thời gian trụ trì viện Quan Âm, sư dùng trí tuệ sâu xa
và óc khôi hài nhàn nhã hướng dẫn đệ tử trên con đường đến chơn ngã.
Sư thường
nói: “Nếu đứa trẻ bảy tuổi hơn ta, ta học nó. Nếu ông lão trăm
tuổi không bằng ta, ta dạy ông lão.”
(Trí Tuệ Thiền Sư)
246. CỚ SAO LẠI CÓ BỤI
Một hôm, khi Triệu Châu đang quét sân chùa thì có người hỏi:
- Chốn già lam
thanh tịnh cớ sao lại có bụi?
Triệu Châu đáp:
- Từ ngoài đến.
Một hôm khác, cũng trong lúc Triệu Châu đang đang quét sân
chùa thì một ông tăng hỏi:
- Hoà thượng là
thiện tri thức cũng có bụi nữa sao?
Triệu Châu đáp:
- Kìa, lại một
hạt bụi nữa.
(Triệu Châu Ngữ Lục)
247. CHỖ CÓ PHẬT CHỚ
ĐỨNG LẠI
Khi một ông tăng từ giả Triệu Châu để đi tham vấn các nơi,
sư hỏi:
- Ông đi đâu?
Ông tăng đáp:
- Khắp các nơi
để học Phật pháp.
Sư dựng cây
phất tử lên nói:
- Chỗ có Phật chớ đứng lại, chỗ không Phật chạy lẹ qua! Chớ
lầm đem Phật pháp cho người cách ba ngàn dặm.
(Triệu
Châu Ngữ Lục)
248. KHÔNG MẮT TAI
MŨI LƯỠI
Thiền sư Động Sơn Lương Giới
(807-869) họ Du, quê ở Hội kê, tỉnh Triết giang. Sư xuất gia lúc còn bé. Sau
khi ngộ, sư trở thành trụ trì Động Sơn ở Giang tây vào năm 860. Sư cùng với đệ
tử là Tào Sơn sáng lập phái Tào Động.
Lúc còn trẻ, sư tụng Bát Nhã Tâm
Kinh với thầy đến câu: “Không sắc, không thọ, không tưởng,
không hành, không thức. . . Không mắt, tai, mũi, lưỡi, hay thân... Không thấy,
nghe, ngửi, nếm...”
sư liền lấy tay sờ mặt và hỏi thầy:
- Rõ ràng con có mắt, tai, mũi, lưỡi. . . sao kinh nói chẳng
có?
Thầy trả lời:
- Ta nghĩ ngươi nên tìm thầy khác, ta chẳng thể dạy ngươi
được.
Vì thế Động Sơn
đi đến nhiều nơi, học với nhiều đại sư.
Trước tiên
sư đến tham kiến Thiền sư Nam Tuyền và ở lại đó một thời gian...
Rồi sư đến Qui
Sơn Linh Hựu và hỏi:
- Thực ra có vô tình thuyết pháp hay
không? Nếu có, tại sao con không nghe ?
Qui Sơn đáp:
- Miệng do cha
mẹ cho, tôi chẳng dám nói với ông.
Động Sơn hỏi:
- Vậy thì con
nên hỏi ai?
Qui Sơn đáp:
- Sao không đến
Đàm Thành ở Vân Nham?
Cầm lá thư giới
thiệu của Qui Sơn, sư đến tham kiến Vân Nham.
Khi đến Vân
Nham, sư hỏi:
- Khi vô tình
thuyết pháp thì ai nghe được?
Vân Nham đáp:
- Vô tình nghe
được.
Sư hỏi:
- Hoà thượng
nghe được không?
Vân Nham đáp:
- Nếu nghe được, ta sẽ biến thành pháp thân, rồi ông chẳng
thể nghe ta thuyết pháp.
Sư hỏi:
- Tại sao
không?
Vân Nham đưa
phất tử ra hỏi:
- Ông nghe
chăng?
Sư đáp:
- Dạ không.
Vân Nham bảo:
- Chính khi tôi thuyết pháp ông còn chẳng nghe được, khi vô
tình thuyết pháp làm sao ông nghe được?
Sư hỏi:
- Kinh nào nói
vô tình thuyết pháp?
Vân Nham hỏi
lại:
- Không phải
kinh A-di-đà nói, “Sông, chim, cây, rừng tất cả đều niệm pháp” sao ?
Ngay đây, Động
Sơn tỉnh ngộ, nói:
Kỳ lạ
thay! Kỳ lạ thay!
Vô tình
thuyết pháp chẳng nghĩ bàn,
Nếu lấy
tai nghe, thật khó hiểu,
Nếu
dùng mắt thấy, liền nhận ra .
(Trí Tuệ
Thiền Sư)
249. NƯỚC CON AN ỔN
Khi Sa di Cao đến tham vấn Thiền sư Dược Sơn, Dược Sơn hỏi:
- Ông từ đâu
đến?
Cao đáp:
- Con từ Nam
Nhạc đến.
- Đã đi lại
những đâu?
- Đi Gia
lăng thọ giới.
- Thọ giới
mong làm gì?
- Mong khỏi
sanh tử.
- Có một người không thọ giới cũng
khỏi sanh tử, ông biết không?
- Thế thì
giới luật dùng làm gì?
- Còn mồm
mép lắm.
Cao lễ bái
lui ra.
Khi Đạo Ngô
đến đứng hầu, Dược Sơn bảo:
- Vừa rồi
có một sa di mới đến có chút khí khái.
Đạo
Ngô nói:
- Chưa nên
tin hẳn, cần phải khám phá mới được.
Đến chiều,
Dược Sơn lên tòa gọi:
- Sa di mới
đến ở đâu?
Cao bước ra
khỏi chúng tăng, đứng im.
Dược Sơn hỏi:
- Tôi nghe
nói Trường an rất náo loạn, ông có biết không?
Cao thưa:
- Nước con
an ổn.
- Ông do xem
kinh được hay do tham vấn được?
- Chẳng do
xem kinh hay tham vấn mà dược.
- Có người chẳng xem kinh, chẳng tham vấn, tại sao chẳng
được?
- Chẳng phải không họ được, chỉ vì
không chịu thừa nhận.
Dược Sơn
ngó Đạo Ngô, Vân Nham, hỏi:
- Tin tôi
chưa?
Một hôm,
Cao đến từ giả Dược Sơn, Dược Sơn bảo:
- Sanh tử
là việc lớn sao chẳng thọ giới đi?
Cao đáp:
- Biết thì
những việc ấy liền thôi, lại bảo thọ giới làm gì?
Dược Sơn
bèn thôi.
Hôm khác, đến giờ ăn trưa, Dược Sơn đích thân đánh trống,
Cao ôm bát múa đi vào phòng ăn.
Dược Sơn bỏ dùi
trống xuống, hỏi:
- Đấy là hòa
thứ mấy?
Cao đáp:
- Hòa thứ hai .
- Còn hòa thứ
nhất đâu?
Cao đến thùng
cơm lãnh một phần rồi đi ra.
(Trung
Hoa Thiền Đức)
250. KHÔNG CHỖ NÀO
KHÔNG ĐẾN
Khi Thiền sư Bảo Triệt ở núi Ma Cốc đang dùng quạt phe phẩy
quạt mình thì một ông tăng hỏi:
- Tánh của gió là thường tại và
không có chỗ nào là không đến. Sao hoà thượng còn dùng quạt làm gì?
Sư đáp:
- Ông chỉ biết tánh gió thường tại
mà chưa biết đạo lý của “không chỗ nào không đến.”
Ông tăng hỏi:
- Thế nào
là đạo lý của “không chỗ nào không đến?”
Sư phe phẩy
quạt mình. Ông tăng bái tạ thật sâu.
(Chánh Pháp Nhãn Tạng)
251. LÀ NGƯỜI HAY LÀ
PHẬT?
Hòa thượng Từ Phong Hải Quýnh
(1728-1811) là truyền nhân đời thứ ba phái Liên Tông thuộc dòng Thiền Lâm Tế
Việt Nam.
Năm 16 tuổi, sư đến chùa Liên Tông
đảnh lễ Thiền sư Tính Dược xin thế độ. Tính Dược bảo:
- Ngươi thân
như mọi rợ đâu kham lãnh đại pháp?
Sư đáp:
- Thân tuy mọi
rợ mà tâm đồng Phật Tổ.
Tính Dược bảo:
- Ta hỏi một câu ngươi đáp được thì độ cho, bằng không đáp
được, cho một tiền đi tìm thiện tri thức khác.
Sư đáp:
- Thỉnh hòa
thượng hỏi.
Tính Dược hỏi:
-Ngươi là người
hay là Phật? Là thật hay là giả?
Sư đáp:
- Người Phật
vốn không, huống hồ là có thật giả.
Tính Dược khen:
- Hay lắm!
Ngươi liễu đạo vậy.
(Thiền Sư Việt Nam)
252. ĐẦY MẮT NÚI XANH
Khi Thiền sư Pháp Nhãn ra mặt với
đời, hội chúng có năm trăm người. Lúc ấy Phật Pháp đại hưng thịnh, Quốc sư Đức
Thiều đã ở với Sơ Sơn một thời gian lâu, tự cho là đã đạt yếu chỉ của Sơ Sơn.
Vì vậy Đức Thiều mới thu thập tất cả bút tích và di ảnh của Sơ Sơn, dẫn tăng chúng
đi hành cước. Đến chỗ của Pháp Nhãn, bản thân Đức Thiều không vào thất mà chỉ
bảo đệ tử theo những người khác vào thất của Pháp Nhãn.
Một hôm, Pháp
Nhãn lên tòa, có một ông tăng hỏi:
- Thế nào là
một giọt nước Tào khê?
Pháp Nhãn đáp:
- Là một giọt nước
Tào khê.
Ông tăng mờ mịt, thối lui. Lúc đó Đức Thiều có mặt trong hội
chúng, nghe được, bỗng nhiên đại ngộ.
Sau này, sư xuất hiện với tư cách là một trong những người
thừa kế Pháp Nhãn. Đức Thiều trình bài kệ sau đây:
Thông huyền đỉnh núi,
Chẳng
phải nhân gian;
Ngoài
tâm không vật,
Đầy
mắt núi xanh.
Pháp Nhãn ấn chứng cho và nói: “Chỉ một bài kệ
này cũng đủ thừa kế tông môn ta. Ngày sau, vua chúa sẽ tôn vinh ông. Ta chẳng
bằng ông.”
(Bích Nham Lục)
253. TẤM LÒNG TRONG SẠCH
Một nhóm người ăn mày khốn khổ vì
bịnh cùi đến hội chúng của Bàn Khuê, một Thiền sư có tấm lòng đại độ. Bàn Khuê
chấp nhận họ vào hội chúng, và khi điểm hóa họ, sư còn tự tay tắm rửa và cạo
đầu cho họ nữa.
Khi sự việc diễn ra, có một ông lịch
sự có mặt ở đó, vị đại diện của một người có thế lực tin tưởngThiền sư Bàn
Khuê, đã lập một ngôi chùa trong tỉnh để Bàn Khuê huấn luyện đệ tử và nói pháp cho mọi người
nghe .
Tức giận vì thấy Thiền sư cạo đầu
cho bọn đê tiện, người lịch sự kia vội vàng đi múc một thau nước cho Bàn Khuê
rửa tay. Nhưng sư từ chối, nói: “Sự kinh tởm của ông còn dơ bẩn hơn
những vết thương lở loét của họ.”
(Giai Thoại Thiền)
254. THIỀN VÀ THUẬT TRỊ NƯỚC
Một lãnh chúa thường tham kiến Thiền sư Thiên Quế Truyền
Tông (1648-1735), hỏi về yếu chỉ Phật pháp. Khi sư bị bệnh lần cuối, vị lãnh
chúa phái một sứ giả đến thăm hỏi. Thiên Quế gửi sứ giả một lá thư ngắn mang về
cho lãnh chúa:
‘Tề gia
và trị quốc cũng là tu đạo. Hãy thận trọng áp dụng những chính sách nhân từ,
nhờ đó sẽ có sự tin cậy và hòa hợp giữa người cai trị và kẻ bị trị. Đây là
khuyên cuối cùng của tôi.”
(Giai
Thoại Thiền)
255. GIẤY ĐI CẦU
Trong đám tăng chúng của Thiền sư
Bạch Ẩn có một cuồng tăng, cho rằng mình đã ngộ và đồng nhất với Phật. Y xé
kinh làm giấy đi cầu. Các tăng nhân khác đã cảnh cáo ông ta về chuyện này,
nhưng ông tăng điên này không quan tâm, kiêu căng vặn lại: “Dùng kinh Phật
lau đít Phật có gì là sai?”
Lúc ấy có người thuật lại chuyện này
với Bạch Ẩn, sư hỏi ông ta: “Người ta nói ông dùng kinh Phật
làm giấy đi cầu, có phải không?”
Ông tăng điên đáp: “Phải. Tôi chính
là Phật. Dùng kinh Phật lau đít Phật có gì là sai ?”
Bạch Ẩn nói: “Ông sai rồi. Vì
chính là đít Phật, sao ông lại dùng giấy cũ có chữ viết trên đó? Ông nên dùng
giấy trắng sạch lau mới phải chứ.”
Ông tăng điên
xấu hổ và xin lỗi.
(Giai
Thoại Thiền)
256. TỈNH NGỘ
Thiền sư Setsugen nói với đệ tử là Jijo, “Nếu ông chuyên
tâm tọa thiền bảy ngày bảy đêm không gián đoạn mà không ngộ, thì cứ cắt đầu tôi
lấy sọ làm đồ chứa phân.”
Sau đó không bao lâu, Jijo bị bệnh kiết lỵ, liền lấy một cái
thùng nhỏ mang đến một chỗ biệt lập chẳng ai đến. Jijo ngồi trên thùng chú tâm
thiền định.
Jijo ngồi trên thùng bảy ngày liền, đến một đêm bỗng nhiên
cảm thấy cả trời đất giống như cảnh tuyết dưới ánh trăng sáng ngời và toàn thể
vũ trụ trở nên quá nhỏ hẹp, không thể chứa được mình.
Jijo nhập vào trạng thái này trong thời gian khá lâu cho đến
khi nghe một âm thanh làm giật mình thức tỉnh. Toàn thân Jijo toát mồ hôi, cơn
bệnh cũng biến mất. Jijo làm một bài kệ kỷ niệm:
Cái gì
đây mà lung linh, sáng tỏ?
Mất
tiêu liền trong nháy mắt lầm qua.
Cạnh
cầu tiêu, chiếc mái dầm ngời sáng;
Rốt
cuộc rồi, nó vốn là ta.
(Giai
Thoại Thiền)
257. GAN RUỘT
Một lãnh chúa còn trẻ và thích võ
thuật, học Thiền
với Thiền sư
Bàn Khuê. Một hôm, ông ta quyết định thử “gan ruột” của sư bằng
cách dùng cây thương tập kích thình lình khi sư đang tĩnh tọa.
Thiền sư bình tĩnh làm lệch cú đánh
bằng xâu chuỗi. Rồi sư bảo vị lãnh chúa: “Võ thuật của ông còn non nớt, tâm
ông đã động trước.”
(Giai
Thoại Thiền)
258. CHỚ LO LẮNG
Thiền sư Vô Học Tổ Nguyên là một trong những người sáng lập
Thiền ở Nhật Bản. Sinh ở Trung Quốc, sư đã ngộ lần đầu tiên năm mười hai tuổi
khi nghe bài kệ sau đây, lúc sư cùng cha đến viếng một ngôi chùa ở miền quê:
Bóng
tre quét thềm,
Không
động mảy bụi;
Ánh
trăng soi nước,
Không
lưu vết tích.
Khi đoàn quân Mông Cổ của Thành Cát
Tư Hãn, tràn vào phía nam Trung Quốc năm 1275, Vô Học đã chạy tránh ngọn lửa
chiến tranh; nhưng đến lúc tỉnh sư ẩn náu bị giày xéo vào năm sau, sư không
chạy nữa .
Khi quân Mông Cổ gây giông bão tại
tự viện Vô Học ngồi, tất cả tăng nhân khác và những người làm việc cho tự viện
đều tìm chỗ trốn y như lũ chuột rúc vào hang.
Bọn lính tiến gần pháp đường chỗ sư
ngồi một mình, chúng dí kiếm vào cổ sư. Sư hoàn toàn thản nhiên, bình tĩnh đọc
bài kệ sau đây:
Đất trời mênh mông,
Không
chỗ cắm dùi.
Vui
thay biết được
Người
pháp đều không.
Lưỡi
kiếm Nguyên Mông
Dài
và sáng rực
Chém
ngọn gió xuân.
Xúc động vì phong thái không sợ hãi của sư, bọn lính Mông Cổ
cất kiếm rút đi.
Vào năm 1280, Vô Học được Bắc Điều Thời Tông [Hojo
Tokimune], quan nhiếp chính của chế độ tướng quân, mời đến Nhật Bản. Mùa xuân
năm sau, khi Thời Tông đến viếng, Vô Học viết cho quan nhiếp chính một thông điệp
ba chữ: “Chớ lo lắng.”
Khi Thời Tông yêu cầu giải thích, sư
nói: “Vào lúc xuân hè tiếp nối, miền nam Nhật Bản sẽ có náo động,
nhưng sẽ ổn định lại không lâu, vì vậy chớ lo lắng.”
Quả nhiên, vào chính thu, một lực
lượng xâm lăng Mông Cổ tấn công phiá bắc nước Nhật, y như lời sư nói. Cũng đúng
như sư tiên đoán, bọn xâm lược bị đánh dẹp, và thanh bình sớm trở lại.
(Giai
Thoại Thiền)
259. ẨN CƯ
Thiền sư Đại Ngu đã sống một thời
gian trong núi sâu ở vùng thôn quê phía bắc Kyoto. Sư viết bài kệ sau đây nói
về chỗ sư ở:
Không
còn phiền não thị thành,
Không
còn tranh nhau phán quyết:
Mùa
thu ta ngủ
Lá xuôi
theo dòng,
Mùa
xuân ta nghe
Chim
hót trên cây.
Xuân
đến nơi nhân giới
Với
lòng tốt bao la;
Mỗi một
đóa hoa nở
Là một
vị Phật ra.
Tuyết còn
vô ý thức
Tan
chảy tất cả đi --
Vạn vật
giương lông mày
Cùng
nhau theo nhịp điệu
Tất cả
như là một.
(Giai
Thoại Thiền)
260. ĐẸP HƠN HOA
Mùa xuân năm nọ, nhà thơ bài cú lừng danh Ba Tiêu quyết định
đi xem hoa ở một nơi nổi tiếng vì có cảnh đẹp. Dọc đường ông nghe nói về một cô
gái nông dân nghèo nổi tiếng vì lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Vì hiếu kỳ, Ba
Tiêu đi tìm cô gái. Khi gặp cô gái, Ba Tiêu đã cho cô tất cả số tiền ông mang theo để chi tiêu
trong chuyến du hành. Rồi Ba Tiêu trở về nhà, không xem hoa gì cả.
Ba Tiêu nói, “Năm nay tôi thấy được một cái đẹp hơn hoa.”
(Giai
Thoại Thiền)
261. HÉT TRỐNG ĐỊA NGỤC
Một samurai (chiến sĩ) phục vụ cho
một người quyền thế trong tỉnh đến viếng Thiền sư Bạch Ẩn.
Sư hỏi chiến sĩ:
- Anh đã làm
gì?
Chiến sĩ đáp:
- Tôi luôn luôn thích lắng nghe Phật giáo. Vì vậy mà tôi bị
bịnh.
Bạch Ẩn hỏi:
- Anh bệnh như thế nào ?
Chiến sĩ
đáp:
- Ban đầu
tôi gặp một Thiền sư và cầu tìm yếu lý của tâm. Rồi tôi gặp một luật sư Chơn
Ngôn tông và học mật giáo. Nghi ngờ và rối loạn phát triển về hai tông phái,
trong khi quán tưởng mẫu tự A, bỗng nhiên trong tâm tôi hình ảnh địa ngục xuất
hiện. Tôi cố gắng chận chúng lại bằng cách dùng yếu lý của tâm, thì hai thị
kiến va chạm nhau, vì vậy tâm tôi bị quấy rối. Lúc ngủ tôi thấy ác mộng, khi
thức tôi lao nhọc vì suy nghĩ.
Bạch Ẩn chặc
lưỡi và nói:
- Anh có biết
cái gì làm cho địa ngục sợ hãi không?
Chiến sĩ đáp:
- Quan điểm
tánh không! Tôi bị bịnh này .
Bạch Ẩn liền hét chiến sĩ nhiều lần, hét đến nỗi anh ta tháo
lui, nói:
-Anh là một chú bé khờ! Chiến sĩ là kẻ trung thành với lãnh
chúa đến nỗi y không chạy trốn bão lụt hay hỏa hoạn mà phơi mình ra trước gươm
giáo, không run sợ và chớp mắt. Sao anh lại sợ quan điểm tánh không? Giờ đây,
anh hãy rơi vào một trong các địa ngục đó đi, và chúng ta hãy kiểm tra các địa
ngục!
Chiến sĩ phàn
nàn:
- Sao một ông thầy lại có thể bảo người ta rơi vào cảnh giới
xấu xa như thế ?
Bạch Ẩn cười và
nói:
-
Số địa ngục mà tôi đã rơi vào có đến tám mươi bốn ngàn cái! Này -- không
có nơi nào mà tôi không rơi vào!
Cuối cùng,
thấy được ý sư, chiến sĩ tràn ngập vui mừng.
(Giai
Thoại Thiền)
262. LỜI CUỐI CÙNG
O-San đã ngộ khi tham
học với Thiền sư Tetsumon. Sau này, khi đại sư Bạch Ẩn đến tỉnh bà ở, O-San đến
tham kiến sư.
Để trắc nghiệm, Bạch Ẩn hỏi bà về tiếng vỗ của một bàn tay.
O-San liền ứng
khẩu đọc bài kệ sau đây:
Lắng
nghe “Tiếng vỗ một tay,”
Chi
bằng vỗ cả hai tay mà làm!
Khi O-San trong cơn
bịnh cuối cùng, các con tập trung quanh bà, muốn biết những lời cuối cùng của
bà. Bà mỉm cười và đọc bài kệ sau:
Trên
thế gian này
Chỗ
ngôn ngữ không còn gì cả
Còn gì
hơn giọt sương
Trên
lá,
Ta nói
gì
Cho con
cháu đời sau?
(Giai Thoại
Thiền)
263. KINH MỘT CHỮ CỦA
ĐẠI GIÁC
Người sáng lập chùa Kiến Trường ở Khiêm Thương vào thế kỷ
thứ 13 là một Thiền sư Trung Hoa tên là Đại Giác. Sư được tướng quân Thời Lại
[Tokiyori] mời đến truyền bá Thiền tông cho các khu vực phía đông Nhật Bản.
Một số tu sĩ và cư sĩ của các tông
phái khác không hài lòng chuyện này chút nào. Lòng ganh tị lan truyền rằngThiền
sư là gián điệp do Mông Cổ phái đến Nhật và dần dần nhiều người tin như vậy.
Lúc ấy, các quan hệ với Mông Cổ trở nên tệ hơn, và chính phủ của Tướng quân, do
tin đồn hướng dẫn sai lầm, đã thuyên chuyển sư đến Koshu. Sư không những không
phiền não chút nào mà còn vui mừng đi theo nghiệp lực dẫn đường.
Có một người chuyên trì các thần chú như Pháp Hoa và A-di-đà,
đến gặp sư, nói:
-Thiền đọc Tâm Kinh vừa dài vừa khó, trong khi Nhật Liên
Thượng Nhân dạy chú Pháp Hoa chỉ có bảy chữ và Nhất Biến Thượng Nhân chú A-di-đà
chỉ có sáu chữ. Kinh Thiền thì dài hơn nhiều mà lại khó tụng.
Đại Giác lắng
nghe rồi nói:
- Đệ tử Thiền muốn gì với kinh văn dài dòng? Nếu ông muốn
đọc kinh Thiền, hãy đọc nó bằng một chữ thôi. Các thần chú sáu chữ, bảy chữ
cũng dài lắm.
(Thiền
và Đạo Thuật)
264. KINH KHÔNG CHỮ
CỦA PHẬT QUANG
Tu sĩ của Tsurugaoka Hachiman đến gặp Thiền sư Trung Hoa tên
là Phật Quang, người thừa kế Thiền sư Đại Giác, kể sư nghe câu chuyện kinh một
chữ của Thiền sư Đại Giác và hỏi:
- Tôi không hỏi sáu chữ, bảy chữ các phái khác tụng niệm,
chỉ muốn biết thế nào là kinh một chữ của Thiền?
Phật Quang đáp:
- Tông môn chúng tôi một chữ cũng chẳng lập, giáo lý truyền
riêng bên ngoài kinh điển, đạo thì lấy tâm truyền tâm. Nếu ông muốn đi sâu vào
đó, thì cả cuộc đời ông sẽ là một câu thần chú, cái chết của ông cũng sẽ là một
câu thần chú. Ông còn muốn một chữ, nửa chữ làm gì? Lão sư Đại Giác đi vào rừng
sâu đặt xuống đó một chữ, giờ đây cả thiền lâm đang xé nát nó thành nhiều mảnh
trên gai nhọn, cố tìm nó. Nếu thượng tọa đứng trước tôi đây muốn nắm lấy một
chữ đó, thì không mở miệng tụng kinh không chữ. Nếu thượng tọa không biết kinh
không chữ, thì liền mất kinh một chữ đó vậy. Hãy đem một chữ này gửi đến từng
trời thứ ba mươi ba; hãychôn nó đi, nó ở dưới đáy đại địa ngục thứ tám. Bốn
phương, trên dưới, chỗ nào có thể dấu được nó? Ngay giây phút này, ở trước
thượng tọa! Có chữ nào hay không?
Kim vàng không
thấu được (lớp vải thêu), tu sĩ im lặng rút lui.
(Thiền
và Đạo Thuật)
265. ĐỊA TẠNG NGUYÊN
HÌNH
Sakawa Koresada, tùy viên trực tiếp của dòng họ Uesugi, bước
vào chánh điện chùa Kiến Trường và cầu nguyện trước Bồ-tát Địa Tạng Ngàn Tướng.
Rồi ông ta hỏi vị tăng thị giả phụ trách chánh điện:
- Trong ngàn
tướng của Địa Tạng, tướng nào là Địa Tạng nguyên hình?
Thị giả đáp:
- Trong ngực của quan hộ vệ ngay trước tôi đây là ngàn niệm,
vạn tưởng; cái nào là niệm tưởng đầu tiên?
Chiến sĩ
(samurai) lặng câm.
Thị giả lại
nói:
-Trong ngàn tướng của Địa Tạng, Địa Tạng nguyên hình là Phật
thế tôn, ngài luôn luôn dùng ngàn tướng.
Chiến sĩ hỏi:
- Phật thế tôn
là ai?
Thị giả bất ngờ
nắm mũi chiến sĩ vặn mạnh.
Chiến sĩ bỗng
nhiên tỉnh ngộ.
(Thiền và Đạo Thuật)
266. THAM VẤN BAN ĐÊM
[Myotei
là một góa phụ và là một người đàn bà có cá tính mạnh. Bà đã tu tập mấy năm
dưới sự hướng dẫn của Kimon, vị sư thứ 150 của chùa Viên Giác. Vào một dịp
viếng chùa, bà đã có một kinh nghiệm trong khi lắng nghe sư thuyết pháp về kinh
Kim Cương. Vào năm 1568, bà tham dự tuần nhiếp tâm Lạp Bát (mồng tám tháng mười
hai, kỷ niệm ngày Phật thành đạo].
Trước khi vào một trong những cuộc tham vấn ban đêm, bà cởi
hết tất cả y phục của mình ra, và bước vào độc tham không một mảnh vải che
thân. Bà nằm xuống trước mặt sư. Sư Kimon cầm gậy như ý bằng sắt thọc vào giữa
hai đùi bà, nói:
- Bày trò gì
đây?
Ni cô Myotei
đáp:
- Bày cái cửa
chư Phật ba cõi nhờ đó đến thế gian này.
Sư nói:
- Trừ phi chư Phật ba cõi vào, [nếu không] các ngài chẳng
thể ra. Hãy cho vào cửa ngay đây và bây giờ.
Và sư ngồi dang
hai chân qua ni cô.
Ni cô hỏi:
- Ai sẽ vào? Đó
là Phật gì?
Sư đáp:
- Cái gì xưa
nay vốn có, không có “sẽ.”
Ni cô nói:
- Ai không cho
biết tên thì là kẻ cướp vô lại, không được phép vào.
Sư đáp:
- Phật Di Lặc, phải đản sinh để độ người sau khi Phật Thích
ca nhập diệt, vào cửa.
Ni cô làm như muốn nói nhưng sư liền lấy tay bịt miệng cô
lại. Sư đè chiếc gậy sắt giữa hai đùi cô, nói:
- Phật Di Lặc
vào cửa. Hãy sinh ngay lập tức!
Ni cô do dự và
sư nói:
Đây chẳng phải tử cung thật; làm sao sinh được Di Lặc?
Ni cô đi ra và
trong cuộc tham vấn sáng hôm sau, sư hỏi:
- Đã sinh được
Di Lặc chưa?
Ni cô hét lớn:
- Ổng đã lặng
lẽ sinh ra tối hôm qua rồi!
Cô nắm đứng sư,
hai bàn tay ôm đỉnh đầu sư, nói:
-Tôi mời ông Phật ấy dùng đỉnh đầu này làm Tòa Sư Tử. Hãy để
ổng từ bi ở đó mà thuyết pháp.
Sư nói:
- Đạo chỉ là
một, không hai, không ba.
Ni cô nói:
- Do căn cơ mà chúng sinh khác nhau vạn nẻo. Làm sao hòa
thượng có thể gắn họ vào một đường?
Sư nói:
- Một tướng dẫn
đầu vạn quân vào kinh đô.
(Thiền
và Đạo Thuật)
267. BỨC TRANH NGƯỜI
ĐẸP
Vào năm 1299, khi lãnh chúa Fukuda Sadatomo đến chùa Kiến
Trường để dự lễ. Ông gặp sư Saikan trong một căn phòng, bất ngờ trong phòng ấy
có một bức tranh vẽ Rei Shojo, một người đẹp đương thời của triều đại nhà Tống.
Lãnh chúa hỏi sư:
- Đó là ai?
Sư đáp:
- Người ta nói
không ngờ đó là Rei Shojo.
Sadatomo ngắm
bức tranh một cách ngưỡng mộ và nói:
- Tranh đó được vẽ như có thần lực và còn cực kỳ hiến dâng.
Người đàn bà đó có phải hiện giờ ở nước Tống không?
Sư đáp:
- Ở Tống, ngài muốn nói gì? Hiện giờ ở đây, tại Nhật này.
Nhà quí tộc
hỏi:
- Ở đâu thế?
Sư hét to:
- Lãnh chúa
Sadatomo!
Nhà quí tộc
nhìn lên.
Sư nói:
- Ở đâu thế ?
Sadatomo lãnh
hội được yếu chỉ, bái tạ.
(Thiền
và Đạo Thuật)
268. TIẾNG HÉT CỦA
TODEN
Yoriyasu là một samurai tự phụ và hiếu chiến. Vào mùa xuân
năm 1314, anh ta được thuyên chuyển từ Kofu đến Kamakura, ở đây anh ta đến
viếng Toden, vị sư thứ 45 ở chùa Kiến Trường, để hỏi Thiền.
Sư Toden nói:
- Ấy là trực tiếp biểu hiện Hành Động Vĩ Đại trong trăm mối
quan tâm về cuộc sống. Khi nó trung như một samurai, ấy là trung của Thiền.
Trung viết theo chữ Hán là kết hợp chữ “trung” và chữ “tâm”, vậy nó có
nghĩa ông chủ ở giữa con người. Phải là không phiền não sai lầm. Nhưng hôm nay
lão tăng đây nhìn chiến sĩ, có kẻ trung tâm nghiêng về danh và tiền, có kẻ
nghiêng về rượu và sắc dục, và có kẻ nghiêng về quyền lực và can đảm. Tất cả
bọn họ đều ở trên những cái dốc đó, và không thể có tâm trung. Làm sao họ có
thể trung đối với quốc gia? Nếu ông, thưa Ngài, muốn tu Thiền, trước hết hãy tu
trung, và đừng trượt chân vào dục vọng sai lầm.
Chiến sĩ nói:
- Trung của chúng tôi là Hành Động Vĩ Đại trực tiếp trên
chiến trường. Chúng tôi cần sự thuyết pháp của nhà sư để làm gì?
Sư đáp:
- Ngài là một anh hùng trong tranh biện, tôi là kẻ thanh nhã
hòa bình--chúng ta có thể không có gì để nói với nhau.
Lúc ấy chiến sĩ
rút kiếm ra, nói:
- Trung ở trong lưỡi kiếm của anh hùng, nếu thầy không biết
điều này thì chẳng nên nói đến trung.
Sư đáp:
- Lão tăng đây có kiếm báu Vua Kim Cương, nếu ông không biết
nó, chớ nên nói đến trung.
Chiến sĩ nói:
- Trung của Kiếm Kim Cương -- thứ đó dùng làm gì trong chiến
đấu thật sự?
Sư liền nhảy tới hét lên một tiếng Katsu!, khiến chiến sĩ
hoảng hốt đến độ mất hết ý thức. Sau đó một chút, sư lại hét nữa và chiến sĩ
liền bình phục.
Sư nói:
- Trung trong lưỡi kiếm của anh hùng, ở đâu rồi? Nói!
Kinh hãi quá,
chiến sĩ xin lỗi rồi rút lui.
(Thiền
và Đạo Thuật)
269. THANH KIẾM GIẤY
Vào năm 1331, khi Nitta Yoshisada đang đánh Hojo Sadatoki,
một viên chức hộ vệ chính của dòng họ Bắc Điều tên là Sakurada, bị giết. Vợ của
ông ta là Wasa muốn cầu nguyện cho người quá cố, bà cắt tóc vào chùa Đông Khánh
làm ni cô pháp danh là Shotaku. Bà đã nhiều năm hiến mình cho Thiền dưới sự chỉ
dạy của vị sư thứ 17 của chùa Viên Giác, và cuối cùng đã trở thành ni sư thứ ba
của chùa Đông Khánh. Vào tuần nhiếp tâm Lạp Bát (mồng 8 tháng 12) năm 1339, sau cuộc tham vấn chiều với sư
chùa Viên Giác, khi bà đang trên đường về nhà thì một người đàn ông cầm kiếm
thấy bà, bị sắc đẹp của bà quyến rũ. Hắn dùng kiếm đe dọa và đến cưỡng hiếp bà.
Ni sư liền lấy một tờ giấy ra, cuộn lại và đâm vào mắt người đàn ông như một
lưỡi kiếm. Hắn không còn đánh được và hoảng sợ quá đỗi vì sức mạnh tinh thần
của ni sư. Hắn quay đầu bỏ chạy và ni sư bồi thêm một tiếng hét Yaa!, đánh hắn bằng
thanh kiếm giấy. Hắn té, rồi chạy trốn.
(Thiền và Đạo Thuật)
270. ĐẤT TRỜI TAN VỠ
Tadamasa, một viên chức hộ vệ lâu năm của quan nhiếp chính
Bắc Điều Cao Thời, có pháp danh là An Sơn. Ông ta là một tín đồ mẫn nhuệ của
Thiền, đã tới lui thiền đường dành cho nam cư sĩ ở chùa Kiến Trường trong hai
mươi ba năm. Vào năm 1331, khi đánh nhau xảy ra khắp nơi, ông ta bị thương và
chạy như bay đến chùa Kiến Trường để gặp Sosan, vị sư thứ 27 của chùa. Lúc đó
chùa đang có Trà
thang (Cha no yu). Sosan thấy người đàn ông mặc áo giáp đến, liền
để một tách trà phía trước ông ta, nói:
- Cái này thế
nào?
Chiến sĩ lập
tức dẫm nát cái tách trà dưới chân và nói:
- Trời đất cùng
tan vỡ.
Sư nói:
- Khi trời đất tan vỡ thì ông thế nào?
An Sơn đứng thẳng hai tay khoanh trước ngực. Sư đánh ông ta
và ông ta miễn cưỡng kêu lên vì các vết thương bị đau.
Sư nói:
- Trời đất vẫn chưa hoàn toàn tan vỡ.
Tiếng trống vang lên từ trại lính phiá núi bên kia và
Tadamasa chạy thật nhanh về trại. Sáng hôm sau, ông ta trở lại chùa, mình dính
đầy máu, để gặp sư. Sư bước ra, lại nói:
- Khi trời đất
tan vỡ thì ông thế nào?
An Sơn nương mình lên thanh kiếm đẫm máu, hét một tiếng Yaa!
lớn rồi chết đứng trước mặt sư.
(Thiền
và Đạo Thuật)