Tiếng chuông xứ Huế
Trong chúng ta, phần đông ao ước được một lần đến Huế, để 
nhìn tận mặt, để nghe tận tai, Huế là ai, Huế là gì, Huế thơ mộng sâu 
lắng như thế nào, mà nói hoài nói mãi vẫn không hết. Viết về Huế là dịp 
để thể hiện mình, để cùng thơm, cùng thơ, cùng lãng mạn với Huế. 
																
								Cũng giống như khi ta viết về một chút kỷ niệm với Bùi Giáng,
 Trịnh Công Sơn, bài viết dù không hay mấy nhưng khi đọc xong độc giả 
cũng mỉm cười chấp nhận, bởi vì ngay trong bài viết đã có bóng hình nhân
 ảnh của Bùi Giáng, của Trịnh Công Sơn.
Với tôi, Huế như người thân ruột thịt, ngày thọ giới lớn, tôi thọ 
giới tại Đại Giới Đàn chùa Báo Quốc, những năm tháng ốm đau nằm chữa 
bệnh ở nhà Cư Sĩ Lê Quý Ngưu - Trần thị Như Đức ở An Cựu, những năm 
tháng Huế thăng trầm tôi có đến, đến ăn Tết. Chứng kiến  cảnh chùa Huế 
trong ba ngày Tết cắt một nải chuối rời ra, mỗi bàn đơm vài trái, đền 
đài lăng tẩm rêu phong, không mấy người lui tới. Huế đã dạy cho tôi bài 
học vô thường, bài học chịu đựng vươn lên từ trong gian khổ bão giông. 
Huế nay đã thay da đổi thịt bằng con đường giữ gìn văn hoá ông cha, Huế 
trở thành thành phố cấp một, thành phố luôn tổ chức Festival, nơi giao 
lưu văn hoá đông tây. Huế luôn nhớ ơn đền ơn, đã xây đền Huyền Trân công
 chúa ở Núi Ngũ Phong, thôn Ngũ Tây, xã Thuỷ An, khói hương nghi ngút, 
bái vọng tháng ngày. Huế ơi biết nói sao cho vừa. Ngoài những ân tình kỷ
 niệm vừa mới nêu, trong tôi Huế còn có tiếng chuông chùa.

Năm 1980 tôi thọ giới tại Huế, một buổi sáng tôi cới xe đạp đi từ 
chùa Bảo Quốc về đàn Nam Giao, lúc đó khoảng 3 giờ 30 đến 04 giờ  sáng, 
tiếng chuông chùa đây đó đồng loạt thỉnh lên, trong thành phố và ngoại 
vi Huế có hơn 100 ngôi chùa lớn nhỏ, Trên một trăm quả chuông Đại Hồng 
Chung (xin được viết tắt ĐHC) lớn nhỏ khác nhau, chuông xưa có, chuông 
mới đúc có, nên âm thanh khác nhau. Chuông Huế có một đặc điểm khác với 
chuông đúc ở địa phương khác, dù là chuông xưa hay chuông nay, đều âm 
trầm sâu lắng mang âm hưởng tính tình của người đúc, của cư dân địa 
phương. Người nghệ nhân đúc chuông xứ Huế, hầu hết là Phật tử, mà đã là 
Phật tử thì luôn quý kính Tam Bảo, có tu có học với sự hướng dẫn của chư
 Tăng, nên cách đi đứng nói cười sinh hoạt của nghệ nhân Phường Đúc nói 
riêng và của cộng đồng Phật tử xứ Huế nói chung có tĩnh lặng, khoan 
thai, có chất thiền. Bề ngoài là biểu hiện của nội tâm, tâm có Đạo, có 
ung dung, tĩnh tại thì khi hành nghề sản phẩm cũng tĩnh tại, nhu hoà, 
phẩm chất, người nghệ nhân Phật tử luôn chú ý đến chất lượng  chứ không 
phải số lượng. Do vậy tiếng chuông chùa Huế buổi sáng như một dàn hợp âm
 với nhiều cung bậc khác nhau. Tiếng ĐHC chùa Từ Đàm vừa thỉnh lên, thì 
tiếp theo tiếng ĐHC chùa Báo Quốc, rồi nối nhau tiếng chuông chùa Linh 
Quang, Hiếu Quang, Hải Đức, Châu Lâm, Từ Hiếu, Bảo Lâm, Kim Tiên, Tường 
Vân.v.v...Những âm thanh trầm lắng u viễn kia cứ đan xen lại với nhau, 
khởi đầu thì khoan thai, chậm rải, càng về sau càng thúc dục như âm điệu
 kết thúc của bài Kinh Bát Nhã: Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi 
Svaha.
Bởi chùa nào cũng có một Đại Hồng chung, nên triêu mộ chuông được 
thỉnh lên. Khi thỉnh chuông, chùa tự nhắc nhở chính mình phải luôn tỉnh 
thức, phải trên thì cầu Phật đạo, dưới phải đem giáo pháp từ bi yêu 
thương đến với mọi người, cầu cho quốc thái dân an, thế giới hoà bình, 
chúng sanh an lạc, kẻ âm siêu thoát người dương an lành. Và ngoài kia, 
ngoài không gian tĩnh lặng của nhà chùa, là cả một thế giới bao la trần 
luỵ, não phiền của cõi người ta, tiếng chuông là thông điệp kêu gọi 
chúng ta trở về với tính thiện có sẵn ở nơi mình, đưa thân và tâm chúng 
ta hợp nhất:
Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới
 Khắp nơi u tối mọi loài nghe
 Siêu nhiên vượt thoát vòng sanh tử
 Giác ngộ tâm tư một hướng về
Nghe chuông phiền não tan mây khói,
 Ý lặng thân an miệng mỉm cười.
 Hơi thở nương chuông về chánh niệm
 Vườn tâm hoa tuệ nở xinh tươi
Để có được tiếng chuông trầm ấm sâu lắng lan toả trong không gian bao
 la vô tận, thức tỉnh lòng người kia, người nghệ nhân Phường Đúc phải 
làm sao? Phải làm gì? Phải sống như thế nào để khi đúc ra có được tiếng 
chuông gọi là chuông Huế? Chúng ta thử tìm hiểu:
Đức Phật dạy Tâm và Vật không hai, Tâm và cảnh nhất như, tương dung 
tương nhiếp lẫn nhau, cụ Nguyễn Du cũng đã phát biểu “Người buồn cảnh có
 vui đâu bao giờ”. Người nghệ nhân đúc chuông, ngoài tay nghề cha truyền
 con nối, phải lấy chữ Tâm làm đầu. Lỡ nhận Đại Hồng Chung (ĐHC) trong 
lúc giá đồng hạ, đột biến giá đồng tăng, đành cam chịu. Không phải giá 
đồng tăng mà làm tắc trách trong công việc, hoặc pha đồng tạp nham, nếu 
vậy ĐHC sẽ không có tiếng. Các cơ sở đúc ĐHC ở phường đúc rất nhiều, có 
cơ sở làm không hết việc, cũng có cơ sở rất ít khách. Qua tìm hiểu chúng
 tôi biết được, cơ sở nào mà người chủ biết tu tập, biết trân quý tiếng 
chuông xứ Huế, biết bảo lưu vốn quý của ông cha, cơ sở đó không đặt lợi 
nhuận lên hàng đầu, chỉ mong sao khi ĐHC đúc xong, có âm thanh thanh 
thoát trầm ấm, tiêu biểu được cho tiếng chuông xứ Huế. Muốn có tiếng ĐHC
 hay, người nghệ nhân luôn tưởng nhớ Phật, bởi Phật là người Giác Ngộ, 
là người tỉnh thức và tiếng chuông là tiếng tỉnh thức, kêu gọi mọi người
 quay về với sự tỉnh thức. Không để tâm đến sự ăn chay, ăn uống không 
kềm chế, trước ngày rót đồng mà ăn uống bù khú, say sưa. Ngày hôm sau 
rót đồng tiếng ĐHC rất khó mà hay, mặc dù công thức pha đồng với thiết 
đúng tỷ lệ, lửa đốt lò với nhiệt độ chuẩn….
Nơi chùa tôi đang ở còn giữ được một ĐHC khoảng 300 kg, đúc năm 1966 
tại Phường Đúc, Huế, âm thanh khi thỉnh lên tiếng trong và thanh, ngân 
vang rất lâu, tựa như trong ĐHC có vàng, từ lâu tôi cứ đinh ninh tiếng 
ĐHC hay là tuỳ thuộc số vàng bỏ vào khi đúc chuông nhiều hay ít. Vậy mà 
mới đây thôi, chùa chúng tôi được gia đình đạo hữu Trần Kỳ, pháp danh 
Nhật Bích. Cao thị Phượng pháp danh Đồng Hoàng cúng dường cho chùa một 
quả ĐHC nặng 900 kg, chúng tôi có đến lò đúc của cụ Nguyễn văn Sở pháp 
danh Nguyên Tại, ở thôn thượng 4, Thuỷ Xuân, Thành Phố Huế liên hệ đúc, 
qua vài lần trao đổi tìm hiểu cụ cho biết không phải bỏ nhiều vàng khi 
rót đồng là ĐHC tiếng hay. Vàng là vật quý trong đời sống, biểu thị đức 
tin của mình không gì bằng cúng dường vàng khi đúc chuông hay tạo tượng 
do vậy thập phương Phật tử thích cúng dường bằng cách này. Tiếng chuông 
hay là ở tỷ lệ pha chế giữa đồng tốt không tạp chất và thiết, cách làm 
khuôn không dày mỏng chênh lệch nhau, khi nấu đồng bằng mắt thường vẫn 
phải cảm nhận được nhiệt độ khi nấu, bằng trực quan, bằng kinh nghiệm 
nghề nghiệp Tổ truyền, và hơn hết vẫn là cái Tâm của người nghệ nhân thì
 tiếng chuông ĐHC sẽ hay.
Nhìn hình ảnh một cụ già 76 tuổi, mặc chiếc áo tràng màu lam, bạc 
thếch, lúi húi cắm hoa, chưng trái cây trên bàn Phật, bàn Tổ nghề đồng, 
rồi tụng kinh lạy Phật lạy Tổ trước ngày rót đồng đúc ĐHC, tôi đã hiểu 
được vì sao cơ sở cụ Nguyễn văn Sở được các chùa trong nước, ngoài nước 
biết đến, tìm đến nhờ cụ đúc cho một quả chuông ĐHC để kỷ niệm, thâm tâm
 các vị trụ trì, các vị phụ trách các cơ sở tự viện sợ cụ ra đi, những 
người thừa kế không còn được cái Tâm như cụ.