Hầu hết những vị xuất gia hay
tại gia tùy theo tông phái khi tụng kinh, bái sám, hành lễ đều ít nhiều có dùng
đến những pháp khí nói trên. Và, cũng tùy theo buổi lễ để xử dụng cho đúng chỗ
và đúng điệu của nó. Một bài tán hương cúng Phật được cử lên, ta đã thấy những
cung điệu thật nhịp nhàng với nhau một cách tuyệt diệu. Bài tán là một bài thơ
Phật pháp được phổ theo điệu nhạc thiền. Nếu bài thơ được phổ dồn dập lời nhạc
thì được gọi là tán xấp, nếu phổ theo điệu nhạc lơi thì được gọi là tán rơi.
Và, khi ta đi vào bằng một tâm hồn thiền học thì ta ta thấy những âm ba ấy làm
cho cõi lòng ta an nhiên tự tại và cảm thấy thanh thoát. Vì giá trị văn thơ và
triết lý của bài thơ đã là cao sâu, nốt nhạc để diễn tả những vầng thơ ấy lại
càng thấm hương vị thiền rất là sâu sắc.
Viết về cổ nhạc Phật giáo, Nhạc
sĩ Nguyễn Hữu Ba đã nói: "Trong âm nhạc giữa đời, chúng ta nghe có điệu
như máu sôi, như lửa cháy, như quỷ khốc thần sầu, có khúc như say đắm dâm ô,
như reo cười múa hát. Thật ra, âm nhạc tượng trưng cho cảnh vui buồn tương đối
của trò đời giả dối vậy.
Trái lại, âm nhạc nhà Phật là
phản ảnh của đời sống an lạc, đạm bạc tâm hồn bình dị thanh khiết của đạo mầu
giải thoát khổ đau ... Nội tâm thì bình tỉnh an vui, ngoại cảnh thì thanh thoát
hồn nhiên, nên âm nhạc nhà Phật đã thấm nhuần tinh thần thoát tục siêu phàm,
không vướng chút gì gọi là ưu sầu phiền lụy.
Ở đây có những nét nhạc lung linh
như nến, uyển chuyển như khói trầm, nhẹ nhàng như hương sen, có những nét nhạc
như vàng, huy hoàng như vàng son điện tháp, có những nét nhạc trầm hùng và tỏa
rộng như chuông chiều, oai nghiêm như đại cổ...
Vậy thì, muốn dùng lễ nhạc Phật
giáo đều cần những pháp khí như sau:
1. Chuông:
Xuất xứ: Theo như trong kinh
Tăng nhất a hàm có chép: Mỗi khi nghe tiếng chuông ngân lên, thì các hình phạt
trong các ác đạo tạm thời dừng nghỉ, chúng sanh nào đang chịu những hình phạt
ấy cũng được tạm thời an vui. Nghe được tiếng chuông là phiền não nhẹ vơi đi.
Trong chuyện Cảm thông cũng có
chép:
... "Ngày xưa khi đức Phật
Câu lưu Tôn ở tại viện Tu đa La xứ Càng trúc đã có tạo một quả chuông bằng đá
xanh, thường vào lúc mặt trời vừa mọc khi tiếng chuông ấy vừa ngân lên thì
trong ánh mặt trời ấy có các vị Hóa Phật hiện ra, diễn nói 12 bộ kinh, làm cho
người nghe được chứng thánh quả không kể xiết".
Trong bộ kinh Kim cang Chí cũng
có chép: "Vua Hiếu cao Hoàng đế đời nhà Đường nhơn vì nghe lời sàm tấu của
Tống tề Khưu mà giết lầm kẻ tôi trung tên là Hòa Châu, nên khi chết đọa vào địa
ngục. Một hôm có một người bị bạo tử (chết thình lình) thần hồn đi lạc vào địa
ngục ấy, thấy một tội nhân đang bị gông cùm, bị kềm kẹp đánh đập rất là khổ sở,
hỏi ra thì mới biết là vua Hiếu Cao nhà Đường. Vua gọi vị bạo tự ấy vào mà nói
rằng: Nhờ ngươi trở lại dương thế nói giúp với hậu chúa rằng: Hãy vì ta mà đúc
chuông cúng dường và làm các việc từ thiện. Khi trở lại dương thế, người bạo tử
liền đến yết kiến hậu chúa để chuyển lời nhắn nhủ của vua Hiếu Cao. Nghe vậy,
hậu chúa liền thân hành đến chùa Thanh Lương phát nguyện đúc một quả chuông để
cúng dường và cầu siêu cho Hiếu Cao Hoàng đế. (Tích nầy trong truyện Bách
Trượng thanh quy, trang 68 và 87). Đồng thời trong kinh Lăng nghiêm, đức Phật cũng
bảo ngài La hầu La đánh chuông để giảng cái lý cho Tôn giả A Nan nghe. Vì thế
chúng ta có thể hiểu rằng chuông đã có từ thời đức Phật còn tại thế.
Các loại chuông: Chuông lớn
thường gọi là Đại hồng chung, chuông nhỏ thì gọi là Bảo chúng, chuông gia trì
cũng có loại lớn, vừa và nhỏ. Tất cả đều gọi chung một tiếng là chuông.
a. Đại hồng chung: Cũng có tên
là chuông U minh (mờ mờ, mờ mịt), thường được đánh vào lúc đầu hôm
hay lúc gần sáng.
Tiếng chuông đánh đầu hôm là
nhắc nhở cho mọi người biết rằng cơn vô thường đến với chúng ta không hứa hẹn,
rất ngắn ngũi, nhanh chóng. Đánh vào lúc ban sáng là nhắc nhở cho mọi người cố
gắn tinh tiến tu hành để mau vượt thoát ra khỏi cảnh đau khổ, không vướng mắc
cảnh tội lỗi và dễ dàng ra khỏi luân hồi sanh tử. Thông thường mỗi lần thỉnh
chuông như thế là phải 108 tiếng với mục đích là khuyến tấn vạn loại hữu tình
mà đặc biệt là con người cố gắng đoạn trừ 108 phiền não căn bản. Mỗi lần thỉnh
chuông được đọc lên những câu kệ để chú nguyện theo tiếng chuông. Kệ chuông như
sau:
Nguyện thử chung
thanh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất
giai văn,
Văn trần thanh
tịnh chứng viên thông,
Nhất thế chúng
sanh thành chánh giác.
Nghĩa là:
Nguyện tiếng chuông nầy vang khắp pháp
giới,
Núi Thiết vi mờ mịt kia cũng đều được nghe,
Căn cảnh thanh tịnh chứng bậc viên thông,
Hết thảy chúng sanh thành bậc chánh giác.
Đồng thời, nguyện cho tất cả
loài hữu tình lắng lòng nghe tiếng chuông, rồi duyên theo tiếng chuông ấy cũng
bằng câu kệ:
Văn chung thanh phiền não khinh,
Trí huệ trưởng bồ đề sanh,
Ly dịa ngục xuất hỏa khanh,
Nguyện thành Phật độ chúng sanh.
Án, già ra đế da tóa ha (3 lần)
Nghĩa là:
Nghe được tiếng chuông, phiền não liền nhẹ,
Trí huệ thêm lớn, sanh tâm bồ đề
Ra khỏi địa ngục, vượt thoát hầm lửa,
Nguyện được thành Phật, để độ chúng sanh.
Án, già ra đế da tóa ha (3 lần)
Tiếng chuông sớm hay tiếng
chuông chiều không những chỉ để cảnh tĩnh cõi dương mà còn hướng dẫn cho cõi âm
nữa. Vì thế mà thường gọi là chuông U minh.
b. Bảo chúng: Cũng gọi là
chuông Tăng đường, tức là chuông nhỏ, chỉ một người xách
lên được. Hình thái cũng như chuông U minh, được treo ở trai đường, dùng để báo
tin trong lúc họp chư Tăng biết vào những lúc: Nhóm chúng, thọ trai, giờ chấp
tác, giờ bái sám trong các tự viện.
c. Chuông gia trì: Loại chuông
nầy dùng để đánh lên trong lúc tụng kinh bái sám. Tiếng
chuông gia trì được xử dụng trước khi tụng kinh hay báo hiệu sắp hết đoạn kinh
đang tụng hay câu niệm Phật. Cũng thường đánh lên khi lạy Phật một mình. Còn
khi đông người thì để báo hiệu cùng lạy cho nhịp nhàng. Chuông gia trì có đủ ba
loại lớn, vừa và nhỏ. Chuông vừa và nhỏ thì thường thường Phật tử tại gia dùng
nhiều hơn và cũng dùng như chư Tăng.
2. Trống:
Xuất xứ: Trong kinh Kim Quang
Minh có chép: Một hôm người Tín trưởng Bồ tát nằm mộng thấy một cái trống bằng
vàng. Trống ấy có chiếu ra hào quang sáng rực như mặt trời. Trong hào quang có
rất nhiều đức Phật đang ngồi trên tòa sen lưu ly đặt dưới những gốc cây quý.
Chung quanh các đức Phật đều có trăm nghìn ức vị đại đệ tử đang ngồi nghe pháp.
Lúc ấy có một đạo sĩ Bà la môn đang cầm dùi trống đánh mạnh vào chiếc trống
vàng, tiếng trống vang rền nghe như lời kinh sám hối. Khi đã tỉnh mộng, ngài
Tín trưởng Bồ tát liền đem những điều ấy mà mình đã thấy nghe trình lên đức Thế
tôn.".
Trong kinh Lăng nghiêm cũng có
chép:
Đức Phật dạy:
- Này A Nan, ngươi hãy nghe
tiếng trống mỗi khi dọn cơm xong, nghe tiếng chuông mỗi khi nhóm họp đại chúng
trong tinh xá Kỳ đà hoàn nầy. Tiếng trống hoặc tiếng chuông ấy trước sau nối
tiếp nhau. Vậy, theo ý ông, mỗi khi ông nghe được các thứ tiếng ấy là vì nó tự
bay đến bên tai ông, hay tai ông đến nơi chỗ phát tiếng ấy?". (Đây là lúc
đức Phật chỉ cái Tâm cho ngài A Nan)
Có hai loại trống:
a.
Trống lớn: Dùng để đánh vào những dịp lễ lớn. Trống lớn thường gọi là trống Bát
nhã. Đánh trống lớn có bài kệ của nó. Tiếng trống tượng trưng cho chánh pháp.
Chúng sanh mỗi khi nghe tiếng trống chánh pháp ấy thì tội chướng được tiêu trừ
và cũng nhờ đó mà được giải thoát vào cảnh giới an lạc. Vì khi nghe được tiếng
trống Bát nhã, tùy loại chúng sanh mà thâm nhập tiếng trống và có thể nương vào
tiếng trống mà cảm nhận được dung nhan của đức Phật. Tiếng trống Bát nhã đánh
lên để cung thỉnh Phật đăng bảo tọa. Cho nên có bài kệ như sau:
Bát nhã hội,
Thỉnh Phật thượng đường,
Đại chúng đồng văn,
Bát nhã âm,
Phổ nguyện pháp giới,
Đẳng hữu tình,
Nhập Bát nhã,
Ba la mật môn...
Nghĩa là:
Hội Bát nhã,
Thỉnh Phật lên (giảng) đường,
Đại chúng đều (được) nghe:
Âm Bát nhã,
Vang khắp pháp giới,
Chúng hữu tình (vân vân),
(Đều nhập) lý Bát nhã,
Chứng nhập (pháp môn) Ba la mật.
b. Trống tiểu: Dùng để đánh mỗi
khi tụng kinh nên cũng được gọi là trống kinh (tiếng bình dân thường
gọi là trống cơm). Ngoài việc dùng đánh để tụng kinh hằng ngày vào hai thời
công phu khuya và chiều trong các tự viện, trống tiểu còn dùng để hòa âm trong
cổ nhạc Phật giáo và cổ nhạc Việt nam. Trống tiểu thì khó đánh hơn trống lớn.
Bài học để xử dụng cho trống tiểu rất nhiều, phức tạp và khó học. Có rất nhiều
thể điệu khác nhau như là thể điệu thiền khi tụng kinh, thể điệu ai khi dùng
vào đám táng, chẩn tế cô hồn, ... Nếu không học thì không thể xử dụng được.
3. Mõ:
Xuất xứ: Trong bộ sách Sắc tu
Thanh quy Pháp khí về chương mộc ngư có chép rằng:
Lời Tương truyền: Loài cá luôn thức không bao giờ ngủ và rất hoạt động. Vì vậy
khi tạo loại pháp khí nầy thì mõ được chạm trổ theo hình con cá với thâm ý là
muốn thức tĩnh con người cũng như chúng hữu tình đang còn trong mê muội, u
trầm.
Trong sách Chính ngôn đời nhà Đường thì chép: Có một người bạch y đến hỏi một
vị Trưởng lão ở Thiên trúc rằng: Tại sao các Tăng xá đều có treo mõ?
Vị trưởng lão trả lời:
- Vì để cảnh tĩnh chúng Tăng
tại Tăng xá hay tự viện ấy.
Người bạch y hỏi tiếp:
Nhưng tại sao lại tạc hình con
cá?
Vị Trưởng lão không trả lời
được. Người bạch y lại hỏi ngài Hộ Biện và được ngài giải thích rằng:
- Loài cá là loài không bao giờ
nhắm mắt và thích hoạt động. Cũng vì muốn cho người tu hành ngày đêm quên ngủ,
gắng công tu tập, mau chứng đạo quả nên treo và đánh mõ và cái mõ được tạc hình
con cá vậy.
Mõ có hai loại: Mõ có hình bầu
dục và mõ có hình điếu. Tất cả đều được tạc theo hình con cá.
* Mõ hình hình bầu dục để tụng
kinh, điều khiển buổi lễ khi đông người tụng được nhịp nhàng.
* Mõ hình điếu thì treo ở nhà
trù dùng để báo hiệu khi thọ trai hay chấp tác. Ngoài ra, cũng có một loại mõ
rất nhỏ dùng để chư Tăng đi kinh hành gọi là nhiễu Phật. Tiếng mõ vừa giữa cho
buổi lễ được trang nghiêm lại vừa giữ cho tâm hồn khỏi tán loạn trong khi hành
lễ. Bởi thế, người đánh mõ gọi là Duyệt chúng, tên nầy gọi là làm đẹp lòng mọi
người trong lúc cùng tụng kinh với nhau. Đánh mõ phải học hẳn hoi, đúng điệu và
đúng cú pháp của nó.
Ý Nghĩa Về Chuông Mõ:
a. Trước đánh ba tiếng (tiên khởi tam),
b. Kế nhịp bảy (thứ lôi thất),
c. Tiếp đánh ba (tịnh đả tam),
d. Giữa đánh mưới (trung đả thập)
e. Sau cùng dứt bốn (hậu diệt tư).
* Trước đánh ba tiếng: Nghĩa là
chúng sanh do ba nghiệp thân khẩu ý tạo tác mọi điều
ác, sau sẽ đọa vào trong ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Nhưng cũng
có nghĩa là cố trừ ba độc: tham, sân và si để vượt lên ba giải thoát để chứng
đắc ba đức: Pháp thân, Bát nhã thân và Giải thoát thân. (Phần nầy giảng lượt đi
nên không mấy ai biết đến. Chúng tôi viết ra đây cho đu, vì la tài liệu tham
khảo).
* Kế tiếp nhịp bảy tiếng: Đây là tiêu biểu cho thất chi tội. Về thân thì có
ba: Sát, đạo và dâm. Về khẩu thì có bốn: Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và
ác khẩu. Sau khi đã đoạn trừ được bảy tội nêu trên liền chứng được thất giác
chi: Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, định và niệm.
* Tiếp đánh ba tiếng: Là phát
nguyện tu tam học tức là giới, định và huệ để quyết chứng
cho được ba thừa: Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát.
Giữa đánh mười tiếng: Đó là
tiêu trừ mời điều ác gồm thất chi tội cọng thêm của ý có
ba là mười. Từ đó, chứng nhập mười thân gồm: Bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân,
lực thân, trang nghiêm thân, oai thệ thân, ý sanh thân, phước thân, pháp thân
và trí huệ thân. (Phần nầy, sau nầy giản lượt đi, không mấy ai dùng đến và cũng
không mấy ai biết để ý đến. Chúng tôi viết ra đây là vì tài liệu nghiên cứu,
phải làm cho đầy đủ mà thôi).
* Sau cùng dứt bốn: Tức là để
tiêu trừ bốn tướng: Sanh, lão, bệnh và tử để chuyển thành
bốn trí:
+ Thành sở tác trí: Tiền ngũ
thức (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt và thân),
+ Diệu quan sát trí: Đệ lục ý
thức,
+ Bình đẳng tánh trí: Đệ thất
Mạc na thức,
+ Đại viên cảnh trí: Đệ bát A
lại da thức.
4. Bảng và Khánh:
Xuất xứ: Bảng và Khánh là một
trong những thứ pháp khí của nhà Phật. Hai loại nầy được thường dùng trong ngày
ở các chùa, viện. Từ xưa đến nay đều dùng làm hiệu lệnh như báo tin giờ học,
tụng kinh, thọ trai, chấp tác của chư Tăng.
Trong sách Tượng khí Tiêu, quyển 18 có chép rằng: Ngài Vân Chương nói:
- Hình của Bảng giống như đám mây, nên người ta cũng gọi là Vân bảng. Còn theo
lão Hòa thượng Tục Sư có thuật chuyện vua Tống thái Tổ cho rằng: Tiếng trống
hay làm giật mình người ngủ, nên thay vì dùng trống, Tống thái Tổ chế ra thiết
khánh. Loại khánh nầy cũng được gọi là Vân bảng. Vì hình của nó cũng giống như
hình cánh dơi trên bề lưng lẫn bề mặt có đám mây qua lại, loại nầy có nơi gọi
là chinh (chiêng).
Cách chế tác và xử dụng: Theo ngài Vân Chương trong sách Tượng khí tiêu thì
hình của Bảng giống như đám mây và làm bằng đồng, thiết. Nhưng nay ở các tòng
lâm, tự viện thì dùng bằng gỗ và được chạm trổ theo hình bán kính bát giác. Bề
cao khoảng chừng bốn tấc tây, rộng chừng hai tấc tây. Bảng cũng được thay thế
cho trống trong những trường hợp nói trên, đồng thời cũng dùng để phân phát đồ
cúng dường hay phân xử việc của chúng Tăng... Bảng và Khánh trong luật được gọi
là Kiền Chùy Thành. Cách dùng không khác nhau, chỉ khác nhau về hình tướng và
vật liệu chế tác. Ngày xưa thiết và đồng còn khan hiếm nên chư tổ đã dùng bằng
đá cẩm thạch. Tiếng kêu cũng tương tự như khánh đồng, nhưng nhỏ tiếng hơn. Ngày
nay các tòng lâm lại ít dùng khánh mà chỉ dùng bảng nhiều hơn.
5. Y: Tàu dịch là Ca sa, tức
hoại sắc, bất chính sắc. Dùng để chư Tăng mặc. Những
vị chính thức được có Y kể từ khi đã thọ giới luật. Sau khi đắc giới, giới sư
quyền thừa Phật Tổ để truyền Y cho giới tử. Y cũng có nhiều bậc khác nhau.
Người thọ mười giới tức là Sa
di thập giới: Vị nầy bắt đầu chính thức được ở trong hàng ngũ xuất gia. Những
vị thọ mười giới thì chỉ được mặc (mang) chiếc Mạng Y là những chiếc y không có
mạng (miếng) nhỏ, tức là Y không có Điều. Khi mặc Mạng y có bài kệ và chú như
sau:
Đại tai giải thoát phục
Vô tướng phước điền y,
Phi phụng chư giới hạnh,
Quảng độ chư quần sanh.
Nghĩa là:
Lớn thay áo giải thoát,
Là ruộng phước không tướng,
Mặc kính đúng giới hạnh,
Rộng độ hết chúng sanh.
Nam Mô Ca Sa Tràng Bồ Tát Ma Ha Tát (3lần)
Vị thọ Cụ túc giới cũng gọi là Tỳ kheo giới hay Đại giới, được mặc những
chiếc Y có những miếng vuông, thường gọi là Điều y. Y nầy có ba loại khác nhau
như sau:
* Áo mặc ở ngoài gọi là Tăng già lê,
* Áo mặc ở giữa gọi là Uất đà la tăng,
* Áo mặc trong, áo lót gọi là An đà hội.
Chiếc áo Tăng già lê cũng có các bậc khác nhau như:
Ngũ điều y, Thất điều y và Đại y
a. Chiếc y có năm miếng thì gọi là Ngũ điều. Khi mặc chiếc y nầy thì đọc bài kệ
chú và phát nguyện như sau:
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Ngã kim đảnh đới thọ,
Thế thế bất xả ly.
Án, tất đà da tóa ha (3 lần).
Nghĩa là:
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước vô thượng,
Nay con đầu đội nhận,
Đời đời không lìa bỏ.
Án, tất đà da tóa ha (3 lần)
b. Chiếc y có bảy miếng thì gọi là Thất điều. Khi mặc chiếc y nầy cũng
đọc kệ chú và phát nguyện:
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Ngã kim đảnh đới thọ,
Thế thế thường đắc phi.
Án, độ ba độ ba tóa ha (3 lần)
Nghĩa là:
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước vô thượng,
Nay con đầu đội nhận,
Đời đời thường được mặc.
Án, độ ba độ ba tóa ha (3 lần)
* Chiếc y từ 9 miếng trở lên 25 miếng thì gọi là Đại y. Đại y cũng có ba
bậc:
+ Chiếc Y có 9 miếng, 11 miếng, 13 miếng thì gọi là Hạ Đại Y,
+ Chiếc Y có 15 miếng, 17 miếng, 19 miếng thì gọi là Trung Đại Y,
+ Chiếc Y có 21 miếng, 23 miếng, 25 miếng thì gọi là Thượng Đại Y.
Khi mặc (trong thiền môn thì gọi là đắp) ba bậc Đại y trên đây cũng đọc kệ, chú
và phát nguyện như nhau, dưới đây:
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Phụng trì Như Lai mạng,
Quảng độ chư chúng sanh.
Án, ma ha bà ba tra tất đế tóa ha (3 lần)
Nghĩa là:
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước vô thượng,
Vâng giữ Như Lai mạng,
Rộng độ hết quần sanh.
Án, ma ha bà ba tra tất đế tóa ha (3 lần)
Những chiếc y nầy đã có từ đời
đức Phật. Chiếc y đầu tiên được cúng dường cho chư Tăng là chiếc y của bà Di
mẫu của đức Phật (tức là bà Tỳ kheo ni đầu tiên tên Kiều Đàm Di).
Y của chư Tăng được gọi rất
nhiều tên: Hoại nạp phục, Hoại sắc phục, Pháp phục, Pháp y, Ứng pháp diệu phục,
Liên hoa phục, Giải thoát phục, Giải thoát tràng tướng phục, Xuất thế phục, Ly
trần phục, Vô cấu phục, ... Nói chung là Ca sa tràng Như Lai, nghĩa là áo
của chư Phật, chính là lòng nhu hòa nhẫn nhục như trong kinh Pháp hoa đã
dạy.
6. Bát:
Xuất xứ: Trong kinh Phật bổn
hạnh có nói: Khi đức Phật còn tại thế, có hai thương gia là Đế ly phú bà và Bạt
ly ca đều đều ở phía bắc Ấn độ; hai vị nầy, một hôm đem sữa cúng dường đức Phật,
nhưng đức Phật không có đồ đựng. Lúc bấy giờ có bốn vị thiên vương đem bốn cái
bát bằng vàng đến dâng cúng đức Phật để đựng sữa, ngài không nhận. Bốn vị thiên
vương ấy lại trở về đem bốn cái bát khác bằng những thứ quý: ngọc, ngà, xa cừ,
... để dâng cúng đức Phật, ngài cũng không nhận. Sau cùng bốn vị ấy đem dâng
cúng bốn cái bát khác bằng đá, đức Phật rất hoan hỷ.
Ý nghĩa: Chữ Bát, tiếng phạn gọi là Bát đa la, Tàu dịch là Ứng lượng khí. Nghĩa
là đồ dùng để chứa đựng các thực phẩm chỉ đủ vừa sức ăn cho một người.
Bình bát chỉ được làm bằng đá, bằng
sành, bằng đất sét nung thật chín rồi tráng men bên trong cho khỏi rĩ nước, chứ
không được làm bằng vàng bạc hay tất cả những kim khí quý, ... Nếu dùng bằng
kim khí quý thì không đúng phẩm hạnh của bậc xuất gia. Các vị đã phát tâm xuất
gia tức là tập hạnh xả bỏ tất cả, kể cả thân mạng nếu cần và đúng với chánh
pháp, nghĩa là xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo.
Đặc biệt bình bát không nên làm bằng gỗ, vì đây là loại bát của Bà la môn đã
thường dùng.
Ở các nước Tiểu thừa Phật giáo, chư Tăng thường đi khất thực nên thường dùng
bình bát. Các nước theo Đại thừa Phật giáo thì không đi khất thực nên chỉ dùng
bình bát trong ba tháng an cư kiết hạ, có nơi còn ba tháng kiết đông nữa; đồng
thời, thỉnh thoảng có quý thí chủ phát tâm cúng dường trai tăng thì cũng dùng
bình bát để cúng Phật trước khi thọ trai. Sau khi các vị đã đắc giới, chư giới
sư trao truyền bình bát và bắt đầu trì bình từ đó. Mỗi khi dùng bình bát, tâm
thường niệm:
Thiện tai Bát đa la,
Như lai ứng lượng khí,
Phụng trì dĩ tư thân,
Trưởng dưỡng trí huệ mạng.
Án, chỉ rị chỉ rị phạ nhựt ra hồng phấn tra
(3 lần)
Nghĩa là:
Lành thay bát đa la,
Ứng lượng khí của Phật,
Vâng giữ để tu thân,
Nuôi lớn thân và trí,
Án, chỉ rị chỉ rị phạ nhựt ra hồng phấn tra
(3 lần)
Mỗi lần đi khấc thực, tay nâng
bình bát đang còn trống không, đức Phật dạy đệ tử của ngài không phiền muộn,
không lo lắng mà phải an tịnh và thầm nguyện:
Nhược kiến không bát,
Đương nguyện chúng sanh,
Cứu cánh thanh tịnh
Không vô phiền não.
Nghĩa là:
Nếu thấy bát không,
Xin nguyện chúng sanh,
Rốt ráo thanh tịnh,
Trống không phiền não.
Và, sau đó thí chủ đã cúng
dường phẩm vật đầy đủ, thầm nguyện tiếp như sau:
Nhược kiến mãn bát,
Đương nguyện chúng sanh,
Cụ túc thạnh mãn,
Nhất thế thiện pháp.
Nghĩa là:
Nếu thấy bát đầy,
Xin nguyện chúng sanh,
Chứa đựng đầy đủ,
Tất cả pháp lành.
Mỗi lần dùng bình bát trước và
sau khi khất thực hay trước và sau khi thọ trai do tín chủ cúng dường đều phải
lau chùi sạch sẽ. Thứ nhất là bát phải sạch sẽ để chứa đựng phẩm vật dâng cúng Tam
bảo, kế đến la mình dùng; thứ hai là sau khi dùng xong cũng phải rửa sạch, lau
khô để cất giữ cho hợp vệ sinh, cũng thầm niệm bài kệ tẩy bát như sau:
Tẩy bát:
Dĩ thử tấy bát thủy,
Như thiên cam lộ vị,
Thí dữ chư quỷ thần,
Tất giai hoạch bảo mãn
Án, ma hưu ra tất tóa ha (3 lần)
Nghĩa là:
Rửa bát:
Lấy nước rửa bát nầy,
Như nước vị nước cam lồ
Đem cho các quỷ thần,
Được no đủ tất cả.
Án, ma hưu ra tất tóa ha (3 lần)
Cũng như trên, mỗi khi rửa bình
bát hoặc là nhận phẩm vật thì cũng phải mở ra; mỗi lần mở ra như vậy, cũng thầm
đọc câu kệ chú như sau:
Triển bát:
Như lai ứng lượng khí,
Ngã kim đắc phu triển,
Nguyện cọng nhất thế chúng,
Đẳng tam luân không tịch
Án, tư ma ma ni tóa ha (3 lần)
Nghĩa là:
Mở bát:
Ứng lượng khí của Phật,
Con nay được giải mở
Nguyện cùng với mọi người,
Ba vầng đều vắng lặng.
Án, tư ma ma ni tóa ha (3 lần)
7. Tích trượng:
Xuất xứ: Theo kinh Tích trượng
có chép: Này các Tỳ Kheo, các ngươi nên thọ trì tích trượng, vì rằng tích
trượng là một pháp khí mà ở đời các Như Lai đã có thọ trì.
Ý nghĩa: Tiếng Phạn gọi là Khiết khí la. Tàu dịch là Tích trượng, tức là cái
gậy của các vị Tỳ kheo dùng để đi đường hay đi khất thực.
Tích trượng còn có tên là Đức
trượng, nghĩa là chiếc gậy trí huệ và đức độ nầy mà người xuất gia học đạo giải
thoát được vững tiến và hướng đến quả vị giải thoát. Trong kinh Tích trượng có
chép:
Ngài Ca Diếp bạch Phật:
- Bạch đức Thế Tôn, thế nào gọi
là tích trượng? Đức Phật dạy các ý nghĩa sau đây:
- Tích có nghĩa là Khinh, có
nghĩa là nhờ chiếc gậy đức hạnh và trí tuệ nầy mà phiền não được nhẹ đi và sớm
ra khỏi cảnh sanh tử luân hồi.
- Tích cũng có nghĩa là Minh,
nghĩa là được trí huệ sáng suốt, là hết khổ não.
Đường kính của chiếc tích trượng thì vừa đủ cho vòng tay của người xử dụng.
Cũng còn được gọi với những tên: Thỉnh trượng hay Minh trượng. Vì, trong khi
đến nhà ai, vị sa môn cần gõ tích trượng xuống đất để người trong nhà biết.
Trên đầu tích trượng có bốn cái gọng và 12 cái vòng. Đó là biểu tượng cho tứ
diệu đế và thập nhị nhơn duyên., buộc các tỳ kheo luôn luôn phải nhớ nghĩ, luôn
luôn phải thực hành. Ngoài ra còn có loại tích trượng trên đầu chỉ có hai cái
vòng và sáu cái khâu, thì nó tượng trưng cho chơn đế, tục đế và lục độ. Tích
trượng nầy do đức Phật Ca Diếp chế ra. Tất cả hai loại tích trượng ấy đều không
cao quá đầu người.
Các tích trượng của Bà la môn
thì có bảy mắt và có ba bậc: sơ, trung và thượng. Theo phái Bà la môn thì cái
gì cũng ở trong số bảy: * Bảy bậc tu, bảy quả đức, bảy sức linh.
Bảy bậc tu gồm:
* Tu tại gia,
* Tu vái các thần thánh thông
thường,
* Tu biết biến hóa,
* Tu biết thần biến, linh
thiêng,
* Tu cần thần thánh, không mặc
quần áo,
* Tu thiền định,
* Tu bậc thượng, làm thầy cả
các phép tu trên, là vì nối gót đại diện cho đức Phạm thiên.
Ngày xưa ở Ấn độ, họ thường quan trọng con số bảy, họ cho là huyền vi đến với
con người. Cái gì họ cũng dùng và nghĩ đến số bảy như:
* Bảy vị tiên (Sapta-Rchirs),
* Bảy cảnh tiên (Sapta-Poura),
* Bảy hòn đảo tiên (Sapta-Douita),
* Bảy biển (Sapta-Samudra),
* Bảy sông linh (Sapta- Nady),
* Bảy núi linh (Sapta-Pariatta),
* Bảy chúng (Sapta-Coula),
* Bảy cảnh giới từ hạ đến thượng (Sapta-Loca),
* Bảy loại gồm cả trời đất thần thánh như:
Jyus, Naranari, Viradji, Brahma,
Vischnou-Siva
Riêng trong Phật giáo, ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát đã dùng tích trượng để
đi vào địa ngục hướng dẫn cho thập loại chúng sanh đang bị đọa trong các cỏi ấy
được hiểu rõ chánh pháp, được giải thoát lên các cảnh giới sung sướng hơn hay
trực chỉ đến cảnh giác ngộ thành Phật. Mỗi khi ngài vào trong địa ngục, ngài
dùng tích trượng gõ xuống đất thì các cửa ngục được mở ra, cho nên trong kinh
có day: Chấn khai địa ngục chi môn.
Những vị sau khi đã đắc giới,
liền được thừa truyền tích trượng. Trong khi nhận lãnh, các vị giới tử thầm
niệm kệ chú sau đây:
Thiện tai khiết la,
Trí huệ công đức bổn,
Như pháp thọ trì giả,
Siêu đăng niết bàn ngạn.
Án, na lật thế, na lật thế, na lật tra, bát
để, na lật đế, na dạ bát nễ hồng phấn tra (3 lần)
Nghĩa là:
Lành thay chiếc tích trượng,
Gốc công đức, trí huệ,
Thọ trì chư chánh pháp,
Sớm lên bờ niết bàn.
Án, na lật thế, na lật thế, na lật tra, bát để, na lật đế, na dạ bát nễ
hồng phấn tra (3 lần)
Trên đây là kệ nhận tích
trượng. Còn khi dùng đến thì câu chú y như vậy, nhưng câu kệ thì như sau:
Chấp trì tích trượng,
Đương nguyện chúng sanh,
Thiết đại thí hội,
Thị như thiệt đạo.
Nghĩa là:
Cầm giữ tích trượng,
Xin nguyện chúng sanh,
Thiết đại hội thí,
Chỉ đạo như thật.
8. Đãy lọc nước:
Xuất xứ: Ngày khi đức Phật
chứng thành đạo quả, ngài dùng huệ nhãn, xem thấy trong nước có vô số vi trùng
(cũng là chúng sanh), ngài liền truyền dạy cho hàng đệ tử, nhất là hàng xuất
gia đều phải có một cái túi bằng vải để lọc nước trước khi uống.
Định nghĩa: Đạo Phật là đạo từ bi. Đạo
Phật tôn trọng mạng sống. Vì khi uống nước mà không dùng đãy lọc nước để lọc
thì mắc phải tội ăn thịt chúng sanh. Chúng sanh được tôn trọng, trên từ bậc
thánh nhơn chư Tăng, loài người, dưới đến các loài có chân, không chân hay có
cánh, không cánh được giữ gìn, bảo vệ mà không nên sát hại.
Bởi thế cho nên, hàng xuất gia phải dùng những vật thực không liên hệ đến mạng
sống của chúng sanh. Một khi đã phát tâm xuất gia, đã được thọ giới thì cần
phải có đãy lọc nước. Tàu dịch là Lự thủy nang. Khi nhận thọ thì thầm nguyện:
Thiện tai lự thủy nan,
Hộ sanh hành tự cụ,
Xuất nhập thường đới dụng,
Phương hợp Bồ tát đạo.
Án, phạ tất ba ra ma ni tóa ha (3 lần)
Nghĩa là:
Lành thay đãy lọc nước,
Vật bảo trợ mạng sống,
Ra vào thường dùng đến,
Mới hợp đạo Bồ đề.
Án, phạ tất ba ra ma ni tóa ha (3 lần)
9. Ngọa Cụ:
Ngọa tức là nằm. Dụng cụ dùng
để ngồi nằm. Quý vị xuất gia thường dùng hằng ngày cho nên trong luật Trường
hàng gọi là Nhật dụng.
Ngày xưa khi đức Phật còn tại
thế, chư Tăng sống không lập chùa, viện, tịnh thất như ngày nay. Trong tay chỉ
có bình bát, ba chiếc y, một tích trượng, một đãy lọc nước và một ngọa cụ mà
thôi. Đi đâu mang tất cả những pháp phục ấy theo bên mình.
Ngày nay chư Tăng có chùa, có tòng lâm, có Phật học viện, có tu viện, tịnh
thất, ... nên ít dùng đến ngọa cụ và tích trượng trừ khi tấn đàn truyền giới và
trao giới cho giới tử phát tâm đăng đàn cầu giới pháp để tu. Ngọa cụ cũng được
dùng trong lúc đăng đàn chẩn tế, nhưng được gọi là tọa cụ chứ không gọi ngọa cụ
như trong luật tiểu. Khi dùng ngọa cụ thì thầm nguyện câu kệ và chú như sau:
Ngọa cũ ni sư đàn,
Trưởng dưỡng tâm miêu tánh,
Triển khai đăng thánh địa,
Phụng trì Như Lai mạng.
Án, a mật lật đế hồng phấn tra (3 lần)
Nghĩa là:
Ngọa cụ (tên) ni sư đàn,
Nuôi lớn lúa tâm tánh,
Mở ra lên đất thánh,
Phụng giử mạng Như Lai,
Án, a mật lật đế hồng phấn tra (3 lần)
Trên đây là những pháp khí và
pháp cụ có từ thời đức Phật đã được tổ tổ thừa truyền cho đến ngày nay. Những
gì được viết ra trong bài nầy hoàn toàn gần như chỉ dành riêng cho hàng xuất
gia, nhưng phải cần cầu giới pháp, có thọ giới và đã đắc giới. Và tùy theo giới
mà thọ dụng khác nhau như: Y, Bát, Tích trượng và Ngọa cụ, .... Ngoài ra, những
pháp khí khác thì những vị tân xuất gia và Phật tử tại gia đều có thể dùng được
như nhau. Vậy bài nầy quý vị nào trong hàng tại gia được phước báo thọ dụng thì
cũng nên tuân theo lời Phật dạy để hành trì đúng như pháp; nếu không thông
thuộc, nên y chỉ chư Tăng.