1
Bồ tát là một từ vựng đầy chất thơ, vô
cùng đẹp đẽ. Một bậc thầy đã Chứng ngộ, và bay lên cõi Thiên đường.
Thiên đường rộn tiếng chim ca, đàn sáo du dương, hương thơm ngào ngạt,
không gian tràn đầy Phúc lạc, các đức Phật hoan hỷ đứng bên cổng, chờ
đón người đã Chứng ngộ. Bậc thầy chứng ngộ cúi chào các Đức Phật, và xin
phép không bước vào cổng Thiên đường. Không bước vào cổng Thiên đường,
nguyện làm Bồ Tát, nguyện ở lại để giúp đỡ chúng sinh, nguyện là người
sau cùng bước vào cổng Thiên đường, khi các chúng sinh đã vào hết. Đẹp
và tràn đầy tính Thi ca.
Trong các vị Bồ tát, Bồ tát Quán thế âm
là biểu hiện của Từ bi. Bồ tát Quán thế âm không có nam nữ, Ngài là biểu
trưng cho đức Từ bi, là tình thương yêu bao la không bờ bến. Hình tướng
của Ngài là hình tướng của Mẹ hiền, tay trái cầm cái bình, tay phải cầm
cành liễu. Bình này gọi là bình Thanh Tịnh, chứa nước Cam lồ. Kinh Phổ
Môn có câu: "Nam mô Thanh tịnh bình Thuỳ dương liễu Quán âm Như lai Cam
lồ Sái nguyện tâm". Sái nguyện tâm là nguyện rưới nước cam lồ cho mọi
người được mát mẻ, cho mọi chúng sinh an bình hạnh phúc. Bình thanh tịnh
tượng trưng cho người giới đức thanh cao trong sạch, nước Cam lồ tượng
trưng cho lòng Từ bi. Muốn thực hiện được hạnh từ bi điều quan trọng là
phải giữ giới. Giữ giới trong sạch, thì có Bình thanh tịnh, để chứa nước
Cam lồ. Cam lồ: cam là ngọt, lồ (lộ) là sương, ban đêm sương đọng thành
nước vừa thuần khiết, vừa tinh khôi, vừa trong sạch, vừa mát mẻ, vừa
ngọt ngào. Thuần khiết, Tinh khôi, Trong sạch, Mát mẻ, Ngọt ngào là
thuộc tính của Từ bi. Cành dương liễu tượng trưng cho đức nhẫn. Từ bi mà
không nhẫn, làm sao mà trọn vẹn từ bi. Cành dương liễu cũng thật đẹp:
mềm mại mà tha thướt; nhưng thật là dẻo dai bền bỉ; yếu mềm mà không
gãy. Dùng Cành dương liễu, Bồ tát Quán thế âm tưới nước Cam lồ phủ khắp
Nhân gian. Hạnh từ bi cũng là một hành vi đẹp đẽ vô cùng. Không đẹp,
không đầy chất thi ca không phải hạnh Từ bi.
2
Trong một đám cháy nhà, có rất nhiều
người nhốn nháo, người kêu ngóc than vãn, người lao vào cứu giúp, đám
đông hiếu kỳ tụ tập theo dõi, người vô cảm dửng dưng bước qua,... Có rất
nhiều hạng người. Người có lòng tốt, vào trong đám cháy, để tìm kiếm
cứu giúp những người gặp nạn. Nhưng họ phải cảnh giác với ngọn lửa, vì
lửa đang phát lên rất lớn, có thể làm thiệt mạng. Họ phải cảnh giác,
phải nhìn trước ngó sau, phải cân nhắc. Phải cân nhắc để đảm bảo an toàn
cho mình và có thể cứu được người. Người Tình cảm họ kêu gào, khóc
thương cho những người đang gặp nạn. Họ kể lể về những đức tính tốt, về
hoàn cảnh của người gặp nạn. Họ rất thương cảm những người đang gặp nạn.
Người đang yêu, lao mình qua ngọn lửa, bất chấp hiểm nguy. Miệng họ
không ngớt gọi tên người yêu của mình trong đám cháy. Tâm nguyện của họ
phải cứu người yêu, phải cứu người yêu. Người Từ bi, cũng lao mình qua
ngọn lửa, bất chấp hiểm nguy. Họ lao vào trong đám cháy vì biết rằng có
rất nhiều người đang cần cứu giúp, dù không có ai thân quen. Nhưng họ
tỉnh táo. Họ nhanh chóng nắm bắt được tình hình, nhanh chóng lên được
phương án, nhanh chóng chiếm thế chủ động, để cứu giúp mọi người.
Đó chính là sự khác biệt giữa người Từ bi với người có lòng tốt, với người đang yêu và với người tình cảm.
3
Lòng tốt là thái độ do bản ngã chèo kéo,
nó làm mạnh bản ngã của con người. Trong tác phẩm Không gia đình, của
Hector Malot, Rêmi, cậu bé con một gia đình giàu có, bị ông chú ruột ném
ra đường, sống trong nghèo khó, cơ cực. Cậu đi theo một đoàn xiếc chó,
khỉ; rồi dẫn đầu đoàn ấy đi lưu lạc khắp nước Pháp, sau đó bị tù ở Anh.
Rêmi ấy đã lớn lên trong gian khổ. Cậu đã chung đụng với đủ mọi hạng
người, sống khắp mọi nơi, những nơi bần cùng của xã hội. Cậu đã lao động
mà sống, lúc đầu dưới quyền điều khiển của một ông già từng trải và đạo
đức, cụ Vitali, về sau thì tự lập và không những lo cho mình, còn bảo
đảm việc biểu diễn và sinh sống cho cả một gánh hát rong. Đã có khi cậu
và cả đoàn lang thang suốt mấy ngày không có chút gì trong bụng. Đã có
khi cậu bị lụt ngầm chôn trong giếng mỏ mười mấy ngày đêm. Đã có khi cậu
mắc oan, bị giải ra trước toà án và bị ở tù. Và cũng có khi cậu được
nuôi nấng đàng hoàng, no ấm. Nhưng dù ở đâu, trong cảnh ngộ nào, cậu vẩn
noi theo nếp rèn dạy của ông già Vitali giữ phẩm chất làm người, nghĩa
là ngay thẳng, gan dạ, tự trọng, thương người, ham lao động, không ngửa
tay xin xỏ, không dối trá, gian giảo, coi trọng nghĩa tình, luôn luôn
muốn làm người có ích Nhưng cuối cùng Tình yêu cuộc sống đã chiến
thắng, Rêmi chở về với cuộc sống vốn có của mình, tìm thấy mẹ và em
trai, thành công trong sự nghiệp. Người chú ruột thất bại trong âm mưu
chiếm đoạt tài sản, thất bại trong cuộc sống, trở nên nghèo khó. Rêmi
không trả thù như mọi người suy nghĩ tới, lòng tốt chiến thắng, cậu bé
đã giúp đỡ tiền bạc cho người chú xấu xa của mình.
Thực sự, ẩn sau lòng tốt đó, có xúc phạm
sâu sắc, làm bẽ mặt người chú và chắc chắn Rêmi có cảm thấy sung sướng
trong cái bẽ mặt đó. Đó là lí do tại sao lòng tốt không bao giờ có thể
được tha thứ. Lòng tốt nhiều khi tiềm ẩn sự giận dỗi, thậm trí tiềm ẩn
cả âm mưu trả thù, chỉ vì cảm giác bị hàm ơn. Đó là vì lòng tốt trên bề
mặt dường như là từ bi, nhưng ở chiều sâu nó chẳng liên quan gì tới từ
bi cả. Nó có động cơ kín đáo.
Từ bi không có động cơ, đơn giản bởi vì
khi con người có thì cho, không phải vì người khác cầu xin, không phải
bất kỳ một lý do nào. Từ bi là tự phát, tự nhiên, như việc thở. Lòng tốt
là một loại tinh ranh; nó là tính toán, nó là số học.
Đến nhiều chùa của Việt nam, thấy rất
nhiều chuông đồng, trống cái, bình lọ cẩn ngọc trai, tượng phật bằng đá
quý,... Thường thấy có dòng chữ: "Phật tử Trần Văn... gì, gì đó, cung
kính cúng dường." Hoặc thấy, ở trong một Cô nhi viện, một công trình Từ
thiện nào đó, gắn kèm với một bảng hiệu, ghi tên tuổi của người làm công
đức. Đó là kinh doanh, không Tôn giáo một chút nào. Đó là ích kỷ, nó
lấy ngã làm trung tâm, nó mang tính bản ngã. Người ta không phục vụ
người khác, người ta không phục vụ cái chung, người ta không yêu cái đối
tượng thụ hưởng, người ta sử dụng nó cho bản thân mình. Đó là ích kỷ
được làm sáng lên, nhưng nó là ích kỷ.
Từ bi là việc nở hoa không tính toán,
tuôn chảy tự nhiên. Từ bi không phải là cái gọi là lòng tốt. Nó có phần
tinh tuý của lòng tốt trong đó là sự dịu dàng, thông cảm, đồng cảm,
không nghiêm khắc, có tính sáng tạo, có tính giúp đỡ, và không mục đích.
Nó là từ sự tồn tại, và con người hạnh phúc và cảm ơn sự tồn tại đã
chọn mình làm phương tiện. Con người trở nên trong suốt và lòng tốt đi
qua bản thể của mình. Nó là lòng tốt thuần khiết không có bản ngã trong
nó. Lòng tốt làm mạnh cho bản ngã, còn từ bi là có thể chỉ khi bản ngã
đã biến mất hoàn toàn. Từ bi có phần tinh tuý của lòng tốt.
4
Tình yêu là cho và nhận. Cho và nhận là
thuộc tính của tình yêu. Có hai chuyện tình đặc sắc về tình yêu, trong
hai tác phẩm nổi tiếng.
Tác phẩm Thằng gù nhà thờ Đức bà của
Victor Hugo, một câu chuyện tình rất đặc sắc, về tình yêu bất diệt của
thằng gù dị dạng với cô gái xinh đẹp Esmeralda. Bối cảnh lịch sử là ngày
06/01/1482, ngày lễ hội của những người điên diễn ra ở Paris. Trong đại
sảnh của pháp đình, công chúng đang xem một vở thánh kịch của Pierre
Gringoire (một thi sĩ nghèo). Cô gái Bohémiens xinh đẹp Esméralda làm
nghề múa rong ngoài phố trên quảng trường trước nhà thờ Đức bà. Hành
động múa hát này đã bị cấm đoán bởi phó giám mục nhà thờ, Claude Frollo,
được xem là một người đạo hạnh, uyên bác. Nhưng bản thân ông lại là một
người rất cô đơn, xanh xao, u uất vì nếp sống tu hành. Hơn hết, ông đã
bắt đầu thấy được hiểm họa sa vào địa ngục, khi ông bắt đầu say mê cô
gái múa rong. Ông đã cố gắng để thoát khỏi địa ngục ấy, nhưng cuối cùng
bị tình yêu lôi kéo. Lễ hội tan, màn đêm buông xuống. Người kéo chuông
nhà thờ Đức bà Quasimodo, kẻ dị hình, dị dạng, vừa mù, vừa chột, vừa
thọt; theo lệnh của phó giám mục Claude Frollo, mưu toan bắt cóc
Esméralda. Đội tuần tra của đại úy Phoebus đã kịp giải cứu cô gái và bắt
Quasimodo. Thi sĩ Gringoire lang thang lạc vào vương quốc ăn mày, suýt
bị treo cổ, nhưng nhờ Esméralda nhận làm chồng, theo luật lệ cái bang
nên thoát chết. Tuy nhiên, cô chỉ nhận trên danh nghĩa để cứu mạng
Gringoire. Lòng cô đã hoàn toàn hướng về đại úy Phoebus, người đã cứu
cô.
Vốn nhân từ, Esméralda bỏ qua vụ bắt cóc
và đã đem nước cho Quasimodo uống, trong lúc hắn bị xử phạt trên đài
bêu. Tâm hồn hoang dã của Quasimodo, không quen giao tiếp với thế giới
con người. Hắn chỉ biết có cha nuôi là phó giám mục Frollo, người đã đem
hắn về nuôi khi còn là một quái thai dị dạng bị bỏ trước cửa nhà thờ.
Vẻ đẹp và tấm lòng của Esméralda đã làm thức tỉnh trái tim hoen rỉ của
hắn. Quasimodo bắt đầu yêu, một tình yêu bất diệt không cần đền đáp.
Esméralda yêu Phoebus một cách mù quáng,
dù Phoebus thực chất chỉ là một gã ăn chơi đàng điếm, đã có hôn thê là
một tiểu thư quý tộc. Esméralda đã nhận lời hẹn hò của y tại một căn nhà
trọ ở vùng ngoại ô. Phó giám mục yêu Esméralda điên dại, đã theo dõi
rình mò đôi tình nhân. Y đã không kìm chế được nỗi ghen tuông đã đâm
Phoebus, rồi bỏ trốn. Esméralda bị kết án vì hai tội: giết người và làm
phù thủy. Esméralda bị kết án treo cổ, Quasimodo phá pháp trường để cứu
Esméralda, đem cô vào trú ẩn an toàn trong nhà thờ Đức bà. Những người
ăn mày đang nóng lòng chờ Esméralda nhưng không thấy cô trở lại đã tấn
công vào nhà thờ để cứu cô. Bị Quasimodo đẩy lùi.
Phó giám mục Claude Frollo tuyệt vọng
đến mức mất cả lý trí và nhân tính. Hắn phát hiện ra Esméralda đang trú
ẩn trong nhà thờ nên đã ép buộc và đe dọa cô. Với sự che chở của
Quasimodo, Esméralda vẫn sống bình an và vẫn yêu Phoebus. Frollo cho thi
sĩ Gringoire đến để lừa cô ra ngoài, một mặt hắn lại báo cho bọn cảnh
binh biết để truy bắt. Frollo đã đặt điều kiện buộc Esméralda phải ưng
thuận mình, bằng không y sẽ giao cô cho bọn cảnh binh. Esméralda quyết
chịu chết, không ưng thuận, Frollo đã giao cô cho một bà ẩn tu điên dại.
Người đã tự chôn mình trong ngôi mộ lộ thiên, khi đứa con gái của bà bị
người Bohémien bắt cóc và để lại một đứa trẻ dị dạng. Bà đã đem đứa trẻ
dị dạng đó để trước thềm nhà thờ Đức bà, Frollo đã đem đứa trẻ về nuôi,
đó là Quasimodo. Vì thế người ẩn tu này rất ghét bọn Bohémien, Frollo
nghĩ rằng Esméralda sẽ bị bà hành hạ cho đến chết. Nhưng sau đó, hai mẹ
con đã nhận ra nhau nhờ vật kỷ niệm, đôi giày của trẻ con mà Esméralda
luôn mang bên người là do mẹ làm cho. Cuối cùng, cảnh binh đã tìm được
nơi ẩn nấp của hai mẹ con. Người mẹ hết sức bảo vệ con, nhưng Esméralda
vẫn bị bắt đi. Bà mẹ đã chết ngay vì quá tuyệt vọng. Esméralda bị đem đi
treo cổ một lần nữa. Quasimodo biết được đầu đuôi câu chuyện và chứng
kiến nụ cười thâm độc của phó giám mục khi thấy Esméralda bị đưa ra xử
tử, đã xô Frollo ngã từ trên tháp chuông nhà thờ xuống đất. Sau đó,
Quasimodo đã ôm xác Esméralda cùng chết chung trong hầm mộ.
Tình yêu đơn phương. Quasimodo sãn sàng
cho mọi thứ. Hắn đã dâng cả cuộc đời còn lại, cho nàng Esméralda. Không
mảy may nhận bất cứ một điều gì. Bởi vì hắn không thể tưởng tượng được
là sẽ nhận được một điều gì đó, trong bất kỳ một hoàn cảnh nào, từ nàng
Esméralda. Một tình yêu chỉ cho chứ không nhận. Nhưng đây là tình yêu
dị dạng. Nó có mùi vị của sự trả thù, nó có mùi vị của sự giận dữ. Lấy
sự trả thù để trả thù cho Tình yêu. Sự trả thù đã không thể và không bao
giờ có thể bảo vệ được Tình yêu. Tình yêu chỉ dâng cho, không một chút
mảy may nhận, nhưng đó là Tình yêu di dạng của Quasimodo.
Tác phẩm thứ hai về Tình yêu nổi tiếng
là Jane Eyre của nữ tác giả người Anh Charlotte Bronte, đã viết cách đây
gần hai trăm năm, cho đến nay vẫn luôn làm xúc động hàng triệu, triệu
con tim.
Jane Eyre, một cô gái, mồ côi bố mẹ,
sống nhờ cậu ruột. Cậu chết ở với mợ, bị hắt hủi, ngược đãi; đây là một
chuỗi ngày cực nhục đối với cô. Năm Jane lên 10 tuổi, được gửi vào trại
mồ côi Lowood. Lowood giáo dục trẻ em theo chủ nghĩa khổ hạnh hành xác
để giữ gìn linh hồn. Nỗ lực học tập trong tám năm. Ra trường, cô được
nhận được việc dạy trẻ ở lâu đài Thornfield nông thôn nước Anh. Là một
cô gái, mạnh mẽ và nội tâm. Người sãn sàng nói ra tất cả ý nghĩ trong
đầu, dù là không thuận lòng ông chủ; nhưng không chịu nói ra những rung
động của con tim, một con tim tràn đầy yêu thương. Chủ nhân của lâu đài
Thornfield là Rochester, một nhà quý tộc goá vợ. Rất giàu có, rất từng
trải, có một dĩ vãng tỳ ố, có một mối hận ngàn đời; hiểu biết, đi khắp
nơi; ông đã có vài ba mối tình, trên khắp châu Âu. Giữa sự phồn hoa nhạt
nhẽo, thói giả tạo và tham tiền. Hai con người lạc lõng đã tìm thấy
nhau. Rochester tìm được một người yêu hiền thục và duyên dáng; tìm được
nguồn cơn để tảy rửa quá khứ tỳ ố, làm trong sạch tâm hồn. Jane Eyre
tìm được người đàn ông mạnh mẽ, không giả tạo để yêu. Họ rất hạnh phúc
và chuẩn bị tổ chức một cách đơn giản lễ cưới của mình.
Tại lễ cưới điều tồi tệ đã xảy ra. Người
ta tố cáo Rochester đã có vợ. Rochester đã cưới vợ, do âm mưu hám tiền
của cha và anh trai, một âm mưu đen tối, đó chính là mối hận ngàn đời
của ông. Một người vợ thô bỉ, nhạt nhẽo và độc ác. Rồi người đàn bà đó
bị điên, vì gia đình họ có truyền thống bị điên từ nhiều đời. Vì lòng
tốt, ông đã đưa người đàn bà điên từ Ấn độ về Thornfield và nuôi trong
một căn phòng riêng biệt. Đám cưới không thành.
Jane Eyre bỏ trốn trong đau khổ. Số phận
tình cờ đã để lại cho cô một gia tài to lớn. Hai người sống hai cuộc
sống tách biệt, trong khổ đau và nhớ nhung. Rồi sau đó, trong cơn điên
của mình, người đàn bà điên đó đã đốt Thornfield, mong để cứu bà ta,
Rochester lao vào lửa. Không cứu được, và ông đã thành người tàn phế,
cụt tay và mù cả hai mắt. Tình cờ biết được tin này, Eyre đã trở về sống
với Rochester.
Một tình yêu lãng mạn, đẹp theo phong
cách cổ điển, sâu lắng và mãnh liệt. Nàng sãn sàng trao tặng tất cả,
nhưng nàng đã không buông sự khắc kỷ của bản thân mình để nhận lại món
quà của tình yêu. Sãn sàng cho, cho tất cả, nhưng thật khắc kỷ khi nhận
món quà của Tình yêu. Đó chính là vẻ đẹp cổ điển theo kiểu Anh, của câu
chuyện. Đó cũng chính là sự khác nhau giữa tình yêu và Từ bi. Bởi vì
trong sâu thẳm người sãn sàng cho tất cả, vẫn mong chờ nhận, dù là đã
rất cố gắng kiểm soát hành vi nhận của mình, theo những định kiến, theo
những lề thói của đạo đức, của xã hội quy định. Đó chính là sự khốn khổ
của con người. Từ bi không phải vậy, nó là tự nhiên.
Yêu bản thân mình, yêu sâu sắc, yêu vô
cùng, thì trong chính tình yêu đó lòng kiêu hãnh của con người, bản ngã
của con người, sự so sánh, sự phân chia,... tất cả những cái vô nghĩa đó
biến mất. Khi nó biến mất thì Tình yêu bản thân mình sẽ đạt tới mức
chuyển sang người khác, chuyển sang đối tượng khác. Khi Tình yêu với bản
thể được tràn đầy, con người sẽ có cảm xúc của Phúc lạc, con người sẽ
tự nhiên đem cho. Tự nhiên đem cho, đấy chính là bản chất của Tình yêu
thuần khiết. Osho nói: "Hãy phục vụ Tình yêu". Hãy chú ý, Ông ấy không
nói, hãy phục vụ người yêu; phục vụ người yêu đấy là điều sai lầm. Ý
tưởng thuần khiết của Tình yêu phải được tôn thờ. Người yêu là người đàn
bà kiều diễm trong con mắt của người đàn ông, thực tế chỉ là một hình
tượng của ý tưởng yêu khuần khiết đó. Yêu Dòng sông, yêu đỉnh núi, yêu
đoá hoa vàng rực rỡ, yêu làn gió ngập tràn hương lúa,... Yêu nhưng đứa
con xinh sắn, yêu bà mẹ già từ tâm, yêu người cha nghiêm nghị nhưng cả
đời vì các con của mình,... Tất cả là hình tượng của ý tưởng yêu thuần
khiết. Hãy phục vụ Tình yêu thông qua đối tượng yêu.
Trong tình yêu có lòng biết ơn, có sự
biết ơn sâu sắc. Khi con người yêu, họ luôn kính trọng người yêu của
mình, và khi cho là cho toàn bộ; ngược lại cũng nhận rất nhiều. Khi tự
nhiên cho, nhưng trong Tình yêu, trong sâu thẳm con người luôn ý thức là
cho, trong sâu thẳm con người có mong chờ nhận, dù là lời biết ơn. Đó
là mối quan hệ cho và nhận.
Khi tự nhiên cho, một cách tự nhiên là
sẽ nhận được rất nhiều, nhưng đó không phải là vấn đề, người cho đã
không khao khát về việc nhận. Nếu nó không tới, họ cũng không có phàn
nàn về nó. Nếu nó tới người đó sẽ đơn giản là ngạc nhiên! Nếu nó tới, nó
là không thể nào tin được. Nếu nó không tới, không có vấn đề gì. Khi đã
tràn đầy Tình yêu, con người sẽ không bao giờ trao trái tim mình cho
bất kì ai như một phần của bất kì sự mặc cả nào. Đơn giản có thì cho, có
tràn đầy thì tự nhiên tuôn chảy. Từ bi không phải là Tình yêu. Từ bi là
dạng tối thượng của tình yêu.
5
Tình cảm có nhiều sắc thái, đa tình, đa
cảm, đa sầu,... những thứ đó không tồn tại trong Từ bi. Người tình cảm
thường là người nhỏ bé, họ không rộng lớn, họ đa cảm ở phương diện này,
ngược lại họ vô cảm ở phương diện khác. Osho có một ví dụ rất hay, mẹ
của Lev Nikolayevich Tolstoy là một người rất đa cảm. Bà rất thích đi
xem nhạc kịch. Đến nhà hát, xem nhạc kịch, hầu như bà khóc suốt. Khóc
thương số phận của nhận vật tiểu thư, gia cảnh bị phá sản; khóc thương
mối tình không thành của một cặp tình nhân trẻ; khóc thương sự chia tay
xa cách của đôi bạn tình,... Bà khóc thương hầu như tất cả những tình
tiết mà bà thấy cảm động. Nhưng bà luôn vô cảm với tình cảnh của người
đánh xe, phải chờ bà trong đêm khuya và tuyết lạnh, khi bà đang khóc lóc
thương cảm cho những cảnh ngộ trên sân khấu.
Con người của từ bi thông cảm, nhưng
không có xúc động nào. Người đó thông cảm, nhưng không có đa cảm. Người
đó sẽ làm bất kì cái gì được cần tới, và người đó không bị xúc động bởi
nó. Phải chăng đó chính là vị Phật. Người giàu tình cảm chưa thể có vị
Phật trong trái tim.
Giàu Tình cảm không phải là Từ bi. Từ bi là thông cảm nhưng không đa cảm.
6
Từ bi là hành động. Không hành động
không phải là người Từ bi. Có khủng khoảng, có sự cố, Con người của Từ
bi lập tức nhảy vào hành động. Hành động của người đó là ngay lập tức;
không vẩn vơ lấy một khoảnh khắc. Hành động tức khắc, một khoảnh khắc
nào đó nảy sinh trong tầm nhìn, người Từ bi lập tức thể hiện nó thành
hành động.
Không có nước mắt, không xúc động, người
Từ bi đơn giản đi vào trong hành động. Không lạnh lùng, cũng không nồng
nhiệt. Đơn giản ấm áp và mát mẻ. Đó là nghịch lí của người từ bi. Người
đó ấm áp bởi vì người đó tràn đầy tình yêu. Bất kì điều gì xảy ra người
Từ bi luôn bình thản, và bình thản hành động, bình thản giúp đỡ. Khi
bình thản giúp đỡ, thì hành động giúp đỡ đó là chân thành, là dễ được
chấp nhận. Cho nên hình ảnh cành Dương liễu trên tay Bồ tát Quán thế âm
là vậy. Nó mềm mại, nó dẻo dai, nó mát mẻ, nó chân thành và nó dễ chấp
nhận. Từ bi là hành động, nhưng là hành động đơn giản, ấm áp, mát mẻ,
chân thành, là hành động được chấp thuận. Được chấp nhận, vì nó xuất
phát từ: cùng với Tình yêu còn có sự hiểu biết.
Hiểu biết và hành động là hai điều không
tách biệt của Từ bi. Chúng là hai khía cạnh của cùng một hiện tượng,
không phải là hai điều tách biệt. Một mặt của nó được gọi là hiểu biết,
mặt kia của nó được gọi là hành động.
7
Từ bi là thông minh. Đó chính là thuộc tính thứ năm của Từ bi.
Theo bậc chứng ngộ Osho, Từ bi là thông
minh nhưng không phải là trí năng. Khi thông minh được giải phóng khỏi
mọi dạng, khỏi mọi dạng logic; khi thông minh được giải phóng khỏi mọi
biện luận; khi thông minh được giải phóng khỏi cái gọi là hợp lí, bởi vì
hợp lí là giam hãm; khi thông minh là tự do, nó là từ bi. Con người của
từ bi cực kì thông minh, nhưng người đó không phải là người trí thức.
Người đó có thể thấy thấu suốt, người đó có tầm nhìn tuyệt đối, người đó
có con mắt thực để nhìn, chẳng cái gì bị giấu kín với người đó; nhưng
đó không phải là phỏng đoán, nó cũng chẳng phải là tư duy. Không, nó
không qua logic, nó không qua suy diễn, nó là qua cái nhìn sáng tỏ.
Con người của từ bi không phải là không
thông minh, nhưng người đó không mang tính trí năng. Người đó cực kì
thông minh, người đó là chính hiện thân của thông minh. Người đó sáng
chói thuần khiết. Người đó biết, nhưng người đó không nghĩ. Phỏng có ích
gì mà nghĩ khi đã biết? Nghĩ chỉ như một thứ thay thế. Bởi vì không
biết, do đó phải nghĩ. Suy nghĩ là quá trình thay thế, và nó là cái
thay thế nghèo nàn, xin hãy nhớ. Khi người từ bi biết, khi người từ bi
thấy, người đó đâu cần bận tâm tới nghĩ.
Con người của từ bi biết; người trí thức
nghĩ. Người trí thức là người nghĩ còn người của từ bi là người không
nghĩ, không trí thức. Thông minh người đó có, thông minh vô cùng người
đó có, nhưng thông minh của người đó không vận hành qua hình mẫu của trí
tuệ. Thông minh của người đó vận hành một cách trực giác.
Thông minh và sáng tạo cũng là hai điều không tách biệt của Từ bi.
8
Đó là năm thuộc tính của Từ bi. (1) Từ
bi có phần tinh tuý của lòng tốt. (2) Từ bi là dạng tối thượng của tình
yêu. (3) Từ bi là thông cảm nhưng không đa cảm. (4) Hiểu biết và hành
động là hai điều không tách biệt của Từ bi. (5) Thông minh và sáng tạo
cũng là hai điều không tách biệt của Từ bi.
Hay còn gọi là năm chiều của không gian Từ bi. Có thể hiểu được Từ bi, nhưng chưa thể biết được Từ bi.
Bài viết này lấy cảm xúc từ các bài nói
của Osho, và một số các bài viết của các tác giả khác. Xin bày tỏ lòng
biết ơn tới tất cả những Tác giả và Dịch giả của các bài viết, bài nói
mà chúng tôi đã sử dụng để làm tư liệu và cảm xúc để viết bài này; xin
chân thành hồi hướng công đức nhỏ bé của mình tới Quý vi. Nam mô Bổn sư
Thích Ca Màu Ni Phật. Nam mô Chứng minh sư Bồ Tát Ma ha tát.