2) Luật nhân quả hay sự tương quan giữa nguyên nhân và kết quả
trong luật về “Nghiệp” của Phật giáo. Mọi hành động là nhân sẽ có kết
quả hay hậu quả của nó. Giống như vậy, mọi hậu quả đều có nhân của nó.
Luật nhân quả là luật căn bản trong Phật giáo chi phối mọi hoàn cảnh.
Luật ấy dạy rằng người làm việc lành, dữ hoặc vô ký sẽ nhận lấy hậu quả
tương đương. Người lành được phước, người dữ bị khổ. Nhưng thường thường
người ta không hiểu chữ phước theo nghĩa tâm linh, mà hiểu theo nghĩa
giàu có, địa vị xã hội, hoặc uy quyền chánh trị. Chẳng hạn như người ta
bảo rằng được làm vua là do quả của mười nhân thiện đã gieo trước, còn
người chết bất đắc kỳ tử là do trả quả xấu ở kiếp nào, dầu kiếp nầy
người ấy không làm gì đáng trách
3) Nhân quả là một định luật tất nhiên nêu rõ sự tương quan,
tương duyên giữa nhân và quả, không phải có ai sinh, cũng không phải tự
nhiên sinh. Nếu không có nhân thì không thể có quả; nếu không có quả thì
cũng không có nhân. Nhân nào quả nấy, không bao giờ nhân quả tương phản
hay mâu thuẫn nhau. Nói cách khác, nhân quả bao giờ cũng đồng một loại.
Nếu muốn được đậu thì phải gieo giống đậu. Nếu muốn được cam thì phải
gieo giống cam. Một khi đã gieo cỏ dại mà mong gặt được lúa bắp là
chuyện không tưởng:
4) Một nhân không thể sinh được quả, mà phải được sự trợ giúp
của nhiều duyên khác, thí dụ, hạt lúa không thể nẩy mầm lúa nếu không có
những trợ duyên như ánh sáng, đất, nước, và nhân công trợ giúp. Trong
nhân có quả, trong quả có nhân. Chính trong nhân hiện tại chúng ta thấy
quả vị lai, và chính trong quả hiện tại chúng ta tìm được nhân quá khứ.
Sự chuyển từ nhân đến quả có khi nhanh có khi chậm. Có khi nhân quả xãy
ra liền nhau như khi ta vừa đánh tiếng trống thì tiếng trống phát hiện
liền. Có khi nhân đã gây rồi nhưng phải đợi thời gian sau quả mới hình
thành như từ lúc gieo hạt lúa giống, nẩy mầm thành mạ, nhổ mạ, cấy lúa,
mạ lớn thành cây lúa, trổ bông, rồi cắt lúa, vân vân, phải qua thời gian
ba bốn tháng, hoặc năm sáu tháng. Có khi từ nhân đến quả cách nhau hằng
chục năm như một đứa bé cắp sách đến trường học tiểu học, đến ngày
thành tài 4 năm đại học phải trải qua thời gian ít nhất là 14 năm. Có
những trường hợp khác từ nhân đến quả có thể dài hơn, từ đời trước đến
đời sau mới phát hiện:
5) Hiểu và tin vào luật nhân quả, Phật tử sẽ không mê tín dị
đoan, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang. Biết cuộc đời mình
là do nghiệp nhân của chính mình tạo ra, người Phật tử với lòng tự tin,
có thêm sức mạnh to lớn sẽ làm những hành động tốt đẹp thì chắc chắn
nghiệp quả sẽ chuyển nhẹ hơn, chứ không phải trả đúng quả như lúc tạo
nhân. Nếu làm tốt nữa, biết tu thân, giữ giới, tu tâm, nghiệp có thể
chuyển hoàn toàn. Khi biết mình là động lực chính của mọi thất bại hay
thành công, người Phật tử sẽ không chán nản, không trách móc, không ỷ
lại, có thêm nhiều cố gắng, có thêm tự tin để hoàn thành tốt mọi công
việc. Biết giá trị của luật nhân quả, người Phật tử khi làm một việc gì,
khi nói một lời gì, nên suy nghĩ trước đến kết quả tốt hay xấu của nó,
chứ không làm liều, để rồi phải chịu hậu quả khổ đau trong tương lai:
II. Nghiệp: Karma (skt)—Kamma (p)
Ý nghĩa của Nghiệp: Nghiệp là một trong các giáo lý
căn bản của Phật giáo. Mọi việc khổ vui, ngọt bùi trong hiện tại của
chúng ta đều do nghiệp của quá khứ và hiện tại chi phối. Hễ nghiệp lành
thì được vui, nghiệp ác thì chịu khổ. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp theo chữ
Phạn là ‘karma’ có nghĩa là hành động và phản ứng, quá trình liên tục
của nhân và quả. Luân lý hay hành động tốt xấu (tuy nhiên, từ ‘nghiệp’
luôn được hiểu theo nghĩa tật xấu của tâm hay là kết quả của hành động
sai lầm trong quá khứ) xảy ra trong lúc sống, gây nên những quả báo
tương ứng trong tương lai. Cuộc sống hiện tại của chúng ta là kết quả
tạo nên bởi hành động và tư tưởng của chúng ta trong tiền kiếp. Đời
sống và hoàn cảnh hiện tại của chúng ta là sản phẩm của ý nghĩ và hành
động của chúng ta trong quá khứ, và cũng thế các hành vi của chúng ta
đời nay, sẽ hình thành cách hiện hữu của chúng ta trong tương lai.
Nghiệp có thể được gây tạo bởi thân, khẩu, hay ý; nghiệp có thể thiện,
bất thiện, hay trung tính (không thiện không ác). Tất cả mọi loại nghiệp
đều được chất chứa bởi A Lại Da và Mạt Na thức. Chúng sanh đã lên xuống
tử sanh trong vô lượng kiếp nên nghiệp cũng vô biên vô lượng. Dù là
loại nghiệp gì, không sớm thì muộn, đều sẽ có quả báo đi theo. Không một
ai trên đời nầy có thể trốn chạy được quả báo.
Nghiệp và Quả Báo: Như trên đã nói, nghiệp là sản
phẩm của thân, khẩu, ý, như hạt giống được gieo trồng, còn quả báo là
kết quả của nghiệp, như cây trái. Khi thân làm việc tốt, khẩu nói lời
hay, ý nghĩ chuyện đẹp, thì nghiệp là hạt giống thiện. Ngược lại thì
nghiệp là hạt giống ác. Chính vì vậy mà Đức Phật dạy: “Muốn sống một đời
cao đẹp, các con phải từng ngày từng giờ cố gắng kiểm soát những hoạt
động nơi thân khẩu ý chớ đừng để cho những hoạt động nầy làm hại cả ta
lẫn người.” Nghiệp và quả báo tương ứng không sai chạy. Giống lành sanh
cây tốt quả ngon, trong khi giống xấu thì cây xấu quả tệ là chuyện tất
nhiên. Như vậy, trừ khi nào chúng ta hiểu rõ ràng và hành trì tinh
chuyên theo luật nhân quả hay nghiệp báo, chúng ta không thể nào kiểm
soát hay kinh qua một cuộc sống như chúng ta ao ước đâu. Theo Phật Pháp
thì không có thiên thần quỷ vật nào có thể áp đặt sức mạnh lên chúng ta,
mà chúng ta có hoàn toàn tự do xây dựng cuộc sống theo cách mình muốn.
Nếu chúng ta tích tụ thiện nghiệp, thì quả báo phải là hạnh phúc sướng
vui, chứ không có ma quỷ nào có thể làm hại được chúng ta. Ngược lại,
nếu chúng ta gây tạo ác nghiệp, dù có lạy lục van xin thì hậu quả vẫn
phải là đắng cay đau khổ, không có trời nào có thể cứu lấy chúng ta..
Nghiệp đi vào tiềm thức như thế nào?: Khi chúng ta hành động, dù
thiện hay ác, thì chính chúng ta chứng kiến rõ ràng những hành động ấy.
Hình ảnh của những hành động nầy sẽ tự động in vào tiềm thức của chúng
ta. Hạt giống của hành động hay nghiệp đã được gieo trồng ở đấy. Những
hạt giống nầy đợi đến khi có đủ duyên hay điều kiện là nẩy mầm sanh cây
trổ quả. Cũng như vậy, khi người nhận lãnh lấy hành động của ta làm, thì
hạt giống của yêu thương hay thù hận cũng sẽ được gieo trồng trong tiềm
thức của họ, khi có đủ duyên hay điều kiện là hạt giống ấy nẩy mầm sanh
cây và trổ quả tương ứng.
Làm thế nào để chúng ta triệt tiêu nghiệp?: Đức Phật dạy nếu ai đó
đem cho ta vật gì mà ta không lấy thì dĩ nhiên người đó phải mang về, có
nghĩa là túi chúng ta không chứa đựng vật gì hết. Tương tự như vậy, nếu
chúng ta hiểu rằng nghiệp là những gì chúng ta làm, phải cất chứa trong
tiềm thức cho chúng ta mang qua kiếp khác, thì chúng ta từ chối không
cất chứa nghiệp nữa. Khi túi tiềm thức trống rỗng không có gì, thì không
có gì cho chúng ta mang vác. Như vậy làm gì có quả báo, làm gì có khổ
đau phiền não. Như vậy thì cuộc sống cuộc tu của chúng ta là gì nếu
không là đoạn tận luân hồi sanh tử và mục tiêu giải thoát rốt ráo được
thành tựu..
Phân Loại Nghiệp
Nhị Nghiệp: Có hai loại nghiệp hoặc tốt hoặc xấu, hoặc cố ý hoặc không cố ý.
Tam Nghiệp: Có nhiều loại nghiệp, nhưng đại để có ba loại: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp..
Tứ Nghiệp:
Lục Nghiệp:
Thập Nghiệp: Thập ác và thập thiện—Thập Ác, and Thập Thiện Nghiệp.
III. Luân Hồi (ThíchTâm Thiện)
A. Dẫn nhập
Luân hồi là một thể tài rất sinh động và rất quan tâm đối với con
người. Chết rồi sẽ đi đâu về đâu? Tại sao sinh, rồi tái sinh? Có cõi âm
hay không? v.v... Ðó là những dấu hỏi lơ lửng trong tâm của phần lớn
nhân loại. Các nền tín ngưỡng và tôn giáo trên thế giới đều có những
quan niệm khác nhau về luân hồi. Riêng đối với Phật giáo, luân hồi không
phải là một giáo lý đặc thù, cũng không phải là một vấn đề triết học cơ
bản, nhưng nó là một sự thật hiển nhiên đối với những con người còn bị
trầm luân trong sanh tử khổ đau. Do đó, trong các kinh điển của cả Nam
tạng và Bắc tạng đề thảng hoặc đề cập đến các vấn đề luân hồi, như là
một hiện tượng trôi chảy của những đời sống nối tiếp nhau. Ðặc biệt là
trong Bổn Sinh (Tiểu Bộ kinh) đã ghi lại các mẩu chuyện tiền thân của
Ðức Phật, như là một xác chứng hùng hồn về cuộc sống luân hồi của vị đại
Bồ tát.
B. Nội dung
I. Ðịnh nghĩa:
Luân hồi, tiếng Phạn là samsàra, có nghĩa là sự chuyển sinh, sự
chuyển tiếp, sự diễn tiến liên tục của những kiếp sống; và sự chuyển
sinh liên tục đó, thường được biểu thị bằng bánh xe (cakka) và được gọi
là bánh xe luân hồi (samsaracakka):
Chúng ta có thể hình dung bánh xe luân hồi như là một "vòng tròn sinh
sinh - hóa hóa" của đời sống của muôn loài chúng sanh. Trên vòng tròn
ấy, không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc, và bánh xe ấy cứ
quay mãi trong vòng trầm luân của sanh tử khổ đau cho đến khi nào con
người tu tập và đạt đến sự giải thoát tối thượng. Ðức Phật dạy:
"Ðêm dài đối với kẻ thức
Ðường dài đối với kẻ mệt
Luân hồi dài đối vớ kẻ ngu
Không biết rõ chân diệu pháp"
II. Nội dung luân hồi:
Sau khi thành thạo đạo cội bồ đề, một trong những tuyên ngôn (khải
hoàn ca) đầu tiên của Ðức Phật đã được cất lên giữa dòng đời với nội
dung giải thoát vòng luân hồi - trầm luân, đã được ghi lại trong kinh
tạng như sau:
Trong lòng sống chết vô tận
Ta đi mãi không dừng
Từ bào thai này sang bào thai khác
Ðuổi theo người chủ ngôi nhà
(trong vòng luân hồi)
Chủ nhà ! Ta đã nắm được ngươi rồi
Ngươi không cất nhà lại được
Cột kèo đã gãy hết
Mái, rường đã sụp đổ
Tâm lìa hết tạo tác
Tất cả đã diệt trừ xong
(giải thoát khỏi vòng luân hồi). (Pháp cú - 153-154)
1. Luân hồi - tái sinh:
Qua bài kinh trên, chúng ta thấy rõ Ðức Phật đã xác định sự thật về
luân hồi một cách cụ thể qua hình ảnh tái sinh (từ bào thai này sang bào
thai khác). Tái sinh (reincarnation) là sự trở lại một đời sống mới
hoặc cao hơn, hoặc thấp hơn hoặc như cũ trong lục đạo (trời, người, a tu
la, địa ngục, ngạ quy3, súc sinh) sau khi đã kết thúc một chu kỳ sống
(life cycles), hay cò gọi là thọ mạng đã hết - chết.
Thông thường, khi nói đến luân hồi - tái sinh, trong phật giáo thường đề cập đến hai khái niệm cơ bản về sự sinh tử, đó là:
a. Chu kỳ sinh tử của từng sát na
b. Chu kỳ sinh tử của một đời sống
- Về chu kỳ sinh tử của từng sát na, vì nó diễn ra quá nhanh chóng
như sự sinh ra rồi mất đi của một làn chớp (điện chớp) mà thuật ngữ Phật
học gọi là "niệm niệm - sinh diệt" (sư5 sinh tử diễn ra trong từng ý
niệm), do đó vấn đề chỉ được bàn đến trên một bình diện cao hơn, như
trong thiền định, hoặc các cảnh giới của tâm thức v.v...
- Về chu kỳ sinh tử của một đời sống, do tính cách giới hạn của một
chu kỳ sống, nghĩa là có thể ghi nhận qua bốn giai đoạn: sanh, lão,
bệnh, tử và / hoặc sinh thành (sinh), tồn tại (trụ), biến chuyển (dị) và
hoại diệt (diệt) của một chúng sinh, nên chu kỳ này trở thành chủ đề
trung tâm khi nghiên cứu về luân hồi-tái sinh.
Theo quan điểm của Phật giáo, tất cả muôn loài chúng sinh phải chịu
sự chi phối của định luật vô thường. Ðối với con người, vô thường chính
là sự biểu hiện của sinh, lão, bệnh, tử của mỗi kiếp sống, và cứ mỗi
kiếp sống như thế đều được giới hạn bởi hai d9ầu sinh và tử. Tuy nhiên,
sinh và tử chỉ là sự bắt đầu và hoàn tất của một chu kỳ, Như thế, khi
thân xác này hủy hoại, cái gì sẽ tiếp tục tái sinh - mở đầu một kiếp
sống mới? Ðây là then chốt để tìm hiểu về luân hồi.
Kinh trung bộ (Majjhima Nikaya - 135), Ðức Phật dạy rằng: "Con người
là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp, là quyến thuộc của nghiệp;
nghiệp là thai tạng mà đó con người được sinh ra".
Từ lời dạy trên, chúng ta thấy rằng nghiệp (karma) luôn luôn có mặt
cùng với sự có mặt của con người. Và khi chết, thì thân thể vật lý này
tan hoại, còn nghiệp vẫn còn tiếp tục trôi lăn theo dòng trầm luân của
nó (hoặc thiện nghiệp, hoặc ác nghiệp). Nhưng nghiệp không phải là linh
hồn bất tử để nối kết các kiếp sống, vì bản thân nó là vô ngã. Tuy
nhiên, chính nghiệp là cơ sở, là điểm trung tâm, để qua đó, vòng luân
hồi xoay chuyển. Vậy, nghiệp là gì?
Nghiệp là hành động có tác ý, hay hành động được phát sinh từ tâm; và
thông qua hành động của thân, miệng và ý mà nghiệp được hình thành. Nói
đến nghiệp là nói đến thiện ác trong tương quan nhân quả; và trong mối
tương quan đó, động cơ chính để kiến tạo nghiệp là tham , sân, si (ác
nghiệp) và ngược lại là không tham, không sân, không si (thiện nghiệp).
Từ đây, chúng ta thấy rõ rằng, chính tâm lý của mình là cơ sở để tạo
nên nghiệp của mỗi người. Con người là kẻ quyết định cái nghiệp của mình
- cái định nghiệp do mình tạo tác. Và cũng chính con người là kẻ duy
nhất có thể giải thoát mọi nghiệp lực của mình, đi ra khỏi vòng luân hồi
tái sinh.
2. Nghiệp và tái sinh:
Trong đạo Phật, nghiệp được trình bày gồm nhiều loại, nhưng nghiệp cơ
bản là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Về mặt tính chất, nghiệp
được phân thành bốn loại như sau:
a. Cực trọng nghiệp (weighty karma): nghiệp loại nặng như giết cha mẹ, giết người v.v...
b. Tập quán nghiệp (habitual karma): nghiệp do thói quen hình thành.
c. Tích lũy nghiệp (strored up karma): nghiệp do tích tụ từ cuộc sông thường ngày.
d. Cận tử nghiệp (death-proximate karma): nghiệp lúc sắp chết.
Như đã trình bày, trong suốt vòng luân lưu của sinh tử, tử sinh, từ
đời sống này sang đời sống khác, nghiệp bao giờ cũng đóng vai trò trung
tâm của sự luân chuyển. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tái sinh
(reincarnation), thì cận tử nghiệp là điều kiệnn quan trọng nhất ảnh
hưởng trực tiếp đến sự tái sinh.Cận tử nghiệp, trên một góc độ nào đó,
có thể nói là hệ quả được cô kết trong suốt đời sống của một kiếp người;
đồng thời, nó cũng là dòng nghiệp thức mạnh nhất,thức đẩy thần thức của
con người trước, trong hoặc sau khi chết tìm kiếm một sự tái sinh.
Thông thường khi sinh tiền, con người làm lành hay làm ác, các hành
động (của thân, miệng ý) đó đều được lưu vào trong Tàng thức (Alaya) như
những hạt giống được gieo vào và nằm im trong lòng đất, cho đến khi sắp
chết hoăc chết, thân thể và các quan năng không còn hoạt động, lúc bấy
giờ chỉ có tâm thức hoạt động. tuy nhiên, tâm thức lúc đó không phải là
tâm thức ở trạng thái định tĩnh, tự chủ, linh hoạt v.v.., mà trái lại nó
rơi vào trạng thái bất tỉnh, hôn mê, hoảng hốt, phách lạc hồn xiêu
...Và ngay lúc bấy giờ, mọi tạo tác của con người, hoặc thiện hoặc ác
(còn gọi là thiện nghiệp hoặc ác nghiệp), từ trong qua1 khứ (khi còn
sống) sẽ tạo thành dòng nghiệp thức gồm những ý lực cực mạnh để thôi
thúc thần thức của con người đi tìm cảnh giiới tái sinh. Cần lưu ý rằng,
các tập quán, thói quen, nhất là sự luyê1n ái, chấp thủ khi còn sống sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến cận tử nghiệp. Do đó, nếu sống an lạc thì cũng
chết an lạc. Sống còn khổ đau vì tham, sân, si thì đương nhiên chết cũng
khổ đau như thế. Vì sống và chết chỉ xuất hiện trên một tiến trình, như
thức và ngủ. Vì vậy, để có sự giải thoát, ngay tại đây và bây ggiờ, cần
phải luôn luôn hướng tâm đến với sự xả ly thanh tịnh, xoá bỏ mọi sự
tham ưa và bám víu. Thánh nhân có dạy rằng: "Thế gian như một con
thuyền, hãy đi trên nó chứ đừng mang vác...".
Từ một vài chi tiết trên, chúng ta thấy rằng sự sống và sự che61t của
con người có được an lạc hay không là tùy thuộc vào dòng tâm thức của
mỗi cá thể. Sau khi thọ mạng đã hết - chết, thì thân xác sẽ tan hoại,
nhưng dòng nghiệp thức (thần thức) sẽ tiếp tục đi vào các đời sống mới
trong sáu cõi: trời, người, a tu la , địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, tùy
theo nghiệp lực thiện hay bất thiện.
3. Nghiệp thức - sinh và tái sinh:
Theo kinh Trung Bộ (tập I), sự xuất hiện của con người bao giờ cũng
hội đủ 3 điều kiện: a. Cha mẹ có gaio hợp; b. Người mẹ có thể thụ thai;
và c. Phải có mặt nghiệp thức. Nếu không có mặt nghiệp thức thì thai nhi
không thể sống.
Về nghiệp thức (karmic consciousness), còn được gọi là hương ấm, hay
là Kiết sinh thức (Gandhabha). Khi điều kiện hội đủ và do nghiệp chiêu
cảm mà kiết sinh thức đi vào thai mẹ; lúc bấy giờ, Kiết sinh thư1c cảm
như là "ý niệm tối sơ; của một đời sống mới. Cho đến khi chết, cũng dòng
nghiệp thức ấy thúc đẩy tìm kiếm tái sinh, nên được gọi là "nghiệp dẫn
tái sinh". Thực ra, cả sự sinh và tái sinh đều được căn cứ trên dòng vận
hành của nghiệp thức. Và từ sinh cho đến tái sinh (sau khi chết), trong
suốt quá trình đó, đời sống của một sinh thể được hình thành qua cơ cấu
của 12 Nhân duyên: vô minh - duyên hành, hành duyên thức, thức duyên
danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ,
thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên
lão, tử, sầu, bi, khổ, ưu não... (về ý ngghĩa của 12 Nhân duyên, sẽ được
giới thiện sau. Như vậy, 12 nhân duyên chính là sự hiện hữu của con
người. Và trong 12 Nhân duyên, các chi phần vô minh, hành, thức và danh
(sắc) là các yếu tố của nghiệp dẫn tái sinh.
4. Các quan niệm về chết và thân trung ấm:
Trong Nikàya đề cập đến sự chết cụ thể như sau: thứ nhất là chết sắc
thân đoạn diệt, hai là chết do thọ mạng đã hết, và do nghiệp ở đời đã
hết. Bên cạnh đó, còn có trường hợp chết đột ngột (bất đắc kỳ tử, chưa
đến lúc mà chết). Nhìn chung, sự chết được xem như là sắc thân (cơ thể)
đã đoạn diệt.
Một vấn đề khác nữa là trung ấm. Theo một số chủ thuyết của Ðông sơn
bộ, Chính lượng bộ thuộc Hữu bộ cho rằng, sau khi chết và trước khi tái
sinh, oở giữa đó là thân trung ấm (trung gian). Thời gian của thân này
là thời gia chuẩn bị tái sinh, nó kéo dài không quá 49 ngày (theo Thiết
Ma Ðạt Ða). Có thể do ảnh hưởng của không quá niệm này mà có tục lệ cúng
thất - thất trai tuần (7 x 7 = 49 ngày).
Tuy nhiên, theo Nikàya và A Hàm thì từ "tử tâm" cho đến "kiết sinh
tâm" chỉ diễn ra trong vòng một đến hai sát na (tích tắc), do đó không
cần có thân trung ấm (trung hữu).
Thật ra, theo người viết nhận định, thân trung ấm cũng là một thân vi
tế (tịnh sắc thân), một cảnh giới trong hằng hà sa thế giới; và đương
nhiên nó cũng vô thường, biến dị, cũng luân hồi sinh diệt. Vì thế, không
có gì mâu thuẫn giữa "tử tâm" và "kiết sinh tâm" trong Nikàya với quan
điểm có hay không có quan điểm sắc thân trung ấm. Vì lẽ, thời gian 49
ngày cho một thân - thức đương nhiên không có gì vô lý khi tại trần gian
có những đời sống dài nhất chỉ một vài ngày, như loài muỗi mòng v.v...
5. Ðể có một sự chết trong thanh bình - an lạc:
Ðây là vấn đề trọng yếu của con người, Như đã đề cập, sống và chết
cũng như thức và ngủ, vậy thôi. Chúng ta không nên quan tâm quá đáng về
cái chết, vì ai cũng chết. Nhưng điều đáng quan tâm hơn là sống và sống
như thế nào để lúc chết được bình an. Vì lẽ đó, đối với Phật tử cần phải
sống giữ tâm linh trong sạch, đừng làm điều gì gây khổ đau cho chính
mình và cho kẻ khác, nhất là phải luôn luôn ý thức rằng cuộc đời là vô
thường, "trần gian này là chiếc cầu, hãy đi qua nó chứ đừng xây nhà trên
nó". Cho đến khi nào tâm được trong sạch, thanh bình, không còn luyến
tiếc, không còn bám víu vào bất cứ điều gì, dầu gia tài sự nghiệp, dầu
vợ đẹp con ngoan v.v..., thì khi đó sự chết của bạn như lên thuyền sang
sông, giải thoát mọi khổ đau, chết trong sự bình an phúc lạc. Ðức Phật
dạy:
"Bỏ quá khứ, hiện tại và vị lai
Ðến bên kia cuộc đời
Ý giải thoát tất cả
Chớ vướng bận sinh, gia, bệnh, chết"
C. Kết luận:
Tìm hiểu về luân hồi là để sống được an nhiên, tự tại. Chúng ta không
cố tìm gặp luân hồi, vì luân hồi đang trôi chảy ngay trên thân của mỗi
con người, như dòng máu luân lưu. Cái khổ đau nhất của người đời là tham
muốn và nắm giữ các đối tượng "của tôi" và của "cái tôi thích, tôi
yêu". Bạn có thể tập buông bỏ từ từ cái tâm lý tham muốn và nắm giữ đó,
nhưng nếu một mai...khi vô thường đến, thần chết đến hỏi bạn thì bạn hãy
ngay lập tức hướng tâm đến sự từ bỏ tất cả, sự không tham luyến tất cả,
sự thanh tịnh bình an, sự chánh niệm tỉnh giác; vì đó là điều kiện tối
cần thiết cho sự tái sinh vào một đời sống tốt đẹp hơn và cao cả hơn. Và
để làm được điều đó ngay bây giờ và ở đây, bạn hãy thực tập tư duy về
vô thường - vô ngã.(Thư Viện Hoa Sen)
IV. Trích Dẫn
- Nguyên nhân luân hồi và phương pháp giải thoát
Vua Di Lan Ðà thỉnh Na Tiên vào hoàng cung
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại Ðức, có ai chết rồi mà không sanh trở lại không?
-- Tâu Ðại Vương, có kẻ sanh trở lại mà cũng có kẻ không sanh trở lại.
-- Những ai sanh trở lại và những ai không sanh trở lại?
-- Ai còn nặng nợ tham dục ái ân, kẻ đó còn sanh trở lại đời sau. Ai
đã thoát khỏi vòng tham dục ái ân, người đó không còn sanh trở lại nữa.
-- Bạch Ðại Ðức, kẻ nào nhất tâm niệm chánh pháp có thoát khỏi luân hồi không?
-- Tâu Ðại Vương, nhất tâm niệm chánh pháp mà lại còn phải đạt được
trí ruệ và các điều thiện khác nữa thì mới thoát khỏi luân hồi.
-- Nhứt tâm và trí tuệ có đồng nghĩa nhau không?
-- Không.
-- Gia súc như bò, ngựa, chó, mèo... có trí tuệ không?
-- Chúng có nhứt tâm nhưng không có trí tuệ.
-- Nhứt tâm và trí tuệ khác nghĩa nhau như thế nào?
-- Nhứt tâm là định. Có định mới hiểu biết. Trí tuệ là đoạn. Nhờ trí
tuệ mà cắt đứt được phiền não mê lầm và chặt dứt luân hồi sanh tử.
-- Xin ví dụ cho trẩm dễ hiểu.
-- Ðại Vương từng thấy thợ gặt lúa chứ? Tay trái họ gom bụi lúa lại,
trong khi đó thì tay mặt họ cầm lưỡi hái mà cắt. Cũng giống như thế, nhà
tu hành dùng nhứt tâm gom tư tưởng lại và dùng lưỡi hái trí tuệ cắt đứt
phiền não ái dục. Phiền não ái dục đã cắt đứt thì vĩnh viễn không còn
tái sanh. Luần hồi chấm dứt.
-- Hay thay! Hay thay! Ví dụ của Ðại Ðức rõ lắm.
*.Tương quan giữa thân trước và thân sau.
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại Ðức, kinh Phật nói con người sau khi chết, tiếp tục thác
sanh trở lại theo nghiệp lành dữ đã gây, như vậy đó là con người cũ hay
là một con người mới nào khác?
-- Tâu Ðại Vương, không phải con người cũ, nhưng cũng chẳng phải lìa con người cũ ra mà sanh một con người mới khác.
-- Như thế nghĩa là thế nào?
Na Tiên chụp hỏi lại:
-- Bệ hạ hồi còn bú vú mẹ với bệ hạ cai trị trăm họ bây giờ có khác gì nhau không?
-- Khác chứ! Hồi đó trẫm nhỏ dại, bây giờ trẫm lớn khôn.
-- Như vậy thì lệnh mẫu hoàng hồi đó không phải mẫu hoàng ngày nay!
Lệnh phụ hoàng cũng thế! Và bệ hạ cũng chẳng có phụ đạo. Vì ông thầy ấy
chỉ dạy đứa bé mươi mười lăm tuổi cách đây mấy chục năm, chứ đâu có dạy
bệ hạ bây giờ! Thân trước thân sau khác nhau thì mẹ đứa bé không phải là
mẹ nhà vua! Người học trò thuở trước cũng không phải nhà vua trong hiện
tại! Và kẻ phạm tội giết người năm ngoái không phải là người bị cáo ra
tòa ngày nay! Bệ hạ làm sao buộc tội được người ấy?
-- Bạch Ðại Ðức, không phải như thế. Nhưng có ai hỏi Ðại Ðức về khoản nầy thì Ðại Ðức giải đáp ra sao?
-- Tâu Ðại Vương, thân bần tăng lúc nhỏ với thân bần tăng bây giờ
cũng là một thân mà thôi. Thân ấy từ nhỏ đến lớn, trải qua nhiều quảng
đời khác nhau, nhưng vẫn được liên tục nuôi dưỡng bởi một sinh mạng.
-- Xin cho thí dụ.
-- Ví như một ngọn đèn thắp từ đầu hôm nó có thể cháy mãi cho tới sáng không?
-- Có thể.
-- Lửa ngọn đèn thắp lên từ đầu hôm với lửa ngọn đèn lúc nửa đêm và lửa ngọn đèn lúc gần sáng có phải là một không?
-- Không.
-- Trong ba khoảng thời gian khác nhau ấy, người ta có đốt ngọn đèn nào khác không?
-- Vốn chỉ một ngọn đèn với một cái bấc và cùng một loại dầu từ đầu hôm cho đến tảng sáng.
-- Trong con người cũng như thế đó, tâu Ðại Vương. Pháp nầy đi thì
pháp kia tới, trước sau tiếp nối nhau, không ngừng mà nuôi dưỡng tinh
thần. Từ khi sinh ra cho đến lớn lên rồi già chết, nó lại thú hướng đến
một kiếp sống khác, cứ thế triển chuyển tương tục hoài hoài. Cho nên nói
rằng thân cũ sanh trở lại thì không đúng, nhưng nói lìa thân cũ ra mà
có một thân mới khác cũng không được. Lại ví như sữa tươi mới vắt, để
lâu thì thành sữa ôi, thành bơ... Nói sữa tươi là bơ thì hẳn không phải,
nhưng nói bơ không do sữa tươi mà ra thì cũng sai. Cũng tương tợ như
thế, con người sinh ra với tinh thần và sau khi sinh thì lớn, già, rồi
chết. Chết rồi nó lại mang một thân mới mà sinh trở lại. Mất thân trước,
nó liền thọ thân sau. Cho nên nói người đầu thai sinh trở lại và người
đã chết là một thì không đúng, mà nói chúng tách lìa khỏi nhau cũng
chẳng nhằm.
-- Hay thay! Hay thay!
*.Tự biết hết tái sanh
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại Ðức, người không còn tái sanh nữa có thể tự mình xác tri việc đó được không?
-- Tâu Ðại Vương, có thể được.
-- Bằng cách nào?
-- Ai tự biết mình không còn ân ái, không còn tham dục, không có dụng
tâm làm điều dữ, người đó tự biết chắc không còn tái sanh trên cõi đời
nầy nữa.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như người làm ruộng, đầu mùa lo cày bừa, gieo giống, cấy mạ thì
đến cuối mùa thu hoạch nhiều lúa cất chứa trong vựa. Qua năm sau nếu
người ấy không cày bừa, gieo giống và cấy mạ nữa, mà chỉ tiêu dùng số
lúa còn dự trữ của năm trước, như vậy người ấy có thể tự biết rằng mình
không gặt lúa nữa không?
-- Biết chứ!
-- Bằng cách nào?
-- Không cày, không gieo, không cấy, tức nhiên không có lúa mà gặt.
-- Bậc tu hành đắc đạo cũng giống như thế. Quên ân ái, xả khổ vui,
không tham dục, tức như không cày, không gieo, không cấy. Ðương nhiên là
sẽ không gặt quả tái sanh. Vì vậy, bậc đắc đạo biết chắc rằng đời sau
mình không còn tái sanh trên thế gian nầy nữa.
*.Không Bị Ðịnh Luật Nhân Quả Chi Phối
Trong truyện cổ Phật giáo (chuyện nàng Bhadda), Nàng hỏi Xá Lợi Phất :
- Cái thực còn bị định luật nhân quả chi phối hay không, còn bị định
luật nhân quả chi phối? Hãy trả lời ngay đi. Hãy trả lời mà đừng hủy
hoại ngôn ngữ, như dao chém nước.
-- Này nàng Bhađda! -- Tôn giả Xá lợi Phất vẫn kiên định như phong
thái của con mảnh sư -- chẳng cần phải lớn lối như thế. Hãy nghe đây,
nếu cái thực ấy mà còn định luật nhân quả chi phối thì cái thực ấy chỉ
là khổ đau, nhiệt não, tử sanh. Nếu cái thực ấy không còn bị định luật
nhân quả chi phối thì đồng nghĩa với hư vô, cái không thực hữu, cái vô
tự tính, cái ngoang không niết bàn.
Này nàng Bhađda, hãy nghe đây! Ðây là cái dao chém nước như nàng
muốn. Cái thực ấy là cái sáng suốt, mặt trời đại huệ. Cái thấy từ tâm,
trí, tư tưởng trí mà có, từ tuệ, tuệ minh, cái tuệ minh ấy nó có trong
tâm của bậc giác ngộ, bậc A La Hán, kẻ đã đoạn tận lậu, hoặc giải thoát
khổ đau và phiền não; này nàng Bhađda cứ như thế mà thọ trì! (Thực Tại
và Chí Ðạo, trang 121, 122)
V Pháp Hành
Muốn vượt khỏi dòng bộc lưu sanh tử, trước tiên hành giả phải tu pháp vô tự ngã là căn bản trong bước đầu tập thiền định.
1. Hành Ðoạn Trừ Lậu Hoặc
a). Hành giả cần tư duy sự bất
thiện và hậu quả của lậu hoặc như dục tham, hữu tham, tà kiến và vô
minh, vì những cấu uế nầy tiết lậu từ các căn môn không được thúc liểm,
như nước rỉ từ bình chảy, hoặc vì chúng phát sanh những khổ sanh tử.
Nhờ tác ý các pháp cần phải tác ý nên các lậu hoặc chưa sanh không sanh
khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt. Vị ấy như lý tác ý:
"Đây là khổ", vị ấy giác tri;
: "Đây là khổ tập", vị ấy giác tri;
"Đây là khổ diệt", vị ấy giác tri;
: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt" vị ấy giác tri.
Nhờ vị ấy tác ý như vậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi,
giới cấm thủ. Các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tri kiến được
đoạn trừ
b). bằng phòng hộ là biết được lậu
hoặc nguy hiểm như vậy mà phòng thủ là không cho nó lộ ra nghĩa là nhốt
nó nó trong lòng không nghĩ nó nữa. làm thế nào là các lậu hoặc phải do
phòng hộ được đoạn trừ?
.”Sống phòng hộ với sự phòng hộ con mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa”. Vị ấy giác tri;
“Sống phòng hộ với sự phòng hộ lỗ tai... (như trên)”
“Sống phòng hộ với sự phòng hộ lỗi mũi... (như trên)”;
“Sống phòng hộ với sự phòng hộ lưỡi... (như trên)”;
“Sống như lý giác sát phòng hộ với sự phòng hộ thân căn... (như trên)”;
.”Sống như lý giác sát phòng hộ với sự phòng hộ ý căn. các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa”
Các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ.
c). bằng thọ dụng
Các vị như lý giác sát, thọ dụng y phục, chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn
ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời,
các loài bò sát, chỉ với mục đích che đậy sự trần truồng. Vị ấy như lý
giác sát, thọ dụng món ăn khất thực không phải để vui đùa, không phải để
đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ
để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị
thương hại, để hổ trợ phạm hạnh,
Nghĩ rằng (giác tri): "Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn".
Vị ấy như”lý giác sát, thọ dụng sàng tọa, chỉ để ngăn ngừa lạnh,
ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt
trời, các loại bò sát, chỉ để giải trừ nguy hiểm của thời tiết, chỉ với
mục đích sống độc cư an tịnh; vị ấy như lý giác sát thọ dụng dược phẩm
trị bệnh, chỉ để ngăn chận các cảm giác khổ thống đã sanh, để được ly
khổ hoàn toàn.”
. Nếu vị ấy thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy
không còn nữa, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do thọ dụng
được đoạn trừ
d). bằng kham nhẫn
Hành giả như lý giác sát, kham nhẫn lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc
phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát; kham nhẫn
những cách nói mạ lỵ, phỉ báng. Vị ấy có tánh kham nhẫn các cảm thọ về
thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối, không
sung sướng, không thích thú, chết điếng người.
Nếu vị ấy nghĩ “kham nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa.”
Các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ.
e) bằng tránh né
Hành giả như lý giác sát tránh né voi dữ, tránh né ngựa dữ, tránh né
bò dữ, tránh né chó dữ, rắn, khúc cây, gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước
nhớp, vũng nước. Có những chỗ ngồi không xứng đáng ngồi, những trú xứ
không nên lai vãng, những bạn bè ác độc mà nếu giao du thì bị các vị
đồng phạm hạnh có trí nghi ngờ, khinh thường; vị ấy như lý giác sát
tránh né chỗ ngồi không xứng đáng ấy, trú xứ không nên lai vãng ấy và
các bạn độc ác ấy. Vị ấy “giác tri tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa.”
, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ
f). bằng trừ diệt
Hành giả như lý giác sát không có chấp nhận dục niệm đã khởi lên, từ
bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (dục niệm ấy); không có chấp
nhận sân niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại
(sân niệm ấy); không có chấp nhận hại niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt,
diệt tận, không cho tồn tại (hại niệm ấy); không chấp nhận các ác bất
thiện pháp luôn luôn khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn
tại (các ác bất thiện pháp ấy). Vị ấy “giác tri trừ diệt như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa”.
Các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn diệt.
g). bằng tu tập
H ành giả như lý giác sát tu tập niệm giác chi, niệm giác chi này y
viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ; như lý giác sát tu tập
trạch pháp giác chi... (như trên)... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập
hỷ giác chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi... tu
tập xả giác chi; xả giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt,
hướng đến từ bỏ. Vị ấy “giác tri tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa.”
Các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.
VI. Kết Luận
Ðể được giác ngộ giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử luân hồi và quả
báo, Phật đã dạy rất nhiều trong các kinh điển về pháp học cũng như
pháp hành. Ðiều quan trọng là phải trau giồi phẩm hạnh tức giới luật
nghiêm minh và rèn luyện trí tuệ. Trong việc tu tập sự rèn luyện trí tuệ
là thiết yếu soi sáng vô minh u tối để mở ra con đường sáng chiếu rọi
cho gới luật rõ ràng mà thúc liểm thân tâm miêm mật mới có thể thoát
khỏi mọi cám dỗ của dục lạc và vô minh là gốc luân hồi. Ðạo Phật lấy Từ
Bi và Trí Tuệ làm căn bản cho việc tu tập. Trong vấn đề tự giác và giác
tha đó, khi người tu sĩ tự mình giác ngộ rồi mới có cơ may giúp ích
được người khác. Từ Bi là hình thức tu sĩ phải lột bỏ cái bản ngã của
mình có mà phục vụ tha nhân. Thiền định là con đường tối ưu thanh lọc và
đoạn tận các lậu hoặc cũng như các việc bất thiện khác để trở thành tâm
thánh thiện an tịnh vượt khỏi mọi hệ lụy đến sanh tử luân hồi.Trong các
pháp tu tập ấy, Phật dạy trước tiên phải dẹp bỏ tự ngã của mình mà trau
dồi phẩm hạnh (giới luật) và rèn luyện tâm trí, đó là tu pháp vô tự ngã và các pháp thiền định là căn bản.
Tham Khảo
Kinh Na Tiên Tỳ Kheo. Cao Hữu Ðính dịch Việt từ Pali, đăng trong website Tạng Thư Phật Học: http://www.tangthuphathoc,net.
Luân Hồi. Thích Tâm Thiện. Ðăng trong website Thư Viện Hoa Sen: http://www.thuvienhoasen.org.
Pháp tu vô tự ngã và bước đầu thiền định. Phổ Nguyệt đăng trong website Tạng Thư Phật Học.
TÐPHVA. (Tự Ðiển Phật Học Việt Anh) Thiện Phúc trong website Quảng Ðức: http://www.quangduc.com.
Thực Tại và Chí Ðạo. Phổ Nguyệt, 2002, in tại Ðường Sáng Printing San Jose CA và đăng trong website Tạng Thư Phật Học.