Khi
Ðức Phật 80 tuổi, Ngài tự nghĩ: “Ta đã
làm tất cả những gì ta có thể làm để giúp
cho mọi người. Ta đã hướng dẫn họ
làm thế nào để sống với tình thương và
tránh làm hại sự sống của kẻ khác. Bây giờ,
đã đến lúc ta sẽ từ bỏ thân xác này một
cách an lạc”.
Lúc
đó, Ðức Phật gọi A Nan: “Ðã đến lúc
chúng ta trở về Ca Tỳ La Vệ một lần cuối.
Ta muốn viên tịch tại thành phố nơi ta đã
trưởng thành”.
A
Nan nghe xong hết sức đau buồn, ông thưa: “Bạch
Ðức Thế Tôn, xin Ngài đừng lìa bỏ chúng con.
Ðã nhiều năm qua, Ngài là thầy dẫn đường
của chúng con. Chúng con biết sẽ làm gì đây khi thầy
vắng bóng?”. Nói xong, ông sụt sùi khóc.
Phật
an ủi: “Ðừng khóc nữa, A Nan thân yêu của ta. Ta
luôn luôn dạy rằng, chết là điều tất nhiên
của sự sống, không có gì phải lo sợ cả,
con phải hiểu rõ điều đó. Khi ta viên tịch
rồi, hãy lấy những lời dạy của ta làm thầy
dẫn đường. Nếu con khắc ghi những lời
dạy này trong trái tim của con, con sẽ không cần
đến ta nữa. Bây giờ chúng ta hãy lên đường
trở về Ca Tỳ La Vệ”.
Ðức
Phật và các đệ tử lên đường đi về
hướng Bắc. Họ đi ngang qua những ngôi làng
ở Câu Thi Na (Kushinagar) cách Ca Tỳ La Vệ không xa. Ðức
Phật nói với các đệ tử dừng lại
nơi đây và nghỉ ngơi. Người nói với A
Nan rằng: “Ðây là nơi ta sẽ viên tịch”.
Mặc
dù đây là những ngày cuối cùng của đời sống,
Ðức Phật vẫn không ngừng cứu độ chúng
sinh. Một ông Phạm chí tên Tu Bạt Ðà La (Subhaddha)
đã 120 tuổi xin được gặp Phật và Ngài
đã đồng ý. Phật đã lắng nghe những thắc
mắc của ông về việc tu hành và Ngài đã ban cho
ông những lời chỉ dẫn rất chân tình. Sau khi
nghe xong, mọi nghi ngờ của ông đều tan biến,
và ông đã tìm được nguồn an lạc hạnh
phúc ngay khi Ðức Phật nói pháp xong.
Sau
đó, Ðức Phật đi vào khu vườn và nằm
giữa hai thân cây Sa la đang nở hoa trắng xóa. Những
đệ tử tụ tập vây quanh Ngài. Một số
người đang sụt sùi khóc, nhưng những người
đã hoàn toàn an lạc giải thoát thì im lặng.
Ðức
Phật ban bố những lời dạy cuối cùng: “Hãy
ghi nhớ những gì ta đã dạy các con. Tham
ái là nguyên nhân của tất cả bất hạnh. Mọi
vật sớm hay muộn cũng sẽ biến đổi,
đừng nên bám víu vào bất cứ cái gì. Tốt hơn
hết nên dốc lòng thanh lọc tâm trí. Hãy tinh tấn
lên để đạt tới giải thoát”.
Lúc
này, Ðức Phật xoay mình về bên phải, đầu
đặt lên bàn tay phải. Ngài nhắm mắt lại
và an nhiên viên tịch. Hoa Sa la rụng xuống như
mưa.
Sau
đó, các đệ tử đặt nhục thân Phật
vào trong quan tài bằng gỗ. Họ chuẩn bị đem
thiêu Ngài theo phong tục Ấn Ðộ, nhưng họ không
sao mồi lửa cho cháy được. Lúc ấy, vị
đệ tử lớn của Phật là Ca Diếp (Maha
Kassapa) về tới. Khi nghe tin Ðức Phật sẽ nhập
Niết bàn, Ca Diếp vội vã đến Câu Thi Na, nhưng
khi ngài về đến nơi thì Ðức Phật đã tịch
rồi. Ca Diếp đến bên kim quan và chắp tay thành
kính đảnh lễ nhục thân của Phật. Ca Diếp
lạy xong thì lửa bắt đầu đốt cháy. Lửa
tàn, xác thịt đều ra tro, chỉ còn lại những
viên xá lợi óng ánh đủ màu sắc.
Vua
các nước ở phía Bắc Ấn Ðộ nghe tin Phật
nhập Niết bàn, sau khi hỏa thiêu có nhiều xá lợi
nên họ muốn thỉnh về thờ. Họ nghĩ: “Ta
sẽ xây một cái tháp để tôn thờ xá lợi của
Phật trong vương quốc của ta. Ðây là niềm
vinh hạnh rất lớn cho đất nước của
ta”.
Thế
rồi, ông vua nào cũng muốn lấy xá lợi của
Phật nên đã xảy ra sự tranh cãi. Ai cũng muốn
giành thắng lợi về phía mình cả. Cuối cùng,
có một người đứng ra phân giải: “Ðức
Phật đã trải qua toàn bộ cuộc đời của
Ngài để dạy cho chúng ta biết yêu thương
người khác. Bây giờ Ngài đã viên tịch, các vị
lại đi ngược lời Phật đã dạy. Thật
là không đúng tí nào. Tốt hơn hết, chúng ta nên
phân chia xá lợi cho đồng đều. Rồi sau
đó, các vị sẽ đem về vương quốc của
mình, xây tháp thờ xá lợi của Ðức Phật”.
Các
vị vua nghe nói có lý và họ không còn tranh cãi hơn thua
nữa. Họ hoan hỷ cùng nhau phân chia xá lợi Phật
và đem về vương quốc của mình. Nơi
đó, họ xây những bảo tháp để kỷ niệm
một vị thầy cao quý đã sống một đời
tràn đầy tình thương và trí tuệ.