...Lúc Phật Gotama còn tại thế, Ngài hướng dẫn chúng
sanh đi theo con đường của Ngài, ai nghe lời Ngài chỉ dạy, người ấy tự tu tự
độ. Thật ra, Ngài chẳng bao giờ nắm tay ai để đưa đến chỗ yên vui tuyệt đối.
“Subhadda này! Đạo là con đường có
tám chi, rất quý báu đưa người đến nơi tận diệt phiền não. Trong Tôn giáo nào
không có con đường tám chi ấy, thì Sa môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư, (đây
chỉ là hàng Tứ Thánh) chẳng có trong Tôn giáo ấy. Subhadda này! nếu có người
hành đúng theo giáo pháp của Như Lai, thì trong cõi đời này vẫn còn có bậc A La
Hán.”
Thế Tôn dạy lời di giáo tối hậu: “Này chư vị Tỳ Kheo! Như Lai xin nhắc
các Thầy nên ghi nhớ rằng: “Các pháp hành, có sanh phải có diệt”. Các Thầy nên
tinh tấn tự tìm sự lợi ích cho mình, nhất là cố gắng thực hành các pháp cao
thượng chẳng nên dễ duôi”.
Lịch Sử Xá Lợi Của Đức Phật Gotama
Nguyễn Văn Hiểu
Ngọc Xá Lợi là một Thách Tích vô giá của
Phật Tổ Gotama, do phái đoàn Phật giáo Tích Lan đưa qua Nhật Bổn, để hiến cho
hàng Phật tử xứ ấy, trong dịp Đại Hội nghị Phật giáo hoàn cầu kỳ nhì tại Đông
Kinh (Tokyo), đã được cung nghinh lên kinh đô xứ Việt Nam, một cách vô cùng
trọng thể và được trưng bày trọn cả một ngày và một đêm, cho công chúng chiêm
bái cúng dường.
Chúng ta nên ghi nhớ rằng, trong ngàn
năm muôn kiếp, ngày cung nghinh Xá Lợi vừa rồi, là ngày duy nhứt trong đời tu
Phật của chúng ta. Ngày ấy là ngày 25 tháng 07 Nhâm Thìn, nhằm ngày 13 tháng 09
năm 1952. Kể lại, từ khi Đức Thế Tôn nhập diệt đến ngày chúng ta gặp duyên may
yết kiến Xá Lợi, thời gian đã trôi chảy được 2.496 năm, 4 tháng và mười ngày.
Thấy rằng, mặc dầu sanh vào thời kỳ vô
cùng xa cách với niên đại nói trên, chúng ta vẫn còn duyên lành với Phật Tổ Như
Lai; vì chúng ta không mong mà tình cờ lại được đứng trước hòn ngọc Xá Lợi, để
đem tất cả lòng nhiệt thành sùng tín, hoài niệm tưởng nhớ đến ân đức của một
Đấng Trọn Lành, đã tận tụy hy sinh từ vô lượng kiếp, quyết chí tìm phương cứu
vớt sanh linh ra khỏi vòng đau khổ.
Trong kiếp chót, khi đạt được mục đích
cao cả rồi, vị Chánh Đẳng Chánh Giác, ngày đi đêm nghỉ, châu du từ thành này
sang xứ nọ, trọn 45 năm trường, hướng dẫn tín đồ trên đường giác ngộ. Vì quá
thương xót chúng sanh đương bị chơi vơi trong biển khổ, mà Ngài hy sinh, mệt
nghỉ, khoẻ đi, đi hoài cho đến mòn hơi, kiệt lực; giữa đường thọ bịnh nan y.
Đấng Cứu Thế, đã vì nhân loại, với cái
tuổi thọ 80, với bao nhiêu sự cam go hiểm trở trên những con đường gồ ghề băng
xuyên giữa rừng núi, dưới những đám mưa phùn, tuyết đổ; mà Ngài vẫn vui lòng
nhẫn nại làm tròn phận sự cho đến giờ phút kiệt quệ, phải chịu phép vĩnh biệt
thế gian.
Trên đời này còn ai hy sinh trong sự mưu
cầu hạnh phúc cho nhân loại hơn Phật tổ Gotama.
Cao cả thay! cái đời sáng lạng của đấng
Hiền Triết duy nhất của thế gian. Cao quý thay! cái ân đức từ bi rộng lớn của
bậc siêu nhân hy hữu của cõi Á châu!
Chúng tôi là kẻ đã thọ ân sâu dày của
Ngài, nhờ giáo pháp của Ngài để lại, biết cải ác tùng thiện, theo dõi con đường
vạch sẵn của Ngài, xin đem tất cả tấm lòng trong sạch, cúi đầu tôn kính Ngài.
Chẳng biết lời nào để tán dương ca tụng
ân đức của Ngài, chúng tôi, nhân dịp này xin mượn lời của đức trời Đế Thích để
chiêm bái Ngài:
“Namotassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa”
Thưa quý ông quý bà.
Phật Gotama, là một đức Phật đã ra đời
tại xứ Ấn Độ, dấu tích đã còn; bằng chứng là Ngọc Xá Lợi mà chúng ta đã cung
nghinh trọng thể, 5 ngày trước đây. Chúng ta chớ nên lầm lộn, mà cho Ngài là
một nhân vật thần thoại, khi thì biến hóa ông ra Phật này, khi thì hiện ra ông
Phật khác.
Phật Gotama, là một người như chúng ta,
và nhờ tu hành nhiều kiếp, mà Ngài tiến hóa đến mức cùng tột trong sự tiến hóa
của loài người, gọi là Bậc Toàn Giác, đến trình độ ấy, Ngài không còn bị luật
sanh tử luân hồi chi phối nữa, nên gọi là Phật. Hết sanh tử luân hồi, tất là
Ngài không còn biến hoá, thị hiện trong thế gian nữa, nên gọi tịch diệt.
Đó là sự thật, là chơn lý. Nếu còn vịnh theo các pháp
thần thông của Ngài, mà tin rằng Ngài còn thị hiện trong thế gian là trái với
chơn lý. Bởi một khi giải thoát khỏi vòng sanh tử rồi, mà còn tái sanh trở lại,
là một việc không thể có được. Chúng ta chớ tưởng lầm rằng Phật Gotama, vì lòng
từ bi, mà phải thị hiện giữa tín đồ để cứu vớt họ. Hẳn thật, Ngài đã có lòng từ
bi không bờ bến, từ vô lượng kiếp, trong khi Ngài còn luân chuyển như chúng ta,
trong cảnh tương đối. Khi Ngài tiến đến chỗ tuyệt đối rồi, thì dầu ta có đem
thuyết nào ra trưng bày nói Ngài như thế này thế nọ, đã không lợi ích cho chúng
ta, mà trái lại, còn gieo mối hoài nghi trong tâm trí.
Khi tịch diệt rồi, Phật chẳng gia hộ mà
cũng không còn độ ai nữa. Giáo pháp của Ngài để lại cho chúng ta hành theo, ấy
là phương pháp độ chúng ta một cách gián tiếp.
Lúc Phật Gotama còn tại thế, Ngài hướng
dẫn chúng sanh đi theo con đường của Ngài, ai nghe lời Ngài chỉ dạy, người ấy
tự tu tự độ. Thật ra, Ngài chẳng bao giờ nắm tay ai để đưa đến chỗ yên vui
tuyệt đối.
Vì sự biến chuyển trong lịch sử Phật
giáo, nên có nhiều thuyết đưa ra, làm cho chúng ta hoang mang; kẻ tin như thế
này, người tin theo thế khác.
Hơn nữa chúng ta không có dịp khảo cứu
Kinh điển cổ truyền nên chúng ta chúng ta tin tưởng một cách mô hồ. Chúng ta
dốt cho đến đỗi không biết rõ rệt sự tích của Xá Lợi ra thế nào. Nếu không nhờ
các nhà sư tham cứu Kinh điển và chỉ dạy cho chúng ta, thì chúng ta nào có biết
giá trị của Xá Lợi ra sao?
Tiện đây tôi xin lược thuật một đoạn
trong Kinh “Niết Bàn” để hiến cho quý ông quý bà đôi chút tài liệu về sử tích
Xá Lợi.
Ngày kia đức Thế Tôn cùng chư Thinh Văn
đến xứ Pava, vì trời tối nên tạm ngủ trong vườn xoài của con một người thợ bạc
tên là Cunda.
Khi hay tin có Phật ngự trong vườn mình,
chàng Cunda đến yết kiến Phật. Nhân dịp ấy, Đức Thế Tôn giảng giải cho chàng
hiểu thấu nghiệp quả và khuyên dạy lánh dữ làm lành.
Sáng ngày Cunda thỉnh Phật, và chư Tăng
đến nhà thọ thực.
Bữa cơm này là bữa cơm cuối cùng. Thân
già, đi bộ ròng rã xứ này qua xứ nọ, tránh sao cho khỏi lao thân, mệt xác, nên
khi thọ thực xong Ngài thấy trong mình phát sanh bệnh liết lỵ. Ngài gắng gượng
lên đường qua xứ Kusinara. Giữa đường bịnh càng thêm nặng Ngài tạm nghỉ dưới
cội cây, biểu ông Ananda xuống khe múc nước cho Ngài dùng đỡ khát. Ông Ananda
đi rồi trở lại bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, dưới suối nước rất ít, lại thêm
vừa có 500 cỗ xe thương mại đi qua làm nước nổi cặn bùn không thể uống được.”
Như Lai khát nhiều (không thể chờ đợi)
Ananda cứ đi múc đi cho Như Lai dùng.
Đỡ khát rồi, Đức Thế Tôn gắng gượng lên
đường, đến chiều tối tới xứ Kusinara. Thầy trò vào tạm nghỉ trong rừng SaLa.
Đức Thế Tôn kêu ông Ananda nói rằng: Này
Ananda! Như Lai đã mệt nhọc lắm rồi, vậy ngươi mau trải y giữa khoảng hai cây
đại thọ này cho Như Lai yên nghỉ và nội trong đêm nay Như Lai sẽ nhập diệt tại
đây. Vậy ngươi kíp vào hoàng thành tâu cho vua Malla hay tự sự, để sau vua khỏi
phiền trách và hối tiếc không được yết kiến Như Lai trong giờ phút cuối cùng.
Ông Ananda vội vã vào đền, gặp lúc vua
và hoàng tộc cùng bá quan đương hội yến đông vầy. Ông Ananda xin vào chầu vua
Malla và tâu rằng: “Bần Tăng vâng lệnh Đức Thế Tôn đến báo cho bệ hạ rõ rằng:
Ngài vừa ngự đến rừng Sa La, và định nhập Niết Bàn tại đó, nội trong đêm nay
vào canh chót.”
Khi nghe được tin ấy vua và triều thần
đều cảm xúc: Phật Gotama là dòng vua, sang cả, vì thương xót chúng ta, băng
rừng nước bụi chẳng nài lao khổ, cam chịu bỏ xác giữa rừng, thật đáng cho chúng
ta lễ bái cúng dường. Cả vua và triều thần đồng rơi lệ và đồng nhau đến rừng Sa
La xin vào yết kiến Đức Thế Tôn, để tỏ lời hối tiếc. Đức Phật dùng lời kim ngôn
mỹ từ khuyên nhủ vua Malla và bá quan trong đường tu tập, lấy đạo đức cùng lòng
từ bi mà dìu dắt dân chúng đi đến nơi an vui hạnh phúc.
Cả vua chúa và triều thần lẳng lặng nghe
pháp đến cuối canh đầu mới lui gót ra về với một tấm lòng cảm mến và ủ ê.
Tới phiên vị đạo sĩ tên Subhadda đến yêu
cầu ra mắt Phật Đà. Vì thấy Đức Thế Tôn không được khoẻ, ông Ananda không cho
đạo sĩ Subhadda vào. Nghe lời yêu cầu bên ngoài, Đức Phật hay được, bảo ông
Ananda cho đạo sĩ vào.
Ông Subhadda vào đảnh lễ và vấn an Đức
Phật rồi, xin hỏi đạo. Phật vui lòng nhận lời, mặc dầu Ngài đã mệt gần đuối
sức.
“Bạch đức Thế Tôn: Ngoài giáo pháp của
Đức Thế Tôn, còn có Lục Sư ngoại đạo rất đông tín đồ, và họ tự cho là bậc cao
thượng, chẳng hay các Lục Sư ấy cao thượng đến bậc nào?”
“Subhadda này! Điều ấy chẳng lên tìm
hiểu làm chi. Nếu ngươi muốn biết đạo của Như Lai như thế nào, Như Lai sẵn lòng
giải thích cho ngươi nghe”.
Subhadda vâng lời cung kính lắng nghe
Phật thuyết: “Subhadda này! Đạo là con đường có tám chi, rất quý báu đưa người
đến nơi tận diệt phiền não. Trong Tôn giáo nào không có con đường tám chi ấy,
thì Sa môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư, (đây chỉ là hàng Tứ Thánh) chẳng
có trong Tôn giáo ấy. Subhadda này! nếu có người hành đúng theo giáo pháp của
Như Lai, thì trong cõi đời này vẫn còn có bậc A La Hán.”
“Subhadda này! Kinh luật của Như Lai là
phương pháp đem chúng sanh ra khỏi khổ. Vừa 29 tuổi, Như Lai đã xuất gia để tìm
thiện pháp; Như Lai đã xuất gia được 51 năm rồi. Ngoài đạo của Như Lai, chẳng
có vị Sa môn nào siêu xuất thế gian”.
Đức Thế Tôn chỉ dạy đạo sĩ Subhadda rất
nhiều, nhưng đây xin tóm tắt bấy nhiêu.
Ông Subhadda nghe được pháp, xin xuất
gia đầu Phật liền khi ấy, và nhờ đức Phật khai sáng cho, lại thêm duyên lành
sẵn có nên hành thiền trong giây lát đắc đạo quả A La Hán. Đây là đệ tử chót
của Phật, có tên là Pacchimasàva, nghĩa là người gặp đức Phật sau chót.
Đức Thế Tôn kêu các Thầy Tỳ Kheo lại gần
hỏi rằng: “Các đệ tử có điều nào còn nghi ngờ trong Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng
Bảo, trong đạo quả, hoặc trong sự hành đạo, các Thầy cứ hỏi đi!” Đức Thế Tôn
hỏi đến 3 lượt, mà các Thầy vẫn làm thinh, tỏ ý không nghi ngờ điều chi, bởi
trong 500 vị Thinh văn theo hầu Phật, những vị có đặc ân nhỏ hơn hết là bậc đã
đắc đạo quả Tu Đà Hoàn, các Ngài toàn là Thánh Tăng cả thảy.
Hỏi rồi đức Thế Tôn dạy lời di giáo tối
hậu:
“Này chư vị Tỳ Kheo! Như Lai xin nhắc
các Thầy nên ghi nhớ rằng: “Các pháp hành, có sanh phải có diệt”. Các Thầy nên
tinh tấn tự tìm sự lợi ích cho mình, nhất là cố gắng thực hành các pháp cao
thượng chẳng nên dễ duôi”.
Đức Thế Tôn gom tất cả lời giáo huấn
trong 45 năm vào một câu là “không nên dễ duôi” để nhắc nhở các môn đệ đừng dãi
đãi trên đường tự tu tự độ.
Từ đó trở đi Đức Thế Tôn không còn nói
câu gì nữa. Lấy Niết bàn làm đề mục, Ngài nhập định trong các sắc thiền, hữu
sắc, vô sắc, và diệt thọ tưởng định.
Lúc ấy, có ông Anuruddha là bậc làu
thông thiền định, làm người báo tin cho chư Thinh văn, Ngài cũng nhập định theo
dõi đức Thế Tôn, rồi xả thiền cho các đạo hữu biết Tôn Sư mình đang nhập định
trong thiền nào, và sang qua thiền nào. Ông Ananda chực sẵn kế bên hỏi hoài:
“Bạch Sư huynh, vậy chớ Đức Thế Tôn nhập diệt chưa?” Đại Đức Anuruddha vào
thiền, ra thiền từ chập để trả lời cho ông Ananda.
Trời vừa rạng đông, quả địa cầu rung
động, báo điềm Phật Tổ Gotama đã nhập vô lượng thọ Niết bàn.
Trời Phạm Thiên Sahampati cất tiếng ngâm
câu kệ động tâm như vầy: “Đức Thế Tôn là Đấng Trọn Lành, có đặc ân cao dày, tự
ngộ đạo quả vô thượng bồ đề, mà thân Ngài cũng không tránh khỏi quyền chi phối
của luật vô thường sanh diệt”.
“Hỡi ôi! Định luật thiên nhiên nó như
thế ấy, thì tất cả chúng sanh không sót giống nào, lần lượt nối tiếp nhau bỏ
xác lại thế gian”.
“Ta còn yêu mến chi cái kiếp phù sanh
giả tạm này?”
Trời Đế Thích tiếp ngâm câu kệ động tâm
như vầy: “Ô hô! Các pháp hành thật không bền vững, sanh rồi diệt, diệt rồi
sanh, chỉ có sự dập tắt pháp hành, thì danh sắc, ngũ uẩn mới không sanh ra
được”.
Đại Đức Anuruddha và Ananda thay phiên
nhau thuyết về pháp động tâm, làm cho ai ai cũng chán nản các pháp hữu vi, là
pháp sanh diệt chia lìa, đau khổ triền miên. Ai ai cũng nguyện tinh tấn thực
hành theo giáo pháp của đức Thế Tôn để lại, hầu mong có ngày ra khỏi vòng cương
tỏa của luật vô thường hầu siêu sanh về cõi an vui tuyệt đối là Niết bàn.
Sáng ngày đại đức Anuruddha sai ông Ananda
vào đền báo tin cho vua Kusinara hay tin đức Phật đã nhập Niết Bàn rồi. Đến nơi
ấy thấy vua và triều thần hội nhau bàn tán về ngày cuối cùng của vị Chánh Đẳng
Chánh Giác, quên lo tới việc triều chánh. Khi hay tin Phật diệt độ cả vua chúa
quần thần đều chan hòa giọt lệ, mến tiếc và ca tụng ân đức của Đấng Trọn Lành.
Đức vua liền hạ chiếu chỉ cho triều thần
và các lớp dân chúng trong xứ Kusinara, đem bông hoa, nước thơm, nhạc lễ đến
rừng Salavana, và dạy nội ngày ấy cất rạp cho rồi để thiết đại lễ cúng dường
Phật tổ.
Công việc tẩm liệm thi hài của đức Thế
Tôn, vua làm y theo lời chỉ bảo của Đại Đức Ananda: lấy 1000 cây lụa trắng bao
bọc Thánh Thể, ướp đủ các thứ nước hương thơm để vào hòm vàng.
Toàn xứ Kusinara thiết lễ long trọng
cúng dường đức Phật: cuộc lễ kéo dài đến 6 ngày đêm. Qua ngày thứ bảy là ngày
đức vua định hành lễ hỏa táng. Đúng giờ phát hành, 8 vị lực sĩ của vua, sắc
phục chỉnh tề vào động quan, khiêng hòm vào cửa hướng Bắc thành Kusinara, và
sau khi đi cùng khắp thành phố, trở ra cửa hướng Đông thẳng đến Tháp
Makutabandhana Cetiya là nơi làm lễ Trà tỳ.
Trong khi ấy, từ không trung rớt xuống
những bông mạn thù sa cùng khắp thành Kusinara, mùi thơm bát ngát. Dưới đất âm
nhạc rền trời.
Khi thỉnh hòm để trên hỏa đài rồi, có 4
vị quốc sư của vua từ 4 hướng cung kỉnh đem lửa mồi châm vào 4 góc. Lửa không
cháy. Vua Malla kinh sợ đến bạch hỏi Đại Đức Anuruddha. Ngài trả lời: “Nên hưỡn
lại một chút, chờ đại đức Ca Diếp sắp đến trong giây lát ”.
Một chập sau, đại đức Maha Ca Diếp dẫn
500 đồ đệ đi ngay lại hỏa đài, khoác áo vai trái, chấp tay lễ bái, rồi đi quanh
hòm vàng ba lượt, lại đứng ngay sau hòm cúi đầu lạy dưới chân đức Thế Tôn, 500
vị Tỳ kheo cũng tiếp làm theo y như thế.
Đại đức Maha Ca Diếp và chư Tăng làm lễ
vừa xong thì lửa bốc cháy rầm rộ, chẳng bao lâu xong cuộc lễ Trà tỳ.
Vua Malla đem nước thơm lại tưới trên
hỏa đài, và thỉnh Xá Lợi về hoàng thành, thiết đại lễ cúng dường.
Xá Lợi gồm có bảy miếng lớn thuộc về
xương trán, xương vai và răng nhọn và những xương nhỏ bằng hột đậu xanh, hột gạo
và hột cải. Cân cả thảy được 16 cân.
Một mặt khác, Vua Malla hạ lệnh cho tu
bổ hào lũy chung quanh đền, tập dượt binh mã và canh phòng nghiêm ngặt, để ngừa
các nước lân bang đến chiếm đoạt Xá Lợi.
Hẳn thật như lời tiên đoán của Vua
Malla, các nước kế cận lần lượt gởi binh mã và Sứ thần đến xin chia Xá Lợi:
Cả thảy 7 đại diện của 7 vua:
Vua Ajatasatru (A Xà Thế) xứ Magadha;
Vua Sakya (dòng Thích Ca) xứ Sakka;
Vua Licchavi xứ Vesali;
Vua Thùliya xứ Allakappa;
Vua Koliya xứ Ràmagàma;
Vua Mall xứ Pàvà;
Và vị Bà La Môn Mahàbrahma, thủ lĩnh xứ
Veddhadipaka.
Bảy vị Sứ này đến yết kiến vua Malla xứ
Kusinara tỏ rằng:
“Chúng tôi hay tin đức Thế Tôn đã nhập
Niết bàn trong xứ của Đại vương; vì đức giáo chủ Gotama là vị pháp vương cao
thượng, chúng tôi đây cũng thuộc dòng cao thượng, nên đến xin đại vương chia
cho một phần Xá Lợi để đem về lập đền thờ cúng, chiêm ngưỡng hằng ngày; mong
đại vương nhận lời”.
Bảy Sứ thần, bề ngoài tỏ ý khiêm tốn,
nhưng trong đã cương quyết bố trí binh mã ngoài thành, chờ coi vua Malla định
đoạt thế nào.
Vua Malla nhất định bát lời yêu cầu của
các Sứ thần; nhưng các vị này không nản chí, cứ nài nỉ xin chia mãi.
(Hàng trí thức nên hiểu rằng đức Phật
định nhập diệt tại Kusinara là xứ nhỏ, không đủ lực lượng tranh đấu, có lẽ để
ngừa xung đột về sau, do sự phân chia Xá Lợi với các cường quốc lân bang; nên
khi đại đức Ananda yêu cầu Phật đến một trong các cường quốc để nhập diệt, Ngài
không chịu nhận lời).
Về phần vua Malla, trước sự nhẫn nại và
cương quyết của các Sứ thần, Ngài suy nghĩ: xứ mình yếu kém, không đủ hùng binh
ngăn chống, vả lại đức Thế Tôn là bậc thông hiểu quá khứ, hiện tại, vị lai, mỗi
hành vi của Ngài đều đem lại lợi ích lâu dài cho chúng sanh. Ngài nhập Niết bàn
tại xứ ta, ban bố Xá Lợi cho ta, để lại hạnh phúc cho ta, nhưng Xá Lợi này
không bền vững lâu dài, và không bằng sự phụng hành giáo lý của Phật để lại hầu
tránh khỏi sự giết hại lẫn nhau. Không lẽ các cường quốc này lại muốn khai
chiến với ta. Nghĩ như vậy, Vua Malla càng có đức tin mạnh nơi oai lực của
Phật, một mặt tỏ ý cương quyết không chia Xá Lợi, một mặt tinh tấn làm lễ cúng
dường Xá Lợi để ngăn ngừa tai hại cho xứ Kusinara.
Các Sứ thần cũng chẳng chịu nhượng bộ
quyết khai chiến với vua Malla.
Khi ấy có vị Bà La Môn tên Dona, là quốc
sư của vua Malla, là bậc trí tuệ và nhiều kinh nghiệm, xin đứng ra làm tài phán
phân giải đôi bên. Ông Dona nói rằng: “Thưa các Ngài! Chúng ta nên hiểu rằng
đức Bổn sư chẳng phải là quyến thuộc của chúng ta, chúng ta muốn có Xá Lợi,
chẳng qua là chúng ta đã công nhận đức Thế Tôn là một vị giáo chủ. Chúng ta có
lòng ái mộ, muốn phụng thờ và hành theo chánh giáo của Ngài. Nếu vì sự sùng bái
Ngài, mà khai chiến với nhau, là một việc không phải lẽ, mà làm mất sự thân
thiện lẫn nhau. Vả lại đức Thế Tôn xưa kia chẳng hề dạy chúng ta gây chiến cùng
nhau; trái lại Ngài hằng khuyên chúng ta nhẫn nại, từ bi hoà hợp, dứt bỏ điều
oan kết và sự giết hại lẫn nhau.
Lại nữa, khi đức Thế Tôn còn tại thế,
các tín đồ hằng được gặp, được thấy, được cúng dường Ngài cùng khắp mọi nơi.
Giờ đây đức Thế Tôn nhập diệt rồi, Xá Lợi được phân chia trong các xứ, tiện bề
cho tín đồ bốn phương chiêm ngưỡng, lễ bái hằng ngày; thì đại chúng lấy làm hân
hạnh biết bao! Hiện giờ các xứ lân bang lớn nhỏ đều có đại diện nơi đây, nếu
chúng ta đem Xá Lợi ra chia nhau mỗi xứ mỗi phần bằng nhau, thì tình thân thiện
giữa các quốc vương càng kết chặt, thì ai ai cũng vui mừng tránh khỏi tai hại
tàn khốc của chiến tranh. Các Xá Lợi được đem về thờ cúng cùng nơi khắp chốn,
người người phát tâm trong sạch nơi Phật bảo và hành theo Kinh Luật di truyền,
xa lánh các điều ác, tạo thêm các nghiệp lành, thì kết quả của sự nhẫn nại và
hòa thuận hôm nay là được đoàn kết giữa các lân bang, để cùng nhau tiến bước
trên đường giác ngộ, diệt tận những mối thù oán, giết hại lẫn nhau. Như thế ấy,
chúng ta mới tỏ ra là người có đủ cách làm đệ tử của đức giáo chủ Gotama.”
Vua Malla và các Sứ thần công nhận lời
phân giải của ông Dona, đồng lòng giao cho ông lãnh trách nhiệm phân chia Xá
Lợi cho các xứ. Ông Dona dùng một cây cân bằng vàng cân tám phần Xá Lợi bằng
nhau, giao cho đại diện các xứ, luôn cả phần của vua Malla. Rồi ông xin cây cân
vàng về phần ông để làm kỷ niệm. Ông được như ý nguyện.
Sau khi chia Xá Lợi xong, có dòng Moriya
tại xứ Pipphali phái người đến xin lãnh một phần. Vua Malla lấy làm tiếc và cho
hay rằng Xá Lợi đã được chia ra đều đủ cho các lân bang rồi; và cho Sứ thần một
mớ tro đem về thờ thay thế cho Xá Lợi.
Các Xá Lợi được chia ra đồng đều cho tám
nước; mỗi kinh thành mỗi lập đền thờ long trọng để cho vua chúa quan dân đến
chiêm bái cúng dường.
Sau lại có nhiều nguyên nhân làm cho
Phật giáo suy đồi, như sự chia rẻ Tăng đồ ra hai phái Đại thừa và Tiểu thừa,
nạn chiến tranh và sự phục hưng của đạo Bà La Môn, nên các Tháp Xá Lợi bị bỏ
hoang hư lụn.
Thuở Phật pháp được 218 năm, có vua A
Dục ra đời đánh Nam dẹp Bắc, mở rộng giang sơn, lại có đức tin trong Phật giáo,
nên tạo ra cùng nơi khắp chốn 84.000 Tháp thờ, lấy các Xá Lợi trong tám Tháp
đầu tiên chia ra để thờ trong các Tháp mới; và dựng bia đá làm dấu tích bốn chỗ
Động Tâm là: rừng Lumbini, nơi Phật giáng sanh; Buddha Gaya, chỗ Phật hành đạo;
rừng Isipattana (Lộc Giả) là nơi Phật chuyển Pháp luân; và vườn Kusinara, chỗ
Phật nhập Niết bàn.
Ngoài ra, vua A Dục còn dựng thêm bia đá
ở nơi các ngã ba đường và khắc những Phật ngôn cùng lời ca tụng ân đức của đức
Phật để khuyến khích dân chúng tôn sùng đức Phật.
Vua A Dục còn phái chư Tăng đi truyền bá
đạo Phật ra các nước lân cận; và đem giống Bồ Đề cùng Xá Lợi qua tận đảo Tích
Lan. Nhờ vậy mà hiện giờ đảo Tích lan trở thành trung tâm Phật giáo.
Sử tích của Xá Lợi trong thời kỳ thượng
cổ như thế ấy.
Sau thời kỳ A Dục, dân Ấn Độ trở lại
theo đạo Bà La Môn, phế bỏ các Tháp thờ Xá Lợi. Có chỗ đạo Bà La Môn chiếm cứ,
như đền thờ tại Buddha Gaya (chỗ Phật thành đạo) và sửa tượng Phật lại làm
tượng Bà La Ma (Brahma) lợi dụng chỗ thập phương đến chiêm bái, hưởng lấy tài
lợi rất nhiều.
Đến thời kỳ nước Anh đô hộ, nhiều Tháp
bị các nhà khảo cổ bươi móc, đem những Xá Lợi về chưng trong Tàng cổ viện xứ
Anh, như Xá Lợi của đức Xá Lợi Phất và đức Mục Kiền Liên mà xứ Ấn Độ mới vừa
đòi lại, sau khi được giải phóng.
Hiện giờ hội Maha Boddhi (Đại Bồ Đề)
đương lo trùng tu các Tháp và các Chùa Phật lại.
Với các sự thay đổi trong xã hội Ấn Độ,
và với những sự biến chuyển trong lịch sử Phật giáo, hiện giờ chúng ta không thể
biết được rõ rệt các Xá Lợi của đức Phật còn mất thế nào và chia sớt nơi đâu.
Vả lại theo lời của vua Malla, các Xá
Lợi cũng không tránh khỏi luật vô thường chi phối; chỉ có sự thực hành theo
giáo pháp của đức Thế Tôn di truyền là điều cần thiết. Vậy chúng ta nên cố gắng
tu học mãi mãi cho đến ngày giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi đến nơi vô
sanh bất diệt là đại Niết bàn.
Đọc tại Kỳ Viên Tự ngày 30 tháng 7 Nhâm
Thìn (1952)