Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên .
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
dạ bán,chung thanh đáo khách thuyền .
Tạm dịch
Trăng lặn, quạ kêu, sương kín trời,
Lửa chài, cây bến trước buồn ngơi.
Hàn San chùa cổ ngoài Cô phủ,
Khuya khoắt chuông vang vọng tới người.
Là một thi sĩ, tâm hồn nhạy cảm với nhân
thế, đất trời, Trương Kế đã dùng những con chữ ghi lại khoảnh khắc
thực tại mà ông đang sống, ông đã đóng khung được không gian và bắt thời
gian đứng lại trong bốn câu thơ, để mãi muôn sau, những ai đồng cảm
với ông khi chạm đến bài thơ này thì vẫn thấy không gian, thời gian ấy
vẫn như chưa từng thay đổi. Vẫn bến Phong Kiều mịt mờ sương phủ với
hàng phong đứng ngó trăng tàn, vẫn tiếng quạ kêu trong sớm tinh sương,
vẫn thấp thoáng xa xa ánh đèn chài thuở nọ, cũng vẫn là người lữ khách
trên con đò nhỏ, chợt tròng trành vì tiếng chuông khuya. Đó là cái tài
của nhà thơ. Nhưng cho dù thi nhân viết hay đến mấy chăng nữa, thì
điều tiên quyết vẫn là những gì nhà thơ mô tả phải phản ảnh thực tại
một cách trung thực. Trong bài thơ này ta thấy cái không gian mà nhà
thơ ghi lại hết sức chân thật.
Nằm trong thuyền nhìn ra, trên không,
phía xa kia con trăng đã từng thức với ông suốt đêm qua giờ đã đi ngủ,
gần hơn trên trời mù mịt, còn dưới đất, bên kia bờ sông tiếng quạ kêu
sương trong những hàng phong cùng ánh đèn chài thấp thoáng dưới sông,
xa ngoài là thành Cô Tô nơi có Hàn San danh tự. Trong cái khung cảnh êm
đềm, tịch mịch giữa đêm khuya ấy, một tiếng chuông ngân như níu lại
thời gian. Như vậy, những khoảng cách xa, gần, trên, dưới của không
gian và thời gian lúc ấy đều được nhà thơ ghi lại một cách thơ mộng
nhưng hết sức trung thực. Cũng chính vì vậy nó mới dễ dàng tạo ra sự
rung cảm đối với người thưởng thức thơ ông.
Trong không gian, thời gian ấy, đối
diện với đêm khuya là một tâm hồn chở nặng những ưu tư, có lẽ năm tháng
đã lên men làm say lòng thi sĩ, hay sự đời nghiệt ngã đã ray rứt ông
suốt đêm qua. Không biết nữa! có người nói ông buồn tại vì lửa chài,
cây bến, có người bảo bởi tiếng quạ kêu sương, cho dù tại gì chăng
nữa, thì thi nhân cũng đã thức suốt đêm rồi. Ông chẳng nói rằng đêm
qua tôi thức suốt, ông chỉ nói trăng đã lặn rồi sao mọi thứ vẫn cứ rõ
ràng trước mặt. Làm sao mà ngủ được khi đôi mắt còn nhận biết trăng tàn,
vẫn còn thấy đầy trời mù mịt sương giăng, còn trước mặt lửa chài, cây
bến, mắt đã thế mà tai lại còn nghe tiếng ồn ào của lũ quạ, ý ruổi rong
tới tận chùa Hàn San ngoài thành Cô Tô nơi vừa có tiếng chuông vọng
giữa đêm trường, những cánh cửa đi vào tâm hồn ông chưa từng khép lại
đêm qua, thì làm sao mà vùi vào giấc ngủ. Ông không nói nhưng lửa chài,
cây bến đã nói. Ông không than nhưng tiếng chuông chùa đã than hộ giùm
ông. Ôi ! ông thật tài tình khi nhốt cả biết bao ưu tư vao trong một
vài con chữ !
Tuy nhiên nói như thế vẫn còn chưa đủ,
cái tài của ông còn thể hiện trong cách mà ông che dấu nỗi niềm. Đọc bài
thơ ông, ai cũng nghĩ sao mà cảnh đêm êm đềm quá vậy, buồn như thế thì
làm sao mà ngủ, nhất là với ông, một thi nhân, dường như ai cũng xót
xa vì sao mà tâm hồn ông nhạy cảm đến thế. Có thể đêm ấy lòng ông rối
bời những ưu tư sầu muộn, nhưng không phải cái sầu muộn của lửa chài
cây bến mà phải là một nỗi ưu tư về một cái gì đó lớn lao hơn. Ta có
thể khẳng định được điều đó, bởi vì ông đã bắt đầu bài thơ của mình
bằng ba ngữ danh từ chứa đựng ba câu hoàn chỉnh trong một câu, ông đã
dồn nén cảm xúc của ông ở mức tối đa, nhưng cõi lòng ông vẫn còn đó. Ba
động từ mà ông dùng liên tiếp: lạc = lặn (nguyệt lạc) đề = kêu (ô đề)
mãn = phủ đầy (sương mãn thiên) đã lộ ra một tâm hồn sống động, có một
cái gì đó hết sức mạnh mẽ, dữ dội đã xảy ra trong ông đêm qua, nó mạnh
mẽ đến nỗi trời sắp sáng rồi mà chúng cứ như vẫn còn đứng trước mặt
(đối) chẳng muốn rời xa.
Ông đã chứng kiến thời gian tàn trước
mặt, (nguyệt lạc) để cho đời lại bắt đầu(ô đề)trong cõi mông lung(sương
mãn thiên).Vẫn còn ai đứng đó đợi trông,(giang phong) chờ một chút lửa
nồng hy vọng(ngư hoả). Ông nghĩ gần rồi lại nghĩ xa, (Cô Tô thành ngoại
Hàn San tự) nhưng thời gian bảo với ông rằng nó không bao giờ dừng
lại.(dạ bán, chung thanh) ông cô đơn trong đêm trường khắc khoải, cuộc
đời ông như một chiếc thuyền nan (đáo khách thuyền). Ong bắt đầu bài
thơ với sự suy tàn và kết thúc bằng tiếng chuông cảnh tỉnh, ông đã bắt
đầu bài thơ bằng ba tiếng trống, thì ông lại kết thúc bằng chừng ấy
tiếng chuông (ba động từ : bán, thanh, đáo). Tâm hồn ông như vó ngựa
giữa đêm trường, sao lại bảo ông buồn. Không ! phải có một cái gì hơn
thế, nhưng nó là gì thì chỉ ông biết mình ông.
Ông Trương Kế tài tình là thế! tinh tế
là thế! Chỉ với 28 con chữ, ông đã đem hết không gian, thời gian cùng
với nỗi niềm nhốt vào trong đó, ông đã dùng cái tỉnh của đêm khuya để
che dấu cái động của lòng mình, ông không dùng nghĩa thật của ngôn từ để
phơi trải tim gan, mà ông chỉ dùng giai điệu của nó để biểu lộ hồn
mình trên ấy. Hơn thế nữa, ông còn để lại đằng sau những ngôn từ một
cánh cửa dành cho những ai đồng cảm với với ông, vào một đêm khuya nào
đó tự tìm thấy ông trong thao thức của chính mình. Bài thơ ông viết đã
hơn 1000 năm, mà bút pháp vô cùng hiện đại. Thế mới biết vì sao bài
thơ này là một kiệt tác của ông cũng như thời đại mà ông đã sống./.
http://www.daophatngaynay.com/vn/van-hoc/tuy-but/5801-VE-BEN-PHONG-KIEU-THAM-TRUONG-KE.html