cứ tưởng mình đang giữa chốn đồng quê, bên mái
tranh nghèo của tôi ngày xưa vậy. Sự vắng vẻ hòa quyện giữa ngoại cảnh
và tâm hồn khiến lòng tôi cảm thấy nao nao khó tả. Đâu đó lại hiện về
những câu thơ của Tuệ Sỹ, nhẹ đưa trong hồn tôi như ngọn gió đêm khuya
thổi qua rèm cửa.
(Thầy Tuệ Sỹ)
Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Tôi sẽ kể cho đêm khuya những chuyện đời mà tôi đã trải qua. Những
buồn vui cuộc sống, những năm tháng thăng trầm, những quãng đời dại khờ
nông nổi, những tư duy mộc mạc đơn thuần…chẳng biết đêm tàn có hiểu cho
lòng ta?!
Nói đến đây tôi lại nhớ những lời bình của Bùi Giáng về thơ Tuệ Sỹ:
“Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông
về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ,
không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u…. Một
bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông :
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị
với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng
nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết :
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có
vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Ở Một bài thơ
“Không đề” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ :
Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.”
Trên cuộc đời này có mấy ai để Bùi Giáng nể phục chứ! Thế mà Tuệ Sỹ
đã trở thành thần tượng của Bùi Giáng. Cái nể phục của Bùi Giáng đối với
Tuệ Sỹ không phải vì khả năng viết thơ, không phải vì ý tứ trong thơ,
vì điều này Bùi Giáng còn giỏi hơn Tuệ Sỹ. Thế thì lão “bán dùi” nể phục
Tuệ Sỹ ở điểm nào? Đó là cái “thiền vị” trong thơ của Tuệ Sỹ. Một câu
thơ của Tuệ Sỹ đều toát lên những ý tứ phi phàm, đọc lên mỗi câu thơ
chúng ta đều thấy cái cảm giác rờn rợn. Cái bao la trong thơ Tuệ Sỹ gói
gọn cả thế giới vô thường. Sự chuyển biến của vạn vật là những khúc trầm
ca để Tuệ Sỹ hát lên từ chân không vô tận.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Và chẳng ai hiểu hết Tuệ Sỹ như Bùi Giáng, hãy nghe họ Bùi tán dương:
“Tôi hoảng vía đề nghị : Ðại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ
tiếp nhiều cho, Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá
lớn.
Ông đáp : – Ðể về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.
Ðôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời
Hội cũ
Xin xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì? – Cung trời hội cũ.
Một hội đạp thanh? Một hội nao nức? – “Giờ nao nức của một thời trẻ dại?”.
Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ…
Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Ðầy
đủ hết mọi yếu tố bát ngát : một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ
xao xuyến, một tuổi vàng long lanh…. Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện
tại.
Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần
tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi người đều “phải nói”
với mọi người “muốn nghe” với riêng mình “không thiết chi chuyện nói”.
Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường
đó. Họ nói tất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như
chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho
mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng
nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng phi giống lối vui buồn
của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par
manque de justice interne).
Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ
kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu
nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ
tàn nhẫn thô bạo.
Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du :
“Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm
trọng dụng (… …). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế?”.
Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường
thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như
nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch !
Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu
như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả mộng chạy lang
thang về chân trời hướng khác.
Ðáp : Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
Ðôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Ðôi mắt ướt? Ðôi mắt của ai? Vì sao ướt? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.
Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt
trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân
nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời
hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng?
“Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang”
Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi
nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?
Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ
ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng
trở về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng
biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.
Ðôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ?
Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên
một phút vội vã lại dám làm thân du thủ? Dám gác bỏ kệ kinh? Dám mở cuộc
thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn?
Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh
hoàng vì lời nói thăm thẩm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu
linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió
sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Ta tưởng như nghe ra “cao cách điệu” bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.”
Đi từ hữu hình đến vô hình, từ vô hình đến hữu hình, những câu thơ
của Tuệ Sỹ như làm thức tĩnh những kẻ mê lầm đang ngủ say trong hoan
lạc. Câu chuyện “có một giòng sông đã qua đời” hay “giật mình ôi chiếc
lá thu phai” của Trịnh chính là những minh chứng cụ thể cho những kẻ ngủ
say đó. Để rồi khi ngày tháng phôi phai, năm chầy tiết mãn mới thốt lên
rằng “Cười với nắng một ngày sao chóng thế!”. Đứng bên ngoài sự xoay
vần của trần thế, Thi nhân – Thiền sư đã nhắc nhở chúng nhân rằng:
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Cái này gần giống với Trịnh khi ông ta viết rằng “đi đâu loanh quanh
cho đời mỏi mệt” và ai rồi cũng phải đến lúc “một cõi đi về”.
Tôi chẳng đủ khả năng để phân tích từng câu từng chữ như bác “bán dùi”, đành nhường lời cho lão vậy.
“Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn
bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân
trời xa xuôi đại hải?
Ðỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Ðỉnh đá
quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng
hải hàm của trùng dương. Ðó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại
giữa tuyết nguyệt phiêu du:
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Một tiếng “buồn chăng” lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường :
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi :
Ðếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Ðủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Ði
Quanh
Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ? Một
tuổi xuân chưa vừa? Một tuổi vàng sớm chấm dứt? Một tuổi “đá” sớm từ giã
mọi yêu thương? Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn
Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đềm lữ thư khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Ðường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương”.
Lại những giọt mưa buồn cứ rơi rơi mãi. Đắm mình trong hương vị thiền
của thơ Tuệ Sỹ, tôi muốn mình thấm ướt giọt mưa Hà thành, ngấm sâu cái
nỗi được mất của cuộc đời để rồi đi về nơi ấy bình yên.
Này đêm rộng như khe rừng cửa biển
Hai bàn tay vén lại tóc xa xưa
Miền đất đỏ trăng đã gầy vĩnh viễn
Từ vu vơ trong giấc ngủ mơ hồ
Một lần định như sao ngàn đã định
Lại một lần nông nổi vết sa cơ!
(Bùi Giáng)
Rong chơi một kiếp, Niết bàn về đâu! Sinh không hề tiếc, chết
chẳng u sầu, Pháp thể tròn đầy như vầng “cô nguyệt”. Đi chẳng từ đâu,
đến không nơi về, Chân thân này biến hóa cùng “thái hư” . Rồi cũng trả
lại như Bùi Giáng đã từng trả lại, Thượng đế đâu còn ai nửa kiếp đi
hoang!
Hỡi thượng đế xin cúi đầu trả lại
Linh hồn con đà một kiếp đi hoang!
(Bùi Giáng)
Sưu tầm
từ blog Thisilang thang