Chúng
tôi đặt chân đến Kathmandu vào một ngày nghỉ khá an nhàn, thời khắc
thành phố nằm ở miền Trung Nepal này trông hao hao giống phố phường Hà
Nội những ngày chớm thu. Khí lạnh phả xuống thung lũng từ bốn bề non
cao, khiến Kathmandu vốn trầm mặc mang dáng vẻ như một bông hoa nằm ẩn
mình dưới chân Hy Mã Lạp Sơn. Khách du lịch khi đến đây không thể không
đặt chân tới khu phố Tan-man sầm uất đầy khách nước ngoài với không khí
nhộn nhịp của khu chợ Á Đông, với chút thảo nguyên ngay chốn công cộng
và chút hối hả của thời đại công nghiệp. Những chiếc khăn quàng đầy
màu sắc Ấn, chút nắng vàng của phố núi mùa đông… tất cả tụ lại và bùng
lên tạo một nét đẹp riêng cho Kathmandu.
Cố đô Kathmandu
Dọc
theo những con suối là những dãy cửa hiệu san sát nhau, đồ lưu niệm,
vải vóc treo kín mặt tiệm, tràn cả xuống phố để thiên hạ không thể vô
tình bước qua. Nghệ thuật chạm khắc tượng đồng và đồ lưu niệm, thờ cúng
ở Nepal quả đã đạt đến trình độ siêu đẳng. Những người thợ đúc đồng
xưa kia như đang hồi sinh ngay trên con phố này khiến nhiều du khách cứ
ngẩn ngơ trôi đi trong không gian vừa cổ kính, vừa hiện đại trước sự
pha trộn đầy thú vị giữa sắc màu bản địa và quốc tế. Tại đây, tranh
Thangka, họa phẩm đặc dụng của Phật giáo Tạng truyền, được bày bán khắp
nơi, đều nhắc cho chúng tôi nhớ rằng hai dòng chảy Phật giáo và Ấn giáo
đang cùng tồn tại song hành, tưới lên đời sống người dân Nepal một
suối nguồn đạo hạnh và đức tin. Khách lãng du cứ trôi đi từ phố này
sang phố khác và chỉ có thể thoát ra với lời hẹn sẽ quay lại để cảm
nhận thêm chút nữa về Kathmandu trong cái chậm chạp của một ngày trong
thung lũng, cái hối hả của khách bốn phương cùng những suy tư và khát
vọng hôm nay.
Nơi trú ngụ của của các vị thần Ấn giáo
Từ
thung lũng Kathmandu, bạn có thể ngắm nhìn núi tuyết như một bức tường
thành vĩ đại màu trắng. Kinh đô chìm sâu trong Hy Mã Lạp Sơn này là
kho tàng của biết bao câu chuyện kỳ bí, là thế giới biệt lập của thần
linh cùng những người dân sùng tín và những ngôi đền kỳ lạ. Một trong
những ngôi đền như thế mà chúng tôi tới thăm là nơi thờ vị nữ thần Kali,
một trong những vị thần nổi tiếng nhất của Ấn Độ giáo. Theo thống kế,
hiện nay có khoảng 86% cư dân Nepal theo Ấn giáo, tôn giáo được coi là
lâu đời nhất trong lịch sử nhân loại, và tín ngưỡng này chính là một
phần trong cuộc sống hằng ngày của người Nepal.
Các tu sĩ Ba-La-môn
Theo
quan niệm của Ấn giáo, Kali là một vị ác thần rất thiêng, lại vừa khát
máu, thích hủy diệt lại vừa sẵn sàng ban ơn cứu giúp các tín đồ nên
được mọi người sùng bái. Kali chính là vị nữ thần bảo hộ của thành
Kathmandu. Theo truyền thuyết, bà là một trong những người vợ của thần
hủy diệt Shiva vĩ đại. Ấn Độ giáo có ba vị thần tối thượng, đứng đầu
hàng triệu vị thần khác là Prahma, Vishnu và Shiva. Hình tượng thần Kali
với miệng bà thường hoác ra, lưỡi lè, bông tai là xác những người đàn
ông, chuỗi hạt là những sọ người, trang sức là những con rắn. Không chỉ
có chức năng hủy diệt, nữ thần Kali còn trông coi việc sinh sản, vừa
tàn ác lại vừa hiền hậu. Trong lúc hủy diệt, bà vẫn ban phước và giúp
cho vạn vật sinh sôi, đó chính là hai mặt của một vấn đề là nhân sinh
quan, vũ trụ quan của Ấn giáo.
Trong
khi đó, thần Vishnu sẵn sàng cứu nhân độ thế bảo tồn muôn vật, và cùng
vợ mình là Kali có trọng trách cân bằng lại vạn vật, bảo đảm cho sự
tiến triển không ngừng theo quy luật sinh diệt. Người Ấn giáo quả thật
mơ mộng khi tin vào thuyết luân hồi, nhưng cũng là bậc thầy về óc thực
tế khi biết nhìn thẳng vào luật sinh diệt để chấp nhận những giới hạn
khả năng của con người. Họ không chỉ rung lên những hồi chuông để tôn
vinh các thánh thần, để cầu phúc, cầu an mà còn là để cảnh tỉnh bản
thân và đồng loại rằng cuộc đời con người là rất ngắn cần phải tiến lên
nhưng cũng phải biết dừng lại.
Đặc
điểm kiến trúc đền đài và cung điện ở Nepal là những tòa tháp nhiều
tầng, mái nhỏ dần lên cao trông rất huyền bí và bề thế. Chúng tôi tới
thăm đền thờ thần Radet ở ven bờ một con sông là chi lưu của sông Hằng
trong lòng kinh đô Kathmandu. Trong các ngôi đền thường có một hoặc
nhiều giáo sĩ Bàlamôn ngồi tụng niệm và ban phước. Bạn sẽ phải trả một
số tiền nhỏ tượng trưng để được giáo sĩ chấm lên trán một chấm đỏ may
mắn, hoặc nghe những lời giáo huấn trong kinh sách. Các vị này thuộc
đẳng cấp cao nhất của xã hội, có quyền lực tinh thần rất lớn và thường
là cha truyền con nối, là nền tảng xã hội tín ngưỡng được tôn kính.
Trong
Ấn Độ giáo không chỉ có thần người mà còn có thần động vật, thực vật,
đồ vật… tất cả đều có linh hồn, có uy quyền, trí thức, thần thông và
năng lực rất lớn. Không ai có thể biết hết được các vị thần, kể cả
những giáo chủ, những nhà thông thái. Vì mỗi vị thần đều có nhiều hóa
thân, cứ nối tiếp mãi ra thành vô tận. Tại khu đền Radet có một tảng đá
thờ rất linh nghiệm, có thể cầu xin chữa bệnh. Trên đường hành hương
đến Ấn Độ và Nepal, nói cách khác trên toàn bộ lưu vực rộng lớn của
sông Hằng, chúng tôi đã sa vào một trận đồ bát quái của Ấn Độ giáo, quá
đa dạng và phong phú, độc đáo và li kỳ, càng đi, càng nhận ra tầm cỡ
vĩ đại của nền văn minh sông Hằng.
Lịch sử sơ khai của đất nước Nepal bắt đầu từ thung lũng Kathmandu
mà 200 ngàn năm trước còn là một hồ nước khổng lồ. Tới năm 300, vương
triều Ly-tra-vi đã tạo dựng cái được gọi là kỷ nguyên vàng lần thứ nhất
của Nepal, đồng thời du nhập Ấn giáo và Phật giáo vào vương quốc này.
Rời
thủ đô Katmandu, chúng tôi đến thăm khu vực hoàng thành cũ, nơi tọa
lạc những công trình kiến trúc chủ yếu và lộng lẫy nhất của cố đô
Bharatpur ở vùng hạ Hy Mã. Khi tới các thành phố cổ dù xa lạ với quê
hương đất nước mình, chúng tôi đều thấy bồi hồi, xúc động. Điều huyền bí
nào đã tạo nên trạng thái tâm lí đó? Thật khó trả lời, song có lẽ đó
là thời gian. Thời gian đã làm cho bộ mặt thế giới thay đổi liên tục
tạo nên sự hoài cảm, đã làm cho ta giật mình, sực tỉnh. Thời gian tàn
nhẫn và công bằng, lạnh lùng nhưng ân cần nhắc nhở chúng ta như chính
thần Shiva cùng với tiếng chuông cảnh tỉnh về quy luật sinh diệt của
ngài vậy. Cuộc đời luôn có âm, dương, có sinh diệt, có thiện ác. Thông
điệp đó của Ấn giáo và cả của Phật giáo nữa bay đến mọi góc biển chân
trời, ngay từ những quảng trường, góc phố ở cố đô cổ kính này.
Sự
già nua và tàn tạ biểu hiện đó đây trong nhiều ngõ ngách của kinh
thành. Song Bac-ta-bua không hề có ý nghĩ đầu hàng trước sự công phá của
thời gian và sự lãng quên của thế giới hiện đại. Nó lặng lẽ gặm nhấm
nỗi cô đơn để tồn tại và hiểu rằng những gì còn lại sau quá trình tiến
hóa đều là những giá trị đích thực. Đó là lí do mà trong những năm gần
đây khách vãng lai ngày càng nhiều, chính Hy Mã Lạp Sơn tráng lệ và kinh
thành cổ kính đã làm cho du lịch trở thành một trong những ngành công
nghiệp lớn nhất đất nước Nepal.
Suốt
cuộc hành trình khám phá huyền bí sông Hằng, chúng tôi đã trải qua
không biết bao nhiêu khoảnh khắc bồng bềnh giữa những vẻ đẹp vô tiền
khoáng hậu của thiên nhiên dù đó chỉ là một điểm hừng đông hay lúc
chiều tà. Từng ngợp thở khi nhìn thấy ngọn Everest kiêu sa đầy uy lực,
giờ đây chúng tôi lại thẫn thờ khi đối diện với buổi bình minh trong cái
thanh không gần như tuyệt đối trên một trường núi Nepal. Màn đêm như
được tách ra làm đôi theo vết cắt của dãy núi tạc trên nền trời hé lộ
đường nứt kỳ tuyệt của đỉnh Ranet cao 7.400m. Trong phút chốc mặt trời
xuất hiện, chúng tôi như đứng trước sự biến đổi kỳ tuyệt ngay chân trời.
Trong màn sương mỏng, những đỉnh non cao vẫn mơ màng và cả thung lũng
phía dưới cũng chìm trong giấc ngủ say nồng.
Trên trường núi Nepal, màn đêm như được tách ra làm đôi theo vết cắt
của dãy núi tạc trên nền trời hé lộ đường nứt kỳ tuyệt của đỉnh Ranet
cao 7.400m. Trong phút chốc mặt trời xuất hiện, chúng tôi như đứng
trước sự biến đổi kỳ tuyệt ngay chân trời.
Buổi
sớm mai trong thung lũng chuyển mình chậm. Theo dấu vết của từng tia
nắng trong cái mờ ảo, ảm đạm của khói sương, trong không gian sâu thẳm
và thuần khiết, lòng lữ khách bay bổng như vô tình lạc chân vào cõi mơ
tiên. Khi ngắm nhìn những bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, chúng tôi hiểu
rằng Nepan đang âm thầm thu hút một phần của thế giới hiện đại đến với
mình một cách khôn ngoan và cẩn trọng.
Trở
lại Kathmandu, chúng tôi ghé thăm một công trình tôn giáo có một vị
trí quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của người dân Nepal theo đạo
Phật. Nhìn từ xa, người ta biết ngay đây là tháp của Phật giáo Tạng
truyền. Những tấm vải Ha đạt ngũ sắc bay rợp trời. Đôi mắt Phật đầy minh
triết và uy lực. Âm hưởng của lòng thành kính và mộ đạo vang vọng khắp
nơi.
Đó
là khu đền tháp Buddanat, tức tháp thờ xá lợi của một vị cổ Phật. Theo
người dân Nepal, tháp Buddanat được khởi dựng vào thế kỷ thứ 5 do công
chúa của vua Nepal “năn nỉ” vua cha nhiều lần để được tự mình xây một
cái tháp thờ vị cổ Phật, và sau đó đã thành một thánh địa của Phật tử
xứ Nepal. Nepal là một đất nước sống rất hài hòa giữa Phật giáo và Ấn
giáo, nên rải rác khu di tích, chúng ta có thể thấy được những thánh
tích Phật giáo và Ấn giáo xen lẫn với nhau. Đến năm 1959, người dân
trong vùng đã coi khu đền tháp Buddanat này là một biểu tượng, và là một
linh địa linh thiêng nhất nằm ngoài xứ Nepal và người dân Tây Tạng. Do
vậy, hàng năm người dân Tây Tạng về đây hành hương chiêm bái rất đông.
Khác với các thánh địa Phật giáo trên đất Ấn, các công trình Phật giáo
ở Nepal đều mang đậm dấu ấn Phật giáo mà cái chính là Phật giáo Tạng
truyền.
Chúng
tôi rảo bước một vòng quanh bảo tháp Buddanat với mong muốn có thể cảm
nhận tối đa không khí linh thiêng của một thánh địa Phật giáo Tạng
truyền, và lòng thành kính cùng hướng về chiều sâu tâm linh nơi đây.
Chúng tôi lần sâu thêm vào thung lũng Kathmandu để đến với cố đô Patan
còn cổ kính hơn cả Bharatpur. Thành phố được hình thành vào năm 299 sau
công nguyên. Bên trong cố đô nhỏ bé này có một di sản văn hóa của nhân
loại rất độc đáo mà người ta quen gọi là chùa Đồng, vì nó được làm
bằng đồng. Chùa là một tòa kiến trúc rất bề thế theo kiểu tứ hợp diện,
lấy khoảng sân vuông ở giữa làm trung tâm, với một điện thờ làm tâm
điểm, các công trình khác vây quanh.
Cảm
xúc đầu tiên dạt dào, mạnh mẽ đến với du khách là từ “đồng”, đâu cũng
thấy đồng. Kiến trúc chùa được sử dụng có 3 vật liệu chính là: gỗ, đồng
và gạch nung. Chúng tôi đã từng thấy những ngôi đền Ấn giáo ở Lào và
Campuchia biến thành nơi thờ Phật bởi sự suy vong của Ấn Độ giáo ở
những nước này. Còn ở đây thì ngược lại, Ấn giáo đã lấn dần Phật giáo,
đúng là cuộc sống xoay chiều theo sự hưng vong của thế sự. Chùa Đồng đã
được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Thật sự đây là một
chùa (đền) của Phật giáo, một ngôi chùa Phật giáo chuyên thờ đức Quan
Thế Âm thuộc dòng phái Mật tông, bây giờ đã biến thành một ngôi đền của
Ấn Độ giáo.
Chúng
tôi đã nghe nói Nepal có nghề làm đồng nổi tiếng, nhưng thật không ngờ
nó lại phát triển và tinh xảo đến mức này. Trong ngôi đền này, chúng
ta thấy được tất cả những hóa thân của đức Quan Thế Âm từ 2 tay, 4 tay
cho tới nhiều tay. Ở đây ta thấy có sự biến hóa rất khéo của Ấn Độ
giáo, đó là những bức tượng của nữ thần Tara được các tín đồ cho là sự
hóa thân của đức Quan Thế Âm. Phật giáo và Ấn giáo đã quyện với nhau rất
hài hòa tới mức tín đồ của cả 2 tôn giáo tới đây đều cảm thấy đó là
ngôi nhà của mình. Hiện tượng hòa đồng giữa Ấn giáo và Phật giáo nếu ở
Ấn Độ chưa rõ thì ở Nepan nó đã gây ấn tượng rất mạnh mẽ. Đặc biệt đây
là một ngôi chùa Mật tông, do đó ngay cửa bước vào chúng ta có thể thấy
được chiếc Kim Kang chì, biểu thị cho trí tuệ không có gì phá vỡ được
của Phật giáo Tạng truyền. Tuy đã biến thành một ngôi đền Ấn giáo do tín
đồ Ấn giáo trông coi nhưng những yếu tố của Phật giáo vẫn được bảo
tồn, tôn trọng và giữ một vị trí vượt trội.
Trên quê hương Đức Phật đản sanh
Hiện
Nepal chỉ có 8% dân số theo đạo Phật, trong khi tín đồ Ấn giáo chiếm
tới 86%, nhưng mảnh đất mà Đức Phật đã ra đời này cho chúng tôi một cảm
giác trọn vẹn rằng đây là một miền đất thánh của Phật giáo, rằng giữa
chốn núi rừng thâm u nằm sâu trong Hy Mã Lạp Sơn này, tư tưởng từ bi,
trí tuệ của đạo Phật vẫn âm thầm lan tỏa qua mọi khe núi đỉnh đèo, để
thâm nhập vào cuộc sống nhân gian ở khắp chốn linh thiêng.
Nepal
không phải là một quốc gia Phật giáo nhưng có 3 điểm gắn liền với đạo
Phật làm cho nó nổi tiếng. Thứ nhất là nơi mà Đức Phật đã ra đời, thứ 2
từ đất nước này đạo Phật đã được truyền vào Tây Tạng, và cuối cùng đây
là nơi hành đạo và hiển linh của Bồ tát Văn Thù. Chúng tôi tiếp tục
đến chiêm bái một điểm thiêng của Phật giáo, đó là núi Văn Thù nằm trên
một ngọn đồi cao thuộc vùng Xoa-ya-bo-nat cách thủ đô Kathmandu khoảng
200 km.
Từ
dưới chân lên tới đỉnh núi Văn Thù là con đường dài 360 bậc thang đá,
luồn dưới tán cây rừng rất đẹp. Dọc đường có rất nhiều cụm thăm viếng
thờ cúng, những tượng Phật được chế tác rất công phu và tinh xảo, phần
lớn là bằng đá và bằng đồng, một số mới làm thì bằng xi măng trông rất
bề thế. Theo một truyền thuyết thì trên ngọn đồi này người ta chứa xá
lợi của ngài Ca Diếp trong tháp lớn, nhưng phần lớn lại cho rằng xây
tháp chính là để kỉ niệm sự hiển linh của ngài Văn Thù.
Bạn
có thể mua những cái nến thắp bằng dầu tu này để dâng lễ ở dọc đường
hoặc ở trên đỉnh núi, nơi có quần thể kiến trúc chùa tháp, đền đài lộng
lẫy. Đây là một tập tục rất điển hình của Phật giáo Tạng truyền, vừa
lung linh huyền ảo, lại vừa thiêng liêng. Nhu cầu cúng bái của Phật tử
hành hương rất muôn màu muôn vẻ. Ví dụ, người ta tưới vàng chảy lên
tháp trắng để vẽ hình hoa sen là thực hiện nguyện vọng cúng dường của họ
thông qua sự đóng góp tiền của của mọi người.
Quần
thể kiến trúc tháp Văn Thù được tạo bởi từng phiến gạch, tầng trên
bằng đồng là mô hình kiến trúc chủ yếu của di tích. Tháp được xây dựng
dưới vương triều của vua Victani và sau đó được hoàn thành bởi vương
triều Mala, có nghĩa là từ thế kỉ thứ 8 – 15. Thực tế trên đây, tại đại
điện này, chúng tôi đã thấy được những pho tượng có niên đại từ thế kỉ
thứ 7 chẳng hạn như tượng Đức Thích Ca Mâu Ni, với tư thế đứng có niên
đại từ thế kỉ thứ 7. Và đối với tất cả những người tu tập về Phật giáo
Mật tông của xứ Nepal thì coi đây là một địa điểm có linh khí hội tụ
mạnh nhất của đất nước này. Tương truyền, nơi đây Bồ tát Văn Thù, vị Bồ
tát tượng trưng cho trí tuệ của Phật giáo, đã thị hiện tại vùng đất
này.
Rời
Nepal với muôn vàn tình lưu luyến, một đất nước tràn ngập tình yêu
thương, nơi đã sinh ra Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng tôi đều thầm hẹn
sẽ trở lại thánh địa này trong những lần tới nữa.
Du lịch tâm linh