LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỞ THÀNH MỘT BẬC BỒ TÁT
SÁNG RỰC KHẮP BỐN PHƯƠNG &
NHỮNG BƯỚC CHÂN NHẸ NHÀNG TRỞ VỀ SỰ IM LẶNG
Phạm Công Thiện
Nhà xuất bản: Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2010
CHƯƠNG 4
KIÊU MẠN LÀ GÌ
4. Kiêu mạn là gì?
Bốn điều khiến cho lùi mất trí huệ của Bồ Tát
đều liên hệ mật thiết với nhau: Vì không tôn trọng Phật Pháp, cho
nên không kính trọng Pháp sư, cho nên giữ lại Phật Pháp thâm sâu và
làm chướng ngại cho những kẻ vui sướng tu hành, cho nên có lòng kiêu
mạn và khinh thường hạ thấp người khác. Hoặc cũng có thể hiểu từ
điều thứ tư (kiêu mạn) trở lui đến điều thứ nhất (không tôn trọng
Phật Pháp); vì có lòng kiêu mạn cho nên không tôn trọng Phật Pháp và
tôn kính Pháp sư.
Kiêu mạn là gì?
Kiêu khác với mạn; kiêu có
liên hệ với những cái mình đang có tạm thời, còn mạn có liên
hệ tới những gì mình không có mà tưởng rằng mình có. Kiêu và
mạn gọi chung là kiêu mạn để nói lên thái độ tâm thức
về những cái mình đang có tạm thời và sẽ mất (kiêu), và về những gì
mình không có mà vọng tưởng rằng mình có. Hai thái độ (kiêu và mạn)
đều xuất phát từ cái vọng tưởng về sự xác nhận: “tôi là” (như “tôi
hiện là thế”, “tôi bằng ngang với…”, “tôi thấp thua đối với…”, “tôi
lớn cao hơn đối với…”)
Trong kinh Phúng Tụng (Sangiti Sutta)
đức Phật đã dạy rằng có ba điều gọi là kiêu:
I. Vô bệnh kiêu
(arogya-mado; kiêu ngạo về sức khỏe lành mạnh của mình)
II. Niên tráng
kiêu (yobbana-mado; kiêu ngạo về tuổi trẻ của mình)
III. Hoạt mệnh
kiêu (jivita-mado; kiêu ngạo về đời sống sinh tiền của mình)
“Vô bệnh kiêu”, “niên tráng kiêu”, “hoạt mệnh
kiêu” là những điều đang tạm có đó nhưng sẽ mất. Mình đừng nên tự
phụ và khoe khoang rằng mình không bệnh, rằng mình còn trẻ, rằng
mình đang sống, vì tất cả đều vô thường. Ba điều “kiêu” này khiến
mình làm điều ác về thân, khẩu và ý, để rồi “sau khi thân hoại mạng
chung, bị sinh vào cõi dữ, đọa xứ, địa ngục”; cũng vì ba cái “kiêu”
này mà kẻ tu hành đã “từ bỏ Phật Pháp và trở lui lại đời sống thế
tục” (Anguttara Nikaya, Kinh Bộ Tăng Chi, chương Ba, tiết 39).
Còn về mạn, đức Phật dạy rằng có ba mạn:
I. Thắng mạn (atimana;
tự phụ cho rằng mình cao quí hơn…);
II. Đẳng mạn (māna;
tự phụ cho rằng mình bằng ngang như…);
III. Ty liệt mạn
(omāna; tự phụ cho rằng mình kém thua…).
Theo kinh Phúng Tụng (Sangiti Sutta),
đây là ba hình thức của mạn:
a) “Tôi tốt đẹp hơn…”
(“seyyo’ham asmiti vidha…)
b) “Tôi ngang bằng
với…” (“sadiso’ham asmiti” vidha…)
c) “Tôi tệ thua đối
với…” (“hino’ham asmiti” vidha…)
Kinh luận Phật giáo thường nói đến ba mạn, bảy
mạn và mười hai mạn, nhưng tất cả đều xuất xứ từ ngã mạn
(Asmimana).
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm (quyển 9) có
liệt kê ra bảy mạn (thất mạn):
I. Mạn (māna: hơn ít
mà tưởng hơn nhiều)
II. Ngã mạn
(asmimāna: tưởng mình tài giỏi, khinh thường kẻ khác)
III. Tà mạn
(mithyamāna: ngạo vì chấp trước tà kiến)
IV. Quá mạn
(abhimāna: bằng mà tự cho là hơn hoặc thua mà cho là bằng)
V. Mạn quá mạn
(manatimana: thua nhiều mà tự cho là hơn)
VI. Tăng thượng mạng
(adhimāna: chưa chứng đạo mà tự cho chứng đạo)
VII. Ty liệt mạn
(unamāna: thua nhiều mà cho là thua ít hoặc không thua; có ít lại
khoe nhiều)
Chúng ta cũng có thể hiểu bảy cái mạn
một cách cụ thể rõ ràng trong những trường hợp khác như vầy:
a) Thấy tưởng mình
cao siêu hơn một người nào đó kém thua mình;
b) Thấy tưởng mình
cao siêu hơn một người nào đó ngang hàng với mình;
c) Thấy tưởng mình
cao siêu hơn một người nào đó cao siêu hơn mình;
d) Thấy tưởng mình có
bản ngã cao siêu hơn mọi người về nhiều phương diện (cá tính, màu
da, vị thế xã hội, quốc tịch, giáo dục, vân vân);
e) Thấy tưởng mình
cao siêu về những đức tính mà mình tưởng rằng mình đạt được nhưng
thực ra đó chỉ là tưởng tượng;
f) Thấy tưởng mình
cao siêu vì tự cho rằng mình ngang hàng hay gần ngang hàng với những
kẻ quá vĩ đại hơn mình đến một trời một vực, chẳng hạn cho rằng mình
ngang hàng với Phật, với chư Đại Bồ Tát, với những bậc Đại Thánh
Tăng, Đại Sư Trưởng, Đại Thiền Sư hay Đại Vĩ Nhân, vân vân.
g) Thấy tưởng mình
cao siêu vì tưởng rằng mình hơn người qua những tài vặt, như kiểu
anh hùng rơm qua những thành công có tính cách thế tục như đào hoa,
trụy lạc, buôn lậu, thể thao, săn bắn, đánh bạc, du côn, đàng điếm
hay bất cứ mánh khóe bịp bợm nào khả dĩ qua mặt và lường gạt người
khác.
Có một điều dễ nhận rõ ràng: bất cứ kẻ nào còn
có một chút mảy may kiêu ngạo thì không bao giờ có thể học được Phật
Pháp một cách đứng đắn; tu hành chứng nhập những giáo lý cơ bản ở
ngay bước đầu hành trình cần phải dẹp trừ tính kiêu căng, khinh mạn,
tự phụ, tự cao, tự đại.
Kiêu mạn làm dơ bẩn tâm thức và đóng chặt lại
trí óc. Một Phật tử kiêu mạn là người phá hoại Phật Pháp, và một
thầy Tỳ kheo kiêu mạn là kẻ chỉ mang danh hiệu “Tỳ kheo” mà thực
chất thì tệ hại hơn kẻ phàm phu tục tử, vì chính sự kiêu mạn trong
hàng tăng chúng sẽ đưa Phật Pháp đến chỗ tiêu diệt. Đó là lý do mà
đức Phật đã nêu ra về sự thối thất trí huệ của bậc Bồ Tát: “Không
tôn trọng Phật Pháp, không kính Pháp sư, kiêu mạn tự cao, và khinh
bỉ, làm thấp hèn kẻ khác”.