PHẬT HỌC PHỔ
THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 7: TRIẾT LÝ ĐẠO PHẬT
hay là ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM
(TT)
Bài Thứ Mười Lăm: 10 món ma về thọ ấm, 10 món ma
về tưởng ấm
I. Mười món ma về thọ ấm:
1. Thất loài vật, thương khóc
2. Chí dõng mãnh bằng Phật
3. Tâm nghĩ tưởng khô khan
4. Đặng chút ít cho là đầy đủ
5. Tâm buồn rầu vô hạn
6. Vui cười không thôi
7. Sanh đaị ngã mạn
8. Tâm không khinh an
9. Chấp không
10. Vì quá tham ái nên sanh ra cuồng
II. Mười món ma về tưởng ấm:
1. Tham cầu diệu dụng
2. Tham cầu du ngoạn
3. Cầu ngộ chơn lý
4. Móng tâm muốn biết nguồn gốc của muôn loài
5. Tham cầu cảm ứng linh nghiệm
6. Tham cầu chỗ ở vắng vẻ u tịch
7. Tham cầu biết kiếp trước
8. Tham cầu thần thông
9. Tham cầu không không
10. Tham cầu sống lâu
I. MƯỜI MÓN MA VỀ THỌ ẤM :
1.
Thấy loài vật, thương khóc
Này A Nan,
người tu thiền định khi phá trừ sắc ấm rồi, tâm trí sáng suốt, do hàng giả dụng
công dằn ép các vọng tưởng thái hóa, nên phát sanh lòng thương xót các loài vật
vô cùng, cho đến thấy loài mòng muỗi, thương cũng như con ruột, thương cho đến
nỗi sa nước mắt khóc ròng. Nếu hành giả giác ngộ thì cảnh ấy lần lần tiêu hết,
không có hại chi; còn mê lầm không biết, thì bị ma sầu bi ám ảnh vào tâm, rồi
thấy người tự khóc ròng, tâm mất chánh định, sau khi chết rồi đọa vào cảnh ma.
2.
Chí dõng mãnh bằng Phật
Này A Nan, người tu thiền định khi sắc
ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, thấy có nhiều điều linh ứng và những cảnh tốt đẹp
hiện ra. Vì trong lòng cảm khích thái quá, nên hành gỉả phát tâm đại dõng mãnh,
lập chí đồng với chư Phật, quyết tu một đời thành Phật, không chịu trải qua bao
vô số kiếp. Nếu hành giả giác ngộ thì cảnh ấy lần lần tiêu diệt; còn mê lầm
không biết cho mình chứng Thánh thì bị ma nhập tâm, thấy người hay khoe khoang
hống hách, ngã mạn không ai bằng, cho đến trên thấy không có Phật, dưới thấy
không có người, mất chánh định, sau khi chết rồi bị đọa vào ác đạo.
3. Tâm nghĩ tưởng
khô khan
Lại nữa, người tu thiền định, khi địa vị
cũ đã qua khỏi, địa vị mới chưa chứng, lúc ấy bơ vơ giữa chừng, vị trí lực suy
kém, nên trong tâm sanh ra rất khô khan, tất cả thời nhớ nghĩ vẩn vơ, rồi tự
cho đó là tinh tấn. Đây vì trong lúc tu thiền, không có trí tuệ sáng suốt để
phán đóan. Nếu hành giả hiểu biết thì không có hại; còn mê lầm không biết, cho
mình chứng Thánh thì bị ma ám ảnh vào tâm, sớm chiều bóc quăng trái tim của
mính, mất chánh định, chết rồi đọa vào ác đạo.
4. Đặng chút ít
cho là đầy đủ
Người tu thiền định khi sắc ấm tiêu, thọ
ấm hiện bày, vì dùng huệ nhiều hơn định, mất sự thăng bằng, nên gặp những cảnh
thù thắng hiện ra, sanh lòng nghi ngờ cho là Đức Tỳ Lô Giá Na Phật, mới đặng
chút ít cho là đầy đủ. Nếu hành giả hiểu biết thì không có hại; còn mê lầm
không biết cho mình là Thánh, thì bị ma ám ảnh, khi gặp người tự xưng: “Ta đặng
đạo vô thượng Bồ đề”, sẽ mất chánh định, sau đọa vào đường ma.
5. Tâm buồn rầu vô hạn
Người tu thiền định, khi cảnh cũ đã mất,
địa vị mới chưa chứng, tự thấy bơ vơ; gặp cảnh giannan nguy hiểm, sanh tâm buồn
rầu vô hạn, như ngồi trên chông sắt, như uống thốc độc, tâm chẳng muốn sống,
thường cầu xin người giết giúp thân mạng mình, đặng sớm được giải thóat. Đây là
do trong khi tu hành, hành giả thiếu phương tiện để lướt qua những cảnh ấy. Nếu
liễu ngộ thì không hại; còn mê lầm chẳng biết, hành giả cho mình chứng Thánh,
thời bị ma u sầu ám ảnh, rồi tự cầm gươm dao lóc lấy thịt mình, ưa bỏ thân
mạng, thường hay lo rầu hoặc vào ở trong núi non rừng rú, không muốn thấy
người, mất tâm chánh định, sau chết rồi đọa vào đường ma.
6. Vui cười không thôi
Người tu thiền định, khi tâm được thanh
tịnh an ổn rồi, bỗng nhiên sanh ra vui mừng vô hạn không thể ngăn được. Nếu
hiểu biết thời không có hại; còn mê lầm cho mình chứng Thánh, thì bị ma nhập
vào tâm phủ, Thấy người cười hòai, đi trên đường sá một mình ca múa, tự cho
rằng “Ta đã đặng vô ngại giải thóat”, mất chánh định, sẽ đọa vào đường
tà.
7. Sanh đại ngã mạn
Người tu thiền định, khi thấy sắc ấm
tiêu, thọ ấm hiện bày, tự cho mình được như thế là đầy đủ rồi, sanh tâm ngã
mạn, đối với mười phương chư Phật còn khinh khi, huống hồ là Thinh-văn,
Duyên-giác. Nếu hiểu ngộ thì chẳng hại; còn hành giả mê lầm không biết cho là
chứng Thánh, thì bị ma đại ngã mạn nó nhập tâm, không lạy Phật tổ, hủy họai
kinh tượng. Hạng người ấy thường nói với tín đồ rằng: “Phật bằng cây, đất,
đồng, chì; còn kinh tượng là giấy mực, có gì mà kính lạy; nhục thân này mới là
chơn thật thường còn, sao chẳng cung kính, thật là điên đảo”. Tín đồ nghe rồi
tin theo, đốt kinh chôn Phật. Người làm cho chúng sanh nghi lầm như thế, sau
khi chết rồi bị đọa vào địa ngục vô gián.
8. Tâm sanh khinh an
Người tu thiền định, khi sắc ấm tiêu,
thọ ấm hiện bày, trong tâm sanh ra vô lượng khinh an rồi tự cho mình đã chứng
Thánh, đặng đại tự tại. Nếu hành giả hiểu biết thời không hại; còn mê lầm không
biết thì bị ma nhập tâm, rồi tự cho mình đã đầy đủ, không cần tu tấn, mất chánh
định, sau khi chết rồi bị đọa vào đường tà.
9. Chấp không
Người tu thiền định, khi sắc ấm tiêu,
thọ ấm hiện bày, trong tâm bỗng sáng, rồi sanh ra chấp đọan diệt, bác không
nhân quả, không tội phước, tất cả đều không. Nếu hành giả hiểu biết thời không
hại; còn mê lầm không biết chấp mình chứng Thánh thì bị ma nhập tâm, rồi chê
bai người trì giới cho là tu hành Tiểu thừa, tự xưng mình là Bồ-tát ngộ chơn lý
chơn không rồi, không còn trì giới và phạm giới nữa, vẫn ăn thịt và uống rượu
làm những việc tà dục. Do thần lực của ma nó làm cho tín đồ say mê, thương yêu
cung phụng, luôn luôn trung thành, chẳng sanh lòng nghi ngờ hủy báng. Vì ma
nhập lâu ngày làm cho phải điên, đến nỗi ăn uống những đồ nhơ uế, mà cho cũng
như là uống rượu ăn thịt, phá các giới cấm của Phật, hòan toàn chấp không, làm
mất chánh kiến của mình, sau khi chết rồi đọa vào đường tà.
10.
Vì quá tham ái nên sanh ra cuồng
Người tu thiền định, khi sắc ấm tiêu,
thọ ấm hiện bày, sanh ra vô cùng ái dục, đến đỗi phát cuồng. Nếu hành giả giác
ngộ thì cảnh đó hết dần, còn mê lầm không biết cho là chứng Thánh, thì bị ma
nhập tâm, rồi khuyến hóa người đời bình đẳng hành dục, bảo họ rằng: “Hành dục
là đạo Bồ-đề, người hành dâm dục là kẻ duy trì chánh pháp’. Do thần lực của ma
làm cho người cuồng kia chinh phục được cả ngàn muôn người, đến chừng ma nhàm
chán, bỏ người tu thiền kia rồi, lúc bấy giờ hành giả không còn oai đức gì nữa,
bị luật nước gaim cầm, đến khi lâm chung đọa vào địa ngục vô gián.
Tóm lại
A Nan,
mười cảnh ma này, đều do trong lúc tu thiền, hành giả dụng tâm phá trừ thọ ấm,
nên tự hiện ra các cảnh như vậy. Nếu hành giả mê lầm không biết, cho rằng chứng
Thánh, thì bị ma dựa vào, làm nhiều hại đến thế; chết rồi đọa vào địa ngục vô
gián.
Sau khi Ta nhập diệt, các ông nên đem
lời Ta dạy đây mà truyền dạy cho chúng sanh đời sau, bảo hộ người tu hành được
thành đạo Bồ-đề, chớ để cho họ gặp các lòai ma chuớng làm hại, mà phải bị đọa
vào ác đạo.
II. MƯỜI
MÓN MA VỀ TƯỞNG ẤM :
1. Tham cầu diệu dụng
A Nan,
người tu thiền định, khi phát minh được diệu định rồi, lại khởi tâm tham cầu
những việc diệu dụng và linh nghiệm. Khi đó thiên ma được biết, gặp dịp thuận
tiện, nên xuất hồn nhập vào người, mà người bị nhập kia lại không biết, tự cho
mình đặng đạo vô thượng Niết-bàn, cũng thường nói ra kinh pháp. Trong giây
phút, thân mình người bị nhập kia, biến hiện ông Thầy, cô Ni, vị Đế thích hay
người phụ nữ v.v… hoặc ở trong nhà tối, từ nơi thân họ chiếu ra hào quang sáng
ánh. Người đời lầm cho là Bồ-tát thật, rồi tin nghe theo lời ma giáo hóa, sanh
tâm buông lung, phá giới luật của Phật, lén làm việc tham dục. Người này ưa nói
những điểm tai biến lạ lùng, hoặc nói chỗ kia có Phật ra đời, năm nào nổi đao
binh giặc giã, năm nào có hỏa họan v.v… khủng bố tinh thần dân chúng, khiến cho
người hao tài tốn của. Đến khi ma kia nhàm chán bỏ đi, thì thầy trò người bị ma
nhập kia đều bị giam cầm. c1c ông nếu biết trước thời khỏi vào luân hồi; còn mê
lầm không biết thì đọa vào ác đạo.
2. Tham cầu
du ngọan
A Nan,
hành giả khi tu thiền, trong tâm muốn xuất thần dạo chơi. Lúc bấy giờ
Thiên ma Ba tuần hiểu biết, được dịp thuận tiện nhiễu hại, nên xuất hồn nhập
vào người, mà người bị nhập kia lại không biết, tự nói mình đặng đạo vô thượng
Niết-bàn, miệng cũng nói kinh pháp thông suốt, làm cho những người nghe đều tự
thấy thân mình hóa ra sắc vàng sáng rỡ, ngồi trên tòa sen báu, đặng những điều
chưa từng có. Người đời lầm tưởng là Bồ-tát thị hiện. Người bị ma nhập kia lại
dạy người phá giới luật của Phật, âm thầm làm việc tham dục, miệng ưa nói
chuyện chư Phật giáng thế, như: ở xứ kia, ông đó là Đức Phật nào thị hiện,
người nọ là vị Bồ-tát chi thị hiện v.v… làm chongười thấy, nghe sanh lòng khao
khát, dâm tà kiến thêm mạnh, giống trí tiêu mòn. Đến lúc ma kia nhàm chán bỏ
đi, thì thầy trò người bị ma nhập ấy đều bị bắt cả. các ông nếu sớm giác ngộ
thì khỏi vào luân hồi; còn mê lầm không biết thì đọa vào địa ngục.
3. Cầu ngộ
chơn lý
Lại nữa, người tu thiền định, trong tâm
tham, cầu ngộ chơn lý. Lúc bấy giờ Thiên ma Ba tuần biết được ý muốn, nên xuất
hồn nhập cho người, mà người tự không biết, tự cho rằng ta đặng đạo vô thường
niết-bàn, miệng cũng nói kinh pháp, làm cho thính giả tuy chưa nghe pháp, mà
tâm tự khai ngộ, biết được việc nhiều đời trước, hoặc biết rõ được tâm tánh
người, hoặc thấy các cảnh địa ngục, biết trước những họa phước ở nhơn gian,
miệng tự đọc kinh hay nói kệ, mỗi người đều tự vui mừng, cho là đặng những việc
chưa từng có. Người đời mê lầm cho là Bồ-tát thị hiện. Ma kia lại ưa nói: “Phật
có lớn nhỏ, Phật thiệt, Phật giả, Phật nam, Phật nữ, Đức Phật kia là Đức Phật
trước, Đức Phật nọ là Đức Phật sau; Bồ-tát cũng vậy”, làm cho người mầt chánh
tín lại sanh tà kiến, tâm tánh buông lung, phá giới luật của Phât, lén làm việc
tham dục. Đến khi chúng ma kia sanh tâm nhàm chán bỏ đi, thì thầy trò người bị
ma nhập kia đềi bị bắt. Các ông biết trước thời khỏi bị luân hồi; còn mê lầm
tin theo thời đọa vào địa ngục.
4.
Móng tâm muốn biết nguồn gốc của muôn lòai
Lại nữa, người tu thiền định, khi ở
trong định, móng tâm muốn biết cùng tột căn nguyên của muôn vật, thỉo chung
sanh hóa thế nào. Khi đó Thiên ma hiểu biết ý muốn, gặp dịp thuận tiện để khuấy
nhiễu, nên xuất hồn đến nhập cho người, mà người nhập kia lại không biết, cho mình
đặng đạo vô thường Niết-bàn, cũng thường nói kinh pháp. Chúng ma kia dùng oai
thần nhiếp phục quần chúng, làm cho thính giả tuy chưa nghe pháp mà trong lòng
đã tự kính phục. Chúng ma nói: “Thân thịt hiện tiền đây là Bồ-đề Niết-bàn, là
Pháp thân của Phật”. Chúng ma lại nói: “ Mắt, tai, mũi, lưỡi là cảnh tịnh độ,
nam căn và nữ căn tức là Bồ-đề Niết-bàn”. Nhưng người mê lầm không biết tưởng
là Bồ-tát thị hiện, tin tưởng quy y theo, cho là một đấng hy hữu chưa từng có.
Mất tâm chánh tín, phá giới luật của Phật, âm thầm làm hạnh tham dục. FĐến khi
ma kia nhàm chán bỏ đi rồi, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị bắt cả.
Các ông nếu biết trước thì khỏi bị luân hồi, còn mê lầm tin theo thời đọa vào
địa ngục vô gián.
5. Tham cầu
cảm ứng linh nghiệm
Người tu thiền định vì móng tâm tham cầu
sự cảm ứng linh nghiệm, nên Thiên ma biết được ý muốn, nó xuất hồn đến gá vào
người mà người kia không biết, tự cho mình đặng đạo vô thượng Niết-bàn, cũng
thường nói kinh pháp. Ma lại dùng thần lực khiến cho những người nghe pháp đều
thấy thân thể người bị nhập kia già nua như người trăm tuổi sanh lòng thương
mến, đêm ngày hầu hạ không biết mệt mỏi, và tứ sự cúng dường. Nó lại làm cho
người người kính trọng là vị Tiên sư hay Thiện tri thức. Đối với người, nó ưa
nói việc huyền ảo như: “Đời trước ta tế độ người kia, người nọ. Đời trước người
kia là anh em hay vợ con của ta, đời nay ta tế độ, để cùng nhau sẽ sanh về thế
giới kia và cúng dường Đức Phật nọ”; hoặc nói: “ Có cõi Trời Đại quang minh,
tất cả các Đức Phật đều ở đó”. Những người mê muội không biết, lầm cho là
Bố-tát thị hiện, tin tưởng kính trọng vô cùng, mất tâm chánh tín, phá giới luật
của Phật, âm thầm al2m việc tham dục. Đến khi chúng ma kia sanh tâm nhàm bỏ.
các ông biết trước thời khỏi vào luân hồi, còn tin tưởng nghe theo thì đọa vào
địa ngục vô gián.
6. Tham
cầu ở chỗ vắng vẻ tịch mịch
Người tu thiền định, khép mình nơi khổ
hạnh tham cầu ở chỗ vắng vẻ tịch mịch. Khi đó Thiên ma Ba tuần biết được ý
muốn, nên xuất hồn nhập vào người, mà người kia không biết, cho mình chứng đạo
vô thượng Niết-bàn, cũng thường hay nói pháp. Ma dùng thần lực khiến cho các
người nghe đều biết được đời trước của mình. Hoặc trong chỗ đông người, nó chỉ
một người nào đó nói rằng: “Người này chưa chết, mà đã thành súc sanh”. Nói
rồi, ma nó bảo một người khác đạp sau cái đuôi, thì người kia biến thành súc
sanh, đứng dậy không được, làm cho đồ chúng hết sức kính phục. Có ai vừa móng
tâm niệm gì, thì ma nó liền biết và nói ra ngay. Ngòai giới luật của Phật,
chúng còn giữ thêm những điều khổ hạnh, phỉ báng các thầy Tỳ-kheo, mắng nhiếc
tín đồ, làm tiết lộ việc bí mật của người mà không sợ người hiềm ghét, thường
nói những việc họa phước sắp đến, không sai một mảy. Đến lúc ma kia nhàm chán
bỏ rồi, thì thầy trò người bị ma nhập đều bị bắt. Các ông biết trước thời không
vào luân hồi; còn mê mờ tin theo thì đọa vào địa ngục vô gián.
7. Tham cầu biết
kiếp trước
Người trong khi tu thiền định, móng tâm
tham cầu biết trước của mình. Khi đó Thiên ma hiểu biết, gặp dịp thuận tiện,
nên xuất hồn nhập vào người, mà người bị nhập kia không biết, tự cho mình đặng
đạo vô thượng Niết-bàn, cũng thường nói kinh pháp, hoặc làm cho người tình cờ
đặng châu báu. Nó hóa ra một con vật ngậm hột châu hay những vật kỳ quái đem
đến đưa cho người. Nó chỉ ăn rau rác đơn sơ, không dùng đồ ngon quí, có khi mỗi
ngày chỉ ăn một hột mè, hột bắp, mà thân hình vẫn mập tốt. Chúng thường nói:
“Xứ kia có kho báu, chỗ nọ có các Thánh Hiền ẩn”. Chúng làm cho người
thấy những điều kỳ dị, hoặc nói những việc tham dục, phá giới của Phật, âm thầm
làm hạnh dâm dục. Đến khi ma kia nhàm bỏ rồi, thì thầy trò người bị nhập đều bị
bắt cả. Các ông biết trước thì khỏi đọa vào luân hồi; còn mê lầm tin theo, thì
đọa vào địa ngục.
8. Tham cầu thần thông
Người khi tu thiền định, móng tâm muốn
được thần thông biến hóa. Khi đó Thiên ma liền biết, nên xuất hồn nhập cho
người mà người không biết, tự cho rằng: “Đặng đạo vô thượng Bồ-đề”. Miệng nói
kinh pháp và một tay cầm lửa, một tay rứt ánh sáng phân phát để trên đầu của
thính giá. Mỗi người đều thấy trên đầu có ánh sáng dài đến vài thước, mà chẳng
biết móng; hoặc đi trên nước hay ngồi trên hư không vẫn tự tại; hoặc vào trong
bình, vô trong đãy (bọc), đi ngang qua vách tường, mà không bị chướng ngại. Chỉ
trừ khi đối với binh đao, thì họ không tự tại. Họ xưng là Phật mà thân mặc đồ
thế gian, thọ các thầy tỳ-kheo lễ bái, chê bai nhười tham thiền và trì giới,
mắng nhiếc đồ chúng, làm tiết lộ việc nhà người mà không sợ người hiềm giận. Họ
thường nói với người: “Ta đã đặng thần thông tự tại”; hoặc làm cho người thấy
được cõi Phật (ma hiện ra cõi Phật) đem những điều dở hèn làm việc truyền đạo
và khen ngợi việc hành dục. Đến khi ma kia nhàm bỏ, thì thấy trò người bị ma
nhập kia đều bị bắt cà. Các ông biết trước thời khỏi vào luân hồi; còn mê lầm
tin theo thời đọa vào địa ngục vô gián.
9. Tham cầu không
không
Người khi tu thiền định, tâm ưa nhập
diệt, tham cầu không không. Khi ấy Thiên ma liền biết, đặng dịp thuận tiện, nên
xuất hồn nhập cho người, mà người kia chẳng biết, tự cho mình đặng đạo vô
thượng Niết-bàn, miệng nói kinh pháp. Hoặc ở trong chỗ đông người, người ấy tự
biến mất, không ai thấy được, rồi tình cờ từ hư không hiện ra, khi ẩn khi hiện
thần diệu vô cùng, hoặc hiện thân trong suốt như ngọc lưu ly, khi duỗi tay chân
ra thì thơm nực mùi hương chiên đàn, chê bai giới luật, hủy báng người xuất
gia, bác không có nhơn qủa, cho rằng chết rồi mất hẳn không có đầu thai, âm
thầm làm việc tham dục, khiến cho những người thọ dục, cũng chấp không có nhơn
quả tội phước v.v… Đến lúc ma nhàm bỏ, thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị
bắt cả. các ông biết trước thời khỏi vào luân hồi; còn mê lầm không biết thì
đọa vào địa ngục vô gián.
10. Tham cầu sống
lâu
Người tu thiền định, móng tâm tham cầu
sống lâu. Lúc bấy giờ Thiên ma hiểu biết, xuất hồn nhập cho người, mà người tự
không biết, nói mình đặng đạo vô thựơng Niết-bàn, miệng thường nói kinh pháp và
đi qua lại các thế giới được tự tại không ngăn ngại; mặc dù đường xa muôn dặm,
nhưng đi không nháy mắt đã trở về đến chỗ, lại lấy những vật ở phương xa kia
đem về làm tin. Hoặc ở trong một căn nhà nhỏ, nó bảo người đi thiệt mau, từ
vách bên này qua vách bên kia, đi mấy năm cũng không đến; hoặc thường nói:
“Chúng sanh trong mười phương đều là con của ta, ta sanh ra chư Phật, ta sanh
ra thế giới, ta là Phật đầu tiên tự nhiên có, chẳng chơn tu hành mà được”; hoặc
ngồi nói lầm thầm một mình như người cuồng, khiến cho người đời tin tưởng là
Phật thiệt. Các ông biết trước thì khỏi bị luân hồi, còn mê lầm tin theo thời
đọa vào địa ngục vô gián.
Tóm lại
A Nan, mười món ma tưởng ấm này, ở trong
đời mạt pháp, sẽ giả làm người xuất gia tu hành, trong đạo của Ta, hoặc nhập
cho người, hoặc tự hiện hình, đều tự xưng rằng: “Đã chứng quả Phật”. Chúng khen
ngợi việc dâm dục, phá giới luật của Phật. Ma thầy, ma trò cùng nhau tryền dạy,
làm hại cho người đến nhiều đời lắm, khiến người chơn tu mất chánh kiến, bị đọa
làm bà con quyến thuộc của ma.
Các ông ngày nay đã được độ ra khỏi sanh
tử luân hồi rồi, vậy các ông phải khởi lòng đại bi, không nên nhập diệt sớm,
pảhi nguyện ở lại đời mạt pháp để cứu độ những người chơn chánh tu hành đời
sau, khỏi bị ma nhiễu hại.
Các ông tuân theo lời a dạy đây, mới gọi
là đền đáp ơn Phật. Các ông gắng bảo hộ người tu hành, nên đem lời nói của Ta
đây truyền dạy cho chúng sanh đời sau, khiến cho họ hiểu rõ các việc ma, để khỏi
bị Thiên ma nhiễu hại và mau được thành đạo vô thượng.