PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1997
KHOÁ THỨ 7: TRIẾT LÝ ĐẠO PHẬT
hay là ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM
(TT)
Bài Thứ Tám
I.
ÔNG PHÚ LÂU NA HỎI PHẬT HAI CÂU QUAN
TRỌNG
Lúc bấy giờ ông
Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử đứng dậy lạy Phật, chắp tay cung kính và thưa
rằng: Bạch Thế Tôn, trong hàng tứ chúng, Phật thường khen con thuyết pháp
hơn hết; ở trong hội này con lại chứng được quả Vô lậu. Thế mà hôm nay
con nghe Phật nói pháp nhiệm mầu cao thượng, hãy còn chưa hiểu. Cũng như
người điếc đứng xa một trăm bước nghe tiếng muỗi kêu; thấy còn không được,
huống chi lại nghe.
Bạch Thế
Tôn: 1. Chơn tâm này đã vốn thanh tịnh, tại sao lại thoạt sanh ra
sơn hà đại địa và các chúng sanh?
2.
Lại nữa, Phật nói “đất, nước, gió lửa, tánh nó vắng lặng thường còn, viên dung
khắp giáp pháp giới”. Bạch Thế Tôn, nếu nước khắp tất cả, thì lửa phải
tắt; còn lửa biến khắp thời nước phải khô; tánh lửa thì nóng, tánh nước lại
lạnh, hai thứ trái nhau, tại sao đồng cùng khắp cả hư không, mà nó không diệt
nhau? Lại nữa, đất thì có hình chất, còn hư không lại trống, tại sao hai
thức đều khắp giáp cả pháp giới, mà không có chướng ngại nhau? Cúi xin
đức Như Lai vén mở ngút mây mờ cho chúng con.
Thưa hỏi xong,
ông Phú Lâu Na kính cẩn trở lui, để chờ nghe lời Phật chỉ dạy.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này ông
Phú Lạu Na hỏi Phật hai điều:
1.Chơn tâm đã
thanh tịnh tại sao thoạt sanh ra có thế giới và chúng sanh?
2.Ðất, nước,
gió, lửa, tánh nó chống trái nhau, tại sao lại dung hòa được và biến khắp cả
pháp giới?
Về câu hỏi
trước thì trong kinh này Phật đã trả lời rõ rồi. Còn về câu hỏi sau chúng
ta cũng nên phân biệt cho rõ: Phật nói nước, lửa v.v... biến khắp cả pháp
giới, đó là Phật chỉ về phần “bản thể” mà nói. Ông Phú Lâu Na nghi nước,
lửa v.v... trái nhau, làm sao đều biến khắp được. Thế là ông Phú Lâu Na
đứng về phần “hiện tượng” mà hỏi.
Về phần hiện
tượng thì có chướng ngại, còn bản thể thời không bao giờ chướng ngại.
*
II.
PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI THỨ NHẤT
Phật day:
Này Phú Lâu Na, như lời ông hỏi: “Chơn tâm đã vốn thanh tịnh, tại sao lại
sanh ra sơn hà đại địa, thế giới và chúng sanh”.
Vậy ông có
thường nghe ta nói: “Chơn tâm nhiệm - mầu vắng - lặng mà thường sáng suốt
chiếu soi” không? (Tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu)
Phú Lâu Na thưa: Bạch Thế Tôn, con có thường nghe Phật dạy như thế.
Phật hỏi: Vậy chơn tâm này, ông cho nó tự có tánh sáng suốt chiếu soi
(phân biệt) hay là không có sáng suốt chiếu soi?
Phú Lâu Na thưa: Vì nó sẵn có tánh sáng suốt chiếu soi (phân biệt) nên
mới gọi là tâm. Nếu nó không có tánh sáng suốt chiếu soi (phân biệt) thì
không gọi là tâm, vì nó không phân biệt được cái gì cả.
Phật dạy: Như lời ông nói: “Nếu nó không sáng suốt chiếu soi (phân
biệt) thì không phải là tâm, vì nó không phân biệt được cái gì cả”. Vậy
ông có hiểu chăng: nếu có chiếu soi phân biệt, thì không phải là chơn (vì
có năng phân biệt thì phải có bị phân biệt), còn không có chiếu soi phân biệt,
thì chắng phải là tâm. Nếu tâm mà không sáng suốt thì không phải là chơn
tâm thanh tịnh rồi.
Ông nên hiểu: Chơn tâm vẫn sáng suốt, vì ông vọng chấp cái “sáng suốt
phân biệt” làm tâm, nên thành ra có năng phân biệt (tâm) và bị phân biệt
(cảnh).
Chơn tâm của ông không phải cái “bị phân biệt”, nhưng vì ông khởi ra cái “năng
phân biệt”, nên nó (chơn tâm) trở lại thành cái “bị phân biệt”
(cảnh). Ðã vọng thành cái “bị phân biệt”, cố nhiên ở nơi ông phải vọng
sanh ra cái “năng phân biệt”.
Thế là ở nơi chơn tâm của ông vẫn thanh tịnh không có năng và sở, mà thoạt
nhiên thành ra có năng và sở (vô đồng dị trung, xí nhiên thành dị)
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này
Phật chỉ cái nguyên nhân từ chơn tâm thanh tịnh, vì vọng động nổi lên nên sanh
ra có thế giới và chúng sanh.
Chơn tâm thanh
tịnh mỗi người đều sẵn đủ. Nếu chấp nó “không có phân biệt” thì chẳng
phải là tâm; còn chấp nó “có phân biệt” thì chẳng phải là chơn.
Bởi ông Phú Lâu
Na chấp cái “phân biệt chiếu soi” làm tâm, nên đã có cái phân biệt, cố nhiên
phải có cái bị phân biệt. Thế là năng, sở vừa hiện, thì bỉ và thử rõ
ràng.
Ðây là Phật chỉ
cái hành tướng của vọng, từ nơi tâm của mọi người khởi lên một cách rõ ràng.
Một vọng niệm
vừa nổi lên, thì có trăm ngàn vọng niệm khác tiếp tục theo sanh ra, cho đến vô
cùng tận. Nhơn đó mà có hư không, thế giới và chúng sanh đồng thời hiện
ra. Cũng như người đương thức (dụ chơn tâm) bỗng chốc buồn ngủ nổi lên,
(dụ vô minh vọng động) chiêm bao thấy có núi sông, nhà cửa các cảnh vật hiện ra
(dụ hư không, thế giới và chúng sanh).
*
III.
PHẬT CHỈ NGUYÊN NHÂN CHÚNG SANH RA HƯ
KHÔNG, THẾ GIỚI VÀ CHÚNG SANH
Từ một thể chơn
tâm không khác, vì vọng niệm phân biệt, có năng sở, bi thử sai khác, nên hiện
ra có hư không và thế giới. Nhơn có hư không thế giới nên mới có chúng
sanh. Ðã có thế giới nên mới có chúng sanh. Ðã có thế giới và chúng
sanh lăng xăng đối đãi nhau, nên khởi lên vô số vọng tưởng phân biệt: tốt, xấu,
phải, chẳng v.v... Vì thế mà sanh ra đủ các phiền não trần lao nhiễm
ô. Cái có hình tướng và sanh diệt là thế giới, cái không hình tướng và
yên tịnh là hư không; khác với hư không, thế giới là chúng sanh vậy.
IV.
PHẬT CHỈ CHỈ NGUYÊN NHÂN RIÊNG VÀ TUẦN TỰ SANH RA VŨ TRỤ
1.
NGUYÊN NHÂN SANH GIÓ
Từ nơi chơn
tâm, do vô minh vọng động mà có hư không. Hư không mờ mịt vì vô minh
sanh. Trong “hư không” có chất động, vì là vọng. Bởi thế nên trong
hư không có gió (phong luân) để duy trì thế giới.
2.
NGUYÊN NHÂN SANH RA VÀNG NGỌC
Nhơn hư không
sanh ra gió, và vì nơi tâm chúng sanh có tánh cố chấp phân biệt, cho nên ứng
hiện ra ngoài thế giới có những chất cứng chắc là vàng ngọc (vàng ngọc cứng
chắc là vì tâm cố chấp sanh. Nó sáng ngời là do tâm phân biệt
sanh). Ðây là nguyên nhân có chất kim khí để bảo trì thế giới.
3.
NGUYÊN NHÂN SANH RA LỬA
Trong tâm chúng
sanh vì có tánh cố chấp phân biệt nên sanh ra chất cứng chắc là kim khí, và vì
có vọng động mà thành ra gió. Rồi gió thổi kim khí, nó cọ xát mãi, nóng
lên, nên nháng sanh ra ánh sáng là lửa. Ðây là cái nguyên nhân có lửa để
nấu đốt các vật.
4.
NGUYÊN NHÂN SANH RA NƯỚC
Chất vàng ngọc
vừa sáng ngời và đượm mát. Nhơn lửa xông lên, nên có hơi nước rịn
ra. Ðây là cái nguyên nhân có nước để bao bọc cả mười phương thế
giới.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm vọng đọng nên biến hiện ra ngoài thế giới có gió. Vì tâm cố chấp,
cho nên biến hiện ra ngoài thế giới có vàng ngọc. Vì tâm nóng nảy, nên
biến hiện ra ngoài thế giới có lửa. Vì tâm tham ái, cho nên biến hiện ra
ngoài thế giới có nước.
5.
NGUYÊN NHÂN SANH RA CỒN ÐẢO VÀ BIỂN
Vì tánh lửa bốc
lên, còn nước thì lại chảy xuống, nên có chỗ thấp ướt là sông biển, chỗ nổi lên
cao là cồn đảo. Bởi lửa và nước dung hòa nhau, cho nên trong biển thỉnh
thoảng bốc lên ánh sáng của lửa, trong cồn đảo lại có sông rạch thường chảy ra
nước.
LƯỢC GIẢI
Trong bộ Tông cảnh nói: “Vì tâm luyến ái nên ứng hiện ra ngoài thành sông
biển. Vì tâm cố chấp nên ứng hiện ra ngoài thành cồn đảo, tâm khinh mạn
thành ra gió, tâm nóng nảy, sân hận thành lửa. Bởi thấy sắc dục sanh tâm
luyến ái, nên hiện ra ngoài thế giới: Trong cồn đảo có nước thường
chảy. Ví trái với sự thương yêu thì nổi sân, nên hiện ra ngoài thế giới:
trong biển có lửa phát lên. Tóm lại, bốn đại đều duy tâm biến hiện (dụ
như chiêm bao, nếu ban ngày nghĩ tưởng cái gì, thì ban đêm hiện ra cảnh ấy).
*
6.
NGUYÊN NHÂN SANH RA NÚI
Vì thế lực của
nước yếu hơn lửa, nên bị lửa bốc lên kết hành núi cao. Bởi thế nên đập đá
thì có lửa, còn đốt quá nóng, thì nó chảy ra nước.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm giận
nhiều thương ít, nên ứng hiện ra ngoài thế giới có núi cao.
7.
NGUYÊN NHÂN SANH RA CỎ CÂY
Vì thế lực của
đất yếu hơn nước, cho nên bị nước rút lên làm cỏ cây. Bởi thế nên cỏ cây,
nếu bị đốt thì thành tro (đất) còn ép thì nó lại ra nước.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm thương
yêu nặng nề, tánh cố chấp ít, nên ứng hiện ra ngoài thế giới thành cỏ cây.
*
Tóm lại, vì ở
trong tâm chúng sanh, các vọng tưởng xen nhau phát sanh, nên ứng hiện ra ngoài
thế giới có các cảnh vật. Bởi nhân duyên này mà thế giới nối nhau sanh
mãi không dứt.
V.
PHẬT CHỈ NGUYÊN NHÂN CÓ CHÚNG SANH (NHƠN
SANH)
Ông Phú Lâu Na,
cái “hư vọng phân biệt” đó không có gì lạ, chỉ vì ông chấp cái “phân biệt chiếu
soi” làm tâm. Ðã có phân biệt, tất nhiên phải có cái “bị phân biệt” đối
đãi nhau. Vì thế nên cái “năng phân biệt” không vượt ngoài cảnh “bị phân
biệt” được. Do nhân duyên này, nên nghe không ngoài tiếng, thấy không
ngoài sắc, ngửi không ngoài mù, nếm không ngoài vị v.v... vọng thành 6
căn và 6 trần đối nhau, nên phân ra có: thấy, nghe, hay, biết.
Rồi theo nghiệp
lực kéo dẫn, cho nên có những loài sanh con (như người và thú) loài sanh trứng
(như chim và cá) loài sanh chỗ ẩm ướt (như vi trùng v.v...) loài hóa sanh (như
trời và địa ngục)
Thần thức khi
đầu thai, nhơn thấy ánh sáng (lửa dục) của cha mẹ phát ra, rồi nó khởi ra cái
“tưởng” chung chạ làm việc dục ấy. Nếu nó sẽ là trai thì ưa mẹ mà ghét
cha, còn nó sẽ là gái thì thương cha mà ghét mẹ. Vì tình lưu luyến nơi ái
dục không rời được, nên nó tự kết nạp tư tưởng của nó với tinh huyết của cha mẹ
khi giao cấu đó, kết thành ra thai. Vì có nhân duyên với nhau và đồng
nghiệp kéo dẫn, nên kết thành thai nghén. Loài sanh thai, sanh trứng,
sanh nơi ẩm thấp, hoặc sanh đều tùy theo nghiệp của mỗi loài mà cảm ứng.
Loài sanh trứng
là do nơi tưởng nhiều, loài sanh thai là do nơi tình nặng, loài thấp sanh là do
hiệp với chỗ ẩm thấp, loài hóa sanh thì rời cảnh vật tự nó hóa hiện. Bốn
loài biến đổi, tùy theo nghiệp lành hay dữ mà cảm thọ quả báo có thăng và
trầm. Do nhân duyên ấy mà chúng sanh bỏ thân này thọ thân kia, nối nhau
không dứt.
VI.
PHẬT CHỈ NGUYÊN NHÂN CHÚNG SANH TIẾP TỤC
SANH
1.
Tham dục: Này Phú Lâu Na, chúng sanh vì tình ân ái kết chặt, thương tưởng
quyến luyến nhau không rời, cho nên trong thế gian, cha mẹ, con cháu tiếp tục
sanh ra không cùng tột, gốc tại lòng tham dục vậy.
2.
Tham sát: Loài nào cũng thương yêu thân mạng, muốn cho mình được sống nên
tham ăn những vật bổ dưỡng. Vì thế mà trong thế gian này, loài mạnh ăn
thịt loài yếu, loài khôn giết loài dại. Bốn loài (noãn, thai, thấp, hóa)
ăn nuốt lẫn nhau, gốc tại lòng tham sát hại.
3.
Tham trộm cướp: Bởi loài người ăn thịt loài vật, loại vật trở lại ăn thịt
người. Người chết làm vật, vật chết làm người, các loài chúng sanh, sanh
sanh tử tử, nối tiếp nhau. Các ác nghiệp đã tạo ra rồi, thì cùng nhau vay
trả, cho đến nghìn đời không tột, gốc tại lòng tham lam trộm cướp.
LƯỢC GIẢI
Loài vật, chúng nó không muốn cho người giết thân mạng nó, mà người lại ỷ sức
mạnh giết hại để ăn, thế nên phạm tội cướp giựt. Có vay cố nhiên phải có
trả; nên giết hại không những phạm tội sát sanh, mà còn phạm cả tội cướp giựt.
*
Loài này cướp
giựt thân mạng loài kia, loài kia giết hại loài này; trả vay, vay trả lẫn nhau,
đến trăm ngàn kiếp không ra khỏi sanh tử.
Trai mê sắc gái, gái thương tình trai, vì tình ân ái thương yêu lẫn nhau, nên
trăm ngàn kiếp bị phiền trược trong vòng luân hồi.
Tóm lại, vì ba nghiệp sát, đạo, dâm làm gốc, nên nghiệp (nhơn) và quả nối nhau,
không bao giờ cùng tận.
Này ông Phú Lâu Na, thế giới, chúng sanh và nghiệp quả ba món điên đảo tương
tục này đều ở trong chơn tâm, vì vô minh vọng động sanh ra “năng phân biệt” và
“sở phân biệt” tương đối, nên vọng thấy có sơn hà đại địa, thế giới và chúng
sanh, rồi tiếp tục sanh hóa, vô cùng hư vọng.
VII.
PHÚ LÂU NA HỎI TIẾP: CHƯ PHẬT ÐÃ CHỨNG ÐƯỢC CHƠN TÂM THANH TỊNH RỒI, VẬY CHỪNG
NÀO NỔI VỌNG TRỞ LẠI
Ông Phú Lâu Na
hỏi Phật: Bạch Thế Tôn, cái chơn tâm của con đã cùng với Phật không khác,
vốn thanh tịnh không tăng không giảm; bỗng nhiên vọng động nổi lên, sanh ra thế
giới và chúng sanh. Vậy các đức Như Lai đã chứng được chơn tâm ấy rồi,
chừng nào vô minh vọng động nổi lên, sanh trở lại thế giới và chúng sanh
nữa?
VIII.
PHẬT DÙNG BA THÍ DỤ ÐỂ GIẢI THÍCH
1.
DỤ NHƯ NGƯỜI LẦM PHƯƠNG HƯỚNG ÐỂ CHỈ RÕ NGỘ RỒI KHÔNG MÊ TRỞ LẠI
Phật dạy
rằng: Này Phú Lâu Na, như người lầm phương hướng, tưởng phía Nam là phía
Bắc. Ông nghĩ sao, cái “mê lầm” ấy nhơn mê mà có, hay nhơn ngộ mà
sanh? Này Phú Lâu Na, không phải nhơn ngộ, mà cũng không phải nhơn
mê. Vì sao? Cái mê không có căn nguyên, thì làm sao nói nhơn mê mà
có. Còn ngộ không thể sanh ra mê được thì sao lại nói nhơn cái ngộ mà
sanh.
Phú Lâu Na,
người kia đương lúc đi lầm đường, nếu có người biết đường chỉ lại cho họ:
đây là phía Nam,
kia là phía Bắc v.v... Vậy từ đó về sau học còn lầm lộn nữa không?
Phú Lâu Na
thưa: Bạch Thế Tôn, người kia không còn lầm lộn nữa.
Phật dạy:
Này Phú Lâu Na, mười phương các đức Như Lai cũng vậy, khi ngộ được chơn tâm
thành Phật rồi, thì không bao giờ mê trở lại làm chúng sanh nữa. Vì cái
mê lầm không thật, rốt ráo chẳng có gốc rễ. Trước kia vốn không mê, nhưng
in tuồng có cái trong cái ngộ (như đám mây che mặt nhựt). Ðến khi giác
ngộ được cái mê, thì cái mê kia tự diệt; cái “giác ngộ” ấy không sanh trở lại
cái mê nữa.
2.
DỤ NHƯ HOA ÐỐM GIỮA HƯ KHÔNG KHI DIỆT RỒI KHÔNG CÒN SANH TRỞ LẠI
Lại nữa, cũng
như người bị nhặm con mắt, thấy có đốm hoa lăng xăng giữa hư không. Ðến
khi hết nhặm rồi thì hoa kia tự hết. Nếu người ấy còn nhìn lại chỗ các
hoa đốm diệt ở nơi hư không kia để trông mong cho hoa sanh trở lại, nếu như ông
thử nghĩ, người đó khôn hay dại?
Phú Lâu Na
thưa: Hư không không có hoa đốm, mà vọng thấy có hoa đốm sanh diệt, thế
đã là điên đảo rồi, huống nữa, trông mong nó sanh trở lại, thật người ấy điên
đảo lắm, không còn nói dại hay khôn nữa được.
Phật nói:
Ông đã hiểu như vậy, tại sao còn hỏi: “Như Lai đã ngộ được chơn tâm thanh tịnh
rồi, vậy chừng nào nổi vọng trở lại, sanh ra sơn hà đại địa nữa?”
3.
DỤ NHƯ VÀNG VÀ CỦI
Cũng như vàng
trong mỏ, khi đào lên đã lọc hết khoáng thành vàng ròng rồi, lúc bấy giờ không
còn trở lại làm khoáng nữa. Và cũng như cây đốt thành tro, không thể trở
lại thành cây nữa được.
Chư Phật cũng
thế, khi chứng được Bồ đề Niết Bàn rồi, không còn vọng động trở lại làm chúng
sanh nữa.
IX.
PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI THỨ HAI
Phật nói:
Phú Lâu Na, như lời ông hỏi: “nước và lửa tại sao chẳng diệt nhau, trái
lại được dung hòa cùng nhau và đều biến khắp cả vũ trụ? Hư không với đất
tánh chất không đồng, tại sao dung biến được?”
Này Phú Lâu
Na! Tất cả các pháp xem về tướng (hiện tượng) của nó, nguyên là hư vọng,
không thể chỉ bày cái gì thật là cái gì được. Nó đã hư vọng không thật mà
ông lại còn hỏi “tại sao nó chẳng diệt nhau”. Như thế chẳng khác nào
người ngồi trông đợi cho cái hoa đốm giữa hư không kia kết đậu thành ra trái,
thì làm sao mà kết đậu cho được!
LƯỢC GIẢI
Như cá hình chớp bóng chiếu trên miếng vải trắng, bởi nó không thật, nên không
cái nào ngại cái nào cả.
*
Còn xem về tánh (bản thể) của các pháp, thì nguyên nó là chơn. Duy có một
thể chơn tâm, nguyên không phải đất, nước, gió, lửa, thì sao lại chẳng dung hòa
nhau được.
X.
PHẬT CHỈ CHƠN TÂM TÙY DUYÊN BIẾN HIỆN
Phú Lâu
Na! Chơn tâm của ông như thế, nếu ông phân biệt hư không thì có hư không
hiện ra, phân biệt đất, nước, gió, lửa, thì đều có đất, nước, gió, lửa hiện ra.
Cũng như hai
người đồng xem một mặt trăng dưới nước. Rồi một người đi qua phía đông và
một người đi qua phía tây, thì hai người đều thấy có mặt trăng đi theo mình cả,
không có chuẩn định.
Ông không thể
hỏi: “Mặt trăng chỉ một, tại sao đi theo cả hai người”; hay là nói “hai
người đi riêng đều thấy có hai mặt trăng, tại sao hiện nay chỉ thấy có một”
(Khi hai người đứng chung một chỗ).
Phú Lâu
Na! Ông nên biết: Vì các pháp hư huyễn, không thể lấy đâu làm bằng
cứ được.
XI.
CHÚNG SANH TRÁI VỚI CHƠN TÂM SÁNG SUỐT
VÀ HIỆP THEO VỌNG TRẦN
Phú Lâu
Na! Các ông vì trái với chơn tâm sáng suốt, mê muội hiệp theo vọng trần,
nên chơn tâm tùy duyên biến hiện ra có hư không thế giới, các thứ trần lao
trong thế gian, cùng khắp cả pháp giới. Vì thế nên ông thấy có gió động,
hư không lặng, mặt nhựt sáng, mây mờ, sắc tướng và hư không lấn nhau, nước và
lửa diệt nhau v.v...
XII.
PHẬT HIỆP VỚI CHƠN TÂM SÁNG SUỐT
Còn ta (Phật)
thì trái với vọng trần, hiệp với chơn tâm thường trụ bất sanh bất diệt, biến
khắp cả pháp giới. Cho nên ta mới được tự tại vô ngại: Ở trong một
hiện ra vô lượng, vô lượng hiệp làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện
nhỏ; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười phương thế giới. Thân
ta bao trùm mười phương hư không vô tận. Trên đầu một mảy lông hiện ra
các cõi nước; ngồi trong hạt bụi, mà chuyển đại pháp luân. Vì ta
diệt hết vọng trần, trở lại với bản tâm thanh tịnh sáng suốt, nên mới được như
vậy.
LƯỢC GIẢI
Vì Phật đã ngộ
chơn tâm thanh tịnh, nên mới được tự tại vô ngại, không còn bị các vật lớn,
nhỏ, nhiều, ít v.v... làm chướng ngại.
Trái lại, chúng
sanh vì mê chơn tâm, hiệp theo vọng trần nên thấy có các vật lớn, nhỏ, rộng,
hẹp chướng ngại.
Bởi tâm có chướng ngại (vọng phân biệt) nên thấy ngoài trần cảnh có
chướng ngại. Nếu trong tâm hết chướng ngại (không vọng) thì không còn
thấy có một vật gì làm chướng ngại cả.