KHỔ ĐAU PHÁT SINH VÀ VẬN HÀNH
NHƯ THẾ NÀO
Hoang Phong biên soan và dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2012
THẬP NHỊ
NHÂN DUYÊN
Lời
giới thiệu của người dịch:
Thập
nhị nhân duyên là một chủ đề quen thuộc, thường được
đề cập và bình giải trong nhiều sách, bài viết cũng như
băng đĩa. Tuy nhiên chúng ta cũng thử tim hiểu xem Phật giáo
Tây phương tiếp cận và giải thích khái niệm này như thế
nào.
Có
thể người đọc cũng sẽ ngạc nhiên đôi chút trên phương
diện thuật ngữ, lý do là các học giả Tây phương nói chung
không nhất thiết dựa vào kính sách bằng Hán ngữ để bình
giải và thông thường thì ngoài những tư liệu bằng tiếng
Hán các tác giả Tây phương còn căn cứ vào các kinh sách
bằng tiếng Phạn và tiếng Pali. Hơn nữa các học giả Tây
phương lại được thừa hưởng một gia tài văn hóa lâu đời
về triết học cũng như những hiểu biết cận đại về khoa
học, do đó kinh sách dịch thuật của họ khá cởi mở, minh
bạch và chính xác, Trong khi đó kinh sách tiếng Việt lại
chịu ảnh hưởng quá nặng nề từ kinh sách Trung hoa đã được
dịch thuật từ nhiều trăm năm cho đến hàng ngàn năm trước.
Thập
nhị nhân duyên trong kinh sách bằng ngôn ngữ Tây phương
được dịch là Mười hai mối dây tương liên
hay Mười hai mối dây lệ thuộc hoặc trói buộc.
Gốc tiếng Phạn của Thập nhị nhân duyên là Dvadasanga pratityasamutpada
hay còn gọi là Dvadasa nidana, nguyên nghĩa của các cụm từ
này là mười hai mối dây tương tác, tương tạo hay tương
liên. Riêng chữ pratityasamutpada còn có nghĩa là sự
tạo tác lệ thuộc hay sự tạo tác do điều kiện mà có.
Người Tây phương dịch chữ pratityasamutpada là
interdependance,
thật hết sức đơn giản và chính xác, còn kinh sách gốc
Hán thì dịch chữ này là Lý duyên khởi.
Thí
dụ trên đây cho thấy một số khác biệt về thuật ngữ
giữa kinh sách Tây phương và kinh sách gốc Hán. Thật vậy,
ngôn ngữ dùng để chuyển tải Đạo Pháp rất quan trọng.
Nếu một ngôn ngữ có cấu trúc ngữ pháp minh bạch, có khả
năng thích ứng với khoa học và triết học hiện đại thì
sẽ có nhiều hy vọng mang Đạo Pháp đến gần với con người
trong các xã hội ngày nay hơn.
Mặt
khác, trên phương diện nội dung thì khái niệm về Thập
nhị nhân duyên là một khái niệm khá khó để nắm
bắt và thấu triệt, vì khái niệm này bao hàm khá nhiều hiện
tượng liên quan đến cả hai thế giới vừa vật-chất và
phi-vật-chất, liên đới với sự hiện hữu của con người
cả trên phương diện thể xác lẫn tâm thần. Sự tổng kết
hay tổng hợp ấy lại dựa vào thật nhiều quy luật khác
nhau như nguyên nhân hậu quả, sự tương liên (pratityasamutpada
- lý duyên khởi), sự tái sinh, hiện tượng vô thường, v.v...
Thật ra thì mọi hiện tượng trong vũ trụ đều tùy theo cơ
duyên mà biến động không ngừng, không nhất thiết phải
theo chiều dọc hay chiều ngang. Tuy nhiên Đức Phật đã chọn
ra mười hai biến động trực tiếp nối kết nhau thành một
vòng tròn để chỉ cho chúng ta nhìn thấy một cách cụ thể,
trực tiếp và đơn giản về cách thức hiện hữu của chính
chúng ta trong thế gian này. Mười hai chiếc khoen của sợi
dây xích đó đang tác động để buộc chặt sự hiện hữu
của chúng ta và kìm giữ chúng ta bất tận trong cõi ta bà.
Chu
kỳ liên kết mười hai hiện tượng thường được cụ thể
hóa bằng một bánh xe vẽ trên một tấm tranh gọi là Thăng-ka
(thanka). Bánh xe đó mang tên là Bánh xe của sự hiện
hữu hay Bánh xe luân hồi. Hình vẽ trên
trên tấm Thăng-ka rất phức tạp vì bao hàm thật nhiều chi
tiết. Ngoài tính cách thiêng liêng biểu hiện cho Đạo Pháp,
tấm Thăng-ka còn có mục đích giúp người Phật tử nhìn
vào đó để tìm hiểu và học hỏi về Phật pháp mà không
cần phải biết đọc, chỉ cần nghe giảng một lần là hiểu,
nếu không nhớ hết thì nhìn vào những biểu tượng của
tấm Thăng-ka sẽ nhớ lại ngay. Nếu có nhiều thì giờ thì
có thể ngồi xem để chú tâm vào đấy mà chiêm nghiệm từng
chi tiết một.
Phần
thuyết giảng dưới đây là một bài lược dịch từ hai buổi
phát sóng trên đài truyền hình France 2 của nước Pháp, thuộc
chương trình hàng tuần về Phật giáo do Tổng hội Phật giáo
Pháp phụ trách. Hai buổi phát sóng được tổ chức vào hai
ngày chủ nhật 5 và 12 tháng 8, năm 2007. Người thuyết giảng
là ông Pierre Arène, một khảo cứu gia chuyên ngành về Phật
giáo thuộc Trung Tâm Quốc gia Khảo cứu Khoa học của Pháp
(Centre National de la Recherche Scientifique - gọi tắt là CNRS),
Ông đồng thời cũng vừa là khảo cứu gia và là thành viên
ban giảng huấn của trường Collège de France, một cơ quan giáo
dục và khảo cứu hàng đầu của nước Pháp, quy tụ các
học giả, triết gia và khoa học gia lỗi lạc nhất trong nước.
Hơn thế nữa ông còn giữ chức chủ tịch Ủy ban Nghiên cứu
Phật Pháp của hệ thống tu viện do đại sư Tây tạng là
Dagpo Rimpoché thiết lập tại Pháp và Âu châu. Vì thế thiết
nghĩ những gì do ông thuyết giảng dưới đây là kết quả
nghiên cứu rất khoa học và nghiêm chỉnh. (Hoang Phong)
 Cô
Aurélie Godefroy
|
 Ông
Pierre Arène
|
Buổi
phát sóng ngày 5 tháng 8 năm 2007
Cô
Aurélie Godefroy : Hôm nay chúng ta sẽ trình bày về chủ
đề « Mười hai mối dây tương liên », đó là những gì
sẽ chi phối số phận của chúng ta trong kiếp sau. Mười hai
mối dây tương liên là một trong những khái niệm đặc thù
và quan trọng trong giáo lý nhà Phật, tuy nhiên muốn tìm hiểu
thấu đáo và nắm vững sự liên tục của mười hai mối
dây không phải là dễ. Vì lý do đó mà chúng tôi quyết định
dành ra hai buổi phát sóng cho chủ đề này. Vai trò của mười
hai mối dây tương liên là gì? Khái niệm đó muốn nói lên
điều gì? Tại sao sự hiểu biết thấu đáo về mười hai
mối dây tương liên lại có thể giúp ta tự giải thoát khỏi
khổ đau? Ông Pierre Arène được mời đến nói chuyện hôm
nay sẽ giải đáp cho chúng ta những thắc mắc vừa được
nêu lên.
Xin
chào ông Pierre Arène. Ông là khảo cứu gia thuộc Trung Tâm
Quốc gia Khoa Học Pháp (CRNS), chuyên ngành về Phật Pháp, đồng
thời ông cũng là khảo cứu gia của trường Collège de France,
và hiện ông cũng giữ chức Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu
của Trung tâm Phật giáo Tây tạng Dagpo Rimpoché. Để khởi
đầu cho buổi phát sóng hôm nay, chúng tôi xin ông vui lòng
giải thích cho chúng tôi các thuật ngữ liên quan đến mười
hai mối dây tương liên dùng để giải thích về chuỗi liên
kết chính và các chuỗi liên kết phụ thuộc, cũng như toàn
thể chu kỳ luân hồi (trong phần thảo
luận dưới đây không thấy giải thích chi tiết về các chuỗi
liên kết phụ, có lẽ vì thời gian trình bày có giới hạn?).
Ông
Pierre Arène: Đối với chuỗi dài liên kết chính thì hiện
tượng tương liên kết nối mười hai mối dây với nhau tương
đối cũng dễ hiểu, mỗi mối dây đều phải lệ thuộc vào
một mối dây khác xảy ra trước đó, và phần nó thì sẽ
làm phát sinh ra mối dây tiếp theo sau. Hiện tượng nối kết
như thế cũng xảy ra trong các chuỗi liên kết phụ thuộc,
và riêng các chuỗi liên kết phụ thuộc thì cũng tương kết
với nhau thật chặt chẽ. Đối với bánh xe luân hồi hay còn
gọi là chu kỳ hiện hữu thì có đôi chút khác biệt, mười
hai mối dây tương liên biểu thị cho một sự vận hành toàn
diện đưa đến sự tái sinh trong cõi ta bà. Và ý nghĩa của
ta bà là quay trở lại với sự sống này ngoài ý muốn của
ta, hết kiếp này đến kiếp khác, tiếp tục như thế và
sẽ còn tiếp tục như thế. Sức mạnh của nghiệp và các
yếu tố bấn loạn là các động cơ thúc đẩy sự tái sinh
đó.
Cô
A.G.: Có đúng đấy là những gì được trình bày trong
tấm tranh gọi là bánh xe hiện hữu hay không?

Bánh
xe hiện hữu còn gọi là bánh xe luân hồi.
[Thật
ra sơ đồ trên đây rất phức tạp và phong phú về ý nghĩa,
gần như là một quyển kinh thu gọn, nếu muốn giải thích
đầy đủ phải cần thật nhiều thì giờ]
Ông
P. Arène: Bánh xe hiện hữu hay luân hồi được chia thành
sáu khu vực phân bố chung quanh một trung tâm, đại khái giống
như hình ảnh một cái cối xay. Sáu khu vực tượng trưng cho
sáu thể dạng hiện hữu: đó là cõi thiên, cõi bán-thiên
hay thánh nhân - tùy theo sách dịch -, cõi người, cõi súc sinh,
cõi ngạ quỷ và cõi địa ngục. Trục của bánh xe tượng
trưng cho hình ảnh quay tròn của sự hiện hữu, khu vực của
trục thường được biểu thị bởi ba con vật là: con heo,
con rắn và con gà trống.
Cô
A.G.: Ba con vật ấy là biểu tượng của ba thứ nọc độc
(tam độc: tham, sân, si)
có đúng thế không, thưa ông?
Ông
P. Arène: Đúng, đấy là ba thứ nọc độc. Nhưng tại sao
lại gọi là nọc độc? Bởi vì chúng sẽ mang lại những
hậu quả tiêu cực. Con heo tượng trưng cho vô minh và vô minh
là nguyên nhân tạo ra thù ghét và bám víu, thù ghét và bám
víu thì được tượng trưng bởi con rắn và con gà (trên
biểu đồ, ba con vật cắn đuôi nhau và quay tròn).
Vô minh cũng là nguyên nhân tiên khởi làm phát sinh ra toàn
bộ mười hai mối dây tương liên. Chính vì vô minh mà chúng
ta phải tái sinh vào cõi ta bà, dầu cho tái sinh trong một hoàn
cảnh tốt đẹp hay tệ hại cũng vậy.
Cô
A.G.: Xin ông vui lòng giải thích toàn bộ mười hai mối
dây tương liên trước khi phân tích chi tiết từng mối dây
một.
Ông
P. Arène: Nếu thế thì phải bắt đầu từ phần bên trên
của bánh xe: phần này tượng trưng cho vô minh (mối
dây 1: vô minh, avidya). Kế đó là nghiệp
khai mào hay là nghiệp phát khởi - tùy theo cách dịch từ tiếng
Phạn hay tiếng Tây tạng (mối dây
2: hành, tức là sự tạo nghiệp, samskara).
Tiếp theo đó là tri thức (mối dây
3: thức, vijnana), tri thức lại làm
phát sinh ra mối dây kế tiếp gọi là danh xưng và hình tướng
(mối dây 4: danh sắc, namarupa).
Tiếp theo là sáu cơ sở hay sáu lãnh vực hiểu biết (mối
dây 5: lục căn, tức các khả năng giác cảm, ayatana), sáu
lãnh vực hiểu biết tạo ra sự tiếp xúc (mối
dây 6: xúc, sparsa), tiếp xúc tạo ra
sự cảm nhận (mối dây 7: thụ, sự
cảm biết, vedana), cảm nhận hay cảm
biết kéo theo sự thèm khát (mối dây
8: ái, trsna), sự thèm khát sinh ra bám
víu (mối dây 9: thủ, chiếm giữ, upadana), bám víu làm phát
sinh sự hiện hữu (mối dây 10: hữu,
sinh khởi, bhava), và chính sự hiện
hữu sẽ đưa đến sự sinh (mối dây
11: sinh, jati), và sau sự sinh thì nhất
định phải già và chết (mối dây
12: lão tử), toàn bộ chuỗi dài níu
kéo đó gọi là mười hai mối dây tương liên.
Cô
A.G.: Đến đây chúng ta trở lại tìm hiểu từng mối dây
một và bắt đầu bằng mối dây thứ nhất tượng trưng cho
vô minh nguyên thủy. Tại sao lại gọi là nguyên thủy?
Ông
P. Arène: Có ít nhất hai lý do để gọi sự vô minh ấy
là nguyên thủy. Lý do thứ nhất là nó khơi mào và làm phát
sinh ra toàn bộ mười hai mối dây liên kết.
Cô
A.G.: Vô minh được tượng trưng như thế nào trên bánh
xe luân hồi?
Ông
P. Arène:
Vô minh được tượng trưng bởi một bà già mù lòa chống
gậy đang mò mẫm đi. Hình ảnh bà cụ được trình bày trên
phần cao nhất của bánh xe.
Cô
A.G.: Hình ảnh đó muốn nói lên điều gì?
Ông
P. Arène: Sự mù lòa của bà cụ già tượng trưng cho sự
u tối, tức là đặc tính của vô minh. Chiếc gậy của bà
cụ tượng trưng cho sự cảm nhận sai lầm về hiện thực.
Sai lầm, bởi vì cây gậy chỉ giúp cho bà cụ nhận biết
được đường đi, nhưng sự nhận biết đó rất giới hạn
và phiến diện.
Cô
A.G.: Có hai thứ vô minh. Vậy xin ông trình bày chi tiết
hơn.
Ông
P. Arène: Vô minh thứ nhất gọi là vô minh nguyên nhân,
loại vô mình này cũng khá dễ hiểu. Dầu sao thì vô minh nguyên
nhân cũng chỉ giữ tầm quan trọng thứ yếu, chỉ cần trình
bày sơ lược cũng đủ. Đó là loại vô minh liên quan đến
sự kiện không phân biệt được một nguyên nhận nào hay
một hành động nào sẽ mang lại hậu quả tốt, cũng không
phân biệt được một hành động nào hay một nguyên nhân
nào sẽ mang lại một hậu quả xấu. (câu
trả lời thật đơn giản nhưng hết sức cao siêu và cô đọng,
đây là định nghĩa về nghiệp mà chúng ta thường hiểu và
thường được nghe giảng: hành động tốt sinh ra quả tốt,
hành động xấu sinh ra quả xấu. Tuy nhiên trên thực tế thì
ta hành động nhưng không hề ý thức được hậu quả sẽ
phát sinh từ hành động ấy sẽ ra sao, chẳng hạn như những
người hung dữ không ý thức được hành động của mình,
những người đồ tể vừa làm việc vừa vui đùa hay trong
đầu đang nghĩ đến một chuyện khác. Đó là một cách tạo
nghiệp tiêu cực mà không biết là minh đang tạo nghiệp tiêu
cực)
Cô
A.G.: Còn loại vô minh thứ hai là gì?
Ông
P. Arène: Loại vô minh thứ hai rất quan trọng, bởi vì
nó giữ vai trò chủ động đưa ta tái sinh trở lại trong cõi
ta bà dưới một thể dạng thuận lợi hay bất thuận lợi.
Loại vô minh đó gọi là vô minh về sự nhận biết sai
lầm về cái tôi, cái ngã, về cái chủ thể gọi là tôi.
Có thể kể ra rất nhiều thí dụ trong đời sống hằng ngày.
Thí dụ như ta đang đứng trên miệng một hố sâu, hay trên
mép mái nhà và ta sợ sẽ bị trượt chân, ta có cảm giác
như sắp ngã đến nơi. Hoặc một thí dụ khác, trong một
tình huống nào đó ta bị vu khống trước đám đông là đã
phạm vào một hành động không tốt. Trong hoàn cảnh đó ta
sẽ cảm nhận được một cái tôi thật mạnh (giận
dữ), sự cảm nhận đó xâm chiếm
toàn bộ tâm thức ta, tất cả mọi suy tư và khả năng cảm
nhận của ta đều bị tràn ngập và ta không còn để ý đến
bất cứ thứ gì khác nữa, kể cả thân xác và tâm thức
của chính mình. Các thí dụ vừa kể cho thấy sự nhận biết
sai lầm về cái tôi, sự nhận biết ấy mang tính cách bẩm
sinh và sâu kín, thông thường nó chỉ phát hiện trong các
tình huống như vừa kể trên. Tuy thế sự nhận biết về
cái tôi theo cách đó lại đứng ra điều khiển mọi hành
động của chính mình, (đây là loại
vô minh dính liền với bản năng. Thí dụ thứ nhất mà ông
P. Arène nêu lên liên quan đến bản năng sợ chết khi đứng
trên mái nhà và thí dụ thứ hai liên quan đến bản năng tự
vệ tức là bảo vệ cái tôi hay cái ngã của mình. Nếu một
cá thể sinh ra làm người thì mang bản năng của con người,
nếu sinh ra làm súc vật thì mang ban năng của một con thú,
đó là những gì liên quan đến vô minh từ kiếp trước tức
là vô minh nguyên thủy. Vô minh nguyên thủy bị chi phối bởi
bản năng đứng ra điều khiển mọi hành động của ta để
tạo nghiệp buộc chặt ta vào thế giới luân hồi).
Cô
A.G.: Đúng vậy, chính đó là nguyên nhân làm phát sinh ra
mối dây tương liên thứ hai mà người ta gọi là nghiệp khai
mào hay là nghiệp phát khởi. Vậy loại nghiệp đó là gì?
Ông
P. Arène: Tôi muốn được trình bày thêm những gì đã
nêu lên trên đây liên quan đến sự nhận biết sai lầm về
cái tôi. Nếu ta xem cái ngã hay cái tôi hiện hữu một cách
tuyệt đối thì ta thường có xu hướng gán cho nó một vai
trò quá lớn. Ta sẽ rơi vào tình trạng trân quý cái
tôi ấy quá đáng, và như thế sẽ có thể làm tổn hại đến
người khác. Cái Tôi làm phát sinh ra Kẻ khác, (tức
không phải là tôi). Sự cảm nhận
ấy sẽ chi phối mọi hành động của ta trong mục đích bảo
vệ lấy cái ngã của chính ta, nói một cách khác là ta cố
gắng tạo ra những hoàn cảnh ưu thế và thuận lợi nhất
cho cái tôi của riêng mình, không cần biết là cách xử thế
đó có gây ra thiệt thòi cho người khác hay không.
Cô
A.G.: Có nghĩa là các phản ứng đó sẽ phát lộ qua các
hành động của chính mình?
Ông
P. Arène: Đúng như thế, đấy là cách thúc đẩy ta hành
động. Những gì vừa trình bày có lẽ đủ để trả lời
cho câu hỏi mà cô vừa nêu lên liên quan đến mối dây tương
liên thứ hai, gọi là nghiệp khơi mào hay phát khởi, (có
nghĩa là cái tôi bàng bạc và sâu kín trong mỗi cá thể thúc
đẩy và chi phối mọi hành động của cá thể ấy để tạo
ra nghiệp, và nghiệp đó gọi là nghiệp khơi mào và chúng
sẽ phát khởi để đưa đến cái chết và sự tái sinh)
.
Cô
A.G.: Các loại nghiệp đó được tượng trưng như thế
nào trên sơ đồ bánh xe luân hồi?
Ông
P. Arène: Nghiệp khơi mào hay phát khởi được trình bày
tiếp theo sau hình ảnh mù lòa của bà cụ già. Nghiệp phát
khởi được tượng trưng bởi một người thợ đồ gốm
đang nắn một cái bình trên một bàn quay. Hình ảnh đó tượng
trưng cho nghiệp mà chính mình đang uốn nắn để đưa đến
sự hiện hữu của chính mình trong tương lai.
Cô
A.G.: Vậy nghiệp phát khởi sẽ tạo ra những vết hằn
in đậm trong tri thức của ta, và tri thức là mối dây thứ
ba trong mười hai mối dây tương liên. Vậy vai trò của tri
thức là gì?
Ông
P. Arène: Mối dây thứ ba là kết quả phát sinh từ hai
mối dây thứ nhất. Người ta gọi mối dây này là tri thức
và tượng trưng nó bằng hình ảnh một con khỉ trên biểu
đồ bánh xe luân hồi. Tại sao lại tượng trưng bằng một
con khỉ? Bời vì tâm thức ta chưa buông vật này đã nắm
bắt vật khác, giống như con khỉ nhảy hết cành này sang
cành khác. Cái tri thức lạ lùng đó thật sự là cái gì?
Chẳng qua đấy chỉ là những khoảnh khắc liên tục trên
dòng tiếp nối của tâm thức ta và trong những khoảnh khắc
liên tục ấy nghiệp tác động để lưu lại những vết hằn.
Vậy chúng ta đã thấy rõ là mối dây ấy (tức
mối dây thứ 3: tri thức) sinh ra từ
tác ý (tức mối dây thứ 2: hành,
sự tạo nghiệp) và vai trò của nó
là lưu giữ lại các vết hằn do nghiệp tạo ra. Có thể nêu
lên thí dụ như sau, chẳng hạn như ta đi câu cá, đây chỉ
là một thí dụ thôi, sẽ có hai trường hợp xảy ra, một
là sau khi câu được cá ta sẽ thả con cá xuống nước trở
lại vì ta không muốn tạo ra đau khổ cho nó, (cũng
xin nói thêm là trong các nước Âu châu có nhiều người thích
câu cá, nhưng khi câu được cá thì lại thả chúng xuống
nước trở lại. Câu cá đối với họ chỉ là thú vui hay
"thề thao" mà thôi). Hoặc ngược lại
ta rất thích ăn cá chiên và điều đó sẽ xui khiến ta cứ
giữ con cá lại. Trong trường hợp này thì nhất định vào
một thời điểm nào đó trong tâm thức ta sẽ xảy ra
ý định để cho con cá chết. Ý định đó là một tác ý:
có nghĩa là tâm thức ta cố tình giữ lại con cá để giết
nó, tác động do tác tác ý ấy gây ra sẽ lưu lại một vết
hằn của nghiệp trên dòng tri thức của ta, và nhất định
đấy là một vết hằn mang tính cách tiêu cực.
Cô
A.G.: Và đó cũng là những gì sẽ làm phát sinh ra danh xưng
và hình tướng (tức mối dây thứ
4: danh sắc), mối dây này được tượng
trưng trên biểu đồ bánh xe luân hồi bằng hai người đang
ngồi trên một chiếc thuyền. Vậy biểu tượng đó có ý
nghĩa ra sao?
Ông
P. Arène: Trước hết là có hai người: một người tượng
trưng cho danh xưng, một người cho hình tướng. Tiếp theo là
hình ảnh con thuyền tượng trưng cho sự chuyên chở ta từ
sự hiện hữu này sang sự hiện hữu khác, biến thân xác
này của ta thành thân xác của một cá thể mà ta sẽ trở
thành trong tương lai, từ khi sinh cho đến lúc chết.
Cô
A.G.: Vậy vai trò của mối dây ấy là gì?
Ông
P. Arène: Có thể xem mối dây ấy (danh
xưng và hình tướng) là điểm khởi
đầu cho một sự hiện hữu mới, một con người mới vừa
được sinh trở lại. Vậy phải định nghĩa mối dây ấy
như thế nào? Hình tướng thì rất dễ hiểu. Danh xưng và
hình tướng nói chung thì đại khái có thể hiểu như là năm
thứ cấu hợp (ngũ uẩn). Một trong năm cấu hợp liên quan
đến hình tướng tức là thân xác, thân xác đó hình thành
từ sự kết hợp giữa hai tế bào của cha và của mẹ. Bốn
cấu hợp còn lại liên quan đến tâm thức: đó là các cấu
hợp thuộc giác cảm, tác ý, sự nhận biết và tri thức,
nói một cách tổng quát thì đấy là tâm thức của ta. Và
đó chính là thành phần tâm linh bám sâu vào các tế bào của
cha và mẹ thuộc mối dây sinh (thụ thai). Một cách đơn giản
người ta có thể phân biệt thành hai thành phần khác nhau
là hình tướng và tâm thức, cả hai tạo ra thể dạng phôi
khi mới được hình thành. Đó là điểm khởi đầu đánh
dấu sự hiện hữu của một cá thể.
Cô
A.G.: Mối dây sau cùng mà chúng ta sẽ trình bày trước
khi chấm dứt buổi thảo luận hôm nay là mối dây thuộc lãnh
vực tri thức (mối dây thứ 5: lục
căn, tức sáu giác cảm hay sáu khả năng hiểu biết).
Xin ông hãy giải thích mối dây này liên quan đến mối dây
danh xưng và hình tướng như thế nào.
Ông
P. Arène: Cũng dễ hiểu thôi vì mối dây liên quan đến
sự hiểu biết chỉ là quá trình phát triển liên tục và
tuần tự của một cá thể tái sinh bắt đầu từ thể dạng
phôi. Mối dây này được tượng trưng bằng một căn nhà
trong biểu đồ của bánh xe hiện hữu, căn nhà có sáu cửa
sổ tượng trưng cho sáu cơ sở hiểu biết, hay sáu khả năng
giác cảm, gồm có thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác,
xúc giác và tri thức. Sáu khả năng giác cảm đó bắt đầu
phát tiển từ tuần lễ thứ chín sau khi thụ thai và kéo dài
cho đến khi đầy đủ khả năng ghi nhận được những biến
đổi phát sinh từ sự tiếp xúc với ngoại cảnh, chẳng hạn
như sự va chạm với một vật thể nào đó.
Cô
A.G.: Xin cám ơn ông thật nhiều.
Buổi
phát sóng ngày 12 tháng 8 năm 2007
Cô
A.G.: Xin ông có thể nào tóm lược lại thật ngắn gọn
năm mối dây tương liên đã được trình bày trong buổi phát
sóng trước đây.
Ông
P. Arène: Mối dây thứ nhất là vô minh, mối dây này đương
nhiên có nghĩa là sự cảm nhận hay nắm bắt sai lầm về
cái tôi. Mối dây thứ hai là nghiệp khai mào hay phát
khởi, sở dĩ gọi là khai mào hay phát khởi là vì nghiệp
này sẽ mang lại một kiếp sống mới. Mối dây thứ ba gọi
là tri thức, gồm có hai thành phần: thành phần thứ nhất
là tri thức thuộc vào giây phút xảy ra nguyên nhân (tức là
giây phút chi phối bởi xung động của nghiệp có sẵn trong
kiếp trước) và phần thứ hai là tri thức liên quan đến
hậu quả (tức là tri thức thuộc
vào giai đoạn tái sinh. Tóm lại tri thức giữ vai trò nối
liền hai kiếp sống, là một động lực phát sinh từ xung
năng của nghiệp để thúc đẩy sự tái sinh, hết kiếp này
đến kiếp khác). Tri thức thuộc vào
kiếp tái sinh hình thành ngay khi xảy ra sự thụ thai. Điều
đó cho thấy nếu muốn cho chuỗi liên kết của mười hai
mối dây được diễn tiến đầy đủ thì phải cần có hai
kiếp sống nối tiếp nhau. Sau khi phần tri thức liên quan đến
hậu quả phát sinh thì cũng sẽ phát sinh danh xưng và hình
tướng tức là thể dạng phôi, đó là giai đoạn đầu tiên
của một cá thể sẽ được sinh ra sau này. Sau khi đã trở
thành danh xưng và hình tướng thì các khả năng giác cảm
của một cá thể cũng sẽ theo đó mà phát triển, bắt đầu
từ tuần lễ thứ chín sau khi thụ thai cho đến lúc mối dây
kế tiếp bắt đầu hình thành (mối
dây thứ 6: xúc), tức là lúc xảy
ra một sự tiếp xúc của các khả năng giác cảm với một
vật thể nào đó, sự tiếp xúc ấy tạo ra một sự biến
đổi mà giác cảm có thể ghi nhận được.
Cô
A.G.: Điều đó làm phát sinh ra mối dây thứ sáu tức là
mối dây liên quan đến sự tiếp xúc. Xin ông cho biết mối
dây này được tượng trưng như thế nào trên sơ đồ của
bánh xe luân hồi?
Ông
P. Arène: Mối dây thứ sáu được tượng trưng bởi một
người đàn ông và một người đàn bà đang ôm nhau. Sự tiếp
xúc thể xác đó tuợng trưng cho sự kết hợp giữa một vật
thể và một cơ quan giác cảm liên quan trực tiếp với khả
năng tri thức liên hệ (vật thể,
xúc giác và tri thức về xúc giác),
sau khi hội đủ ba thành phần như vừa kể thì sự tiếp xúc
sẽ diễn đạt vật thể ấy theo các dạng thức khác nhau
(tức là mối dây thứ bảy: thụ,
hay là sự cảm biết) như thích thú,
khó chịu hay trung hòa.
Cô
A.G.: Tuy nhiên ngay trong lúc đó người ta chưa có thể diễn
đạt được (trong giai đoạn ghi nhận của mối dây thứ sáu),
bởi vì sự cảm biết chưa phát sinh?
Ông
P. Arène: Đúng là như thế. Phân biệt được hai thể dạng
này cũng không phải là dễ, bởi vì trên thực tế mối dây
tiếp xúc chỉ là một thứ chất liệu để tiếp nhận một
vết hằn in lên đó mà thôi, sau đấy thì vết hằn mới được
diễn đạt thành thích thú, khó chịu hay trung hòa.
Cô
A.G.: Sự cảm nhận (hay cảm biết)
sẽ xảy ra trong thời điểm này, và đó là mối dây thứ
bảy, vậy mối dây này sẽ được tượng trưng như thế nào
trên biểu đồ bánh xe luân hồi?
Ông
P. Arène: Sự cảm nhận hay cảm biết được tượng
trưng bởi một người bị một mũi tên đâm vào mắt. Đó
là một cảm giác thật mạnh và nhất định sẽ gây ra khó
chịu, điều đó cũng ngụ ý nêu lên ba loại giác cảm khác
nhau: thích thú, khó chịu và trung hòa. Đến đây xin trở lại
yếu tố liên quan trực tiếp đến sự cảm nhận. Thật ra
thì sự cảm nhận vừa là một yếu tố tâm thần lại vừa
là một thể dạng có tính cách cấu hợp, tuy nhiên để đơn
giản hóa sự phức tạp này chúng ta sẽ thu hẹp ý nghĩa của
sự cảm nhận trong lãnh vực tâm thần mà thôi, vậy chức
năng của nó là nhận biết một vật thể theo ba dạng thức
cảm nhận trên đây (thích thú, khó chịu, trung hòa). Vậy
có thể hiểu là nghiệp khi đã chín sẽ liên đới tạo ra
những dạng thức cảm nhận khác nhau, có nghĩa là mỗi dạng
thức cảm nhận là kết quả mang lại từ một thứ nghiệp
nào đó đã được tích lũy từ trước. Dạng thức cảm nhận
thích thú liên đới với nghiệp tích cực, dạng thức cảm
nhận khó chịu liên đới với nghiệp tiêu cực và đối với
dạng thức cảm nhận trung hòa thì vết hằn của nghiệp cũng
mang tính cách trung hòa.
Cô
A.G.: Đến đây thì chúng ta sẽ chuyển sang lãnh vực của
mối dây thứ tám là sự thèm khát (ái),
thèm khát không còn là một yếu tố tâm thần nữa mà đã
chuyển sang một thứ gì khác, có phải thế không thưa ông?
Ông
P. Arène: Thèm khát là một hình thức của bám víu và bám
víu vẫn còn là một yếu tố tâm thần, tuy nhiên thuộc vào
một cấp bậc khác hơn, nếu có thể nói như thế.
Cô
A.G.: Vậy yếu tố này được tượng trưng như thế nào?
Ông
P. Arène: Sự thèm khát được tượng trưng bằng một người
đang uống nước, có một số bình luận gia cho là đang uống
rượu. Tại sao lại là rượu? Bởi vì rượu không làm hết
khát mà chỉ làm cơn khát sẵn có trở nên gay gắt thêm.
Cô
A.G.: Chẳng qua đấy chỉ là những gì đặc thù của thế
giới ta bà, tức là dục vọng này làm phát sinh ra dục vọng
khác?
Ông
P. Arène: Đúng như thế. Sự thèm khát quái lạ đó thật
ra chỉ là một hình thức bám víu, có thể nói đấy là một
cách tập trung và tác động. Thi dụ đối với một giác cảm
tích cực thì sẽ sinh ra sự ham muốn được kéo dài thêm
giác cảm ấy, đối với một giác cảm tiêu cực thì mong
muốn làm sao có thể tránh được nó, đối với một giác
cảm trung hòa thì mong muốn nó đừng hóa thành tệ hại. Sự
thèm khát giữ một vai trò thật quan trọng mà chúng ta đã
nêu lên phớt qua trong phần trên đây khi đề cập đến sự
chuyển tải các vết hằn của nghiệp, mang lại sự tái sinh
và sự hình thành của tri thức hậu quả. Tại sao lại như
thế? Bởi vì như chúng ta đã biết, sự thèm khát và
tham lam quá độ là những gì đã tiếp tay nuôi dưỡng cho
vết hằn của nghiệp.
Cô
A.G.: Vậy căn cứ vào sự kiện đó chúng ta cũng có thể
bảo rằng mối dây tiếp theo là sự chiếm giữ (mối
dây thứ 9: thủ), sẽ liên kết với
mối dây thèm khát (mối dây thứ 8:
ái), tuy nhiên vẫn có một sự khác
biệt khá lớn giữa hai mối dây đó, có phải như thế không,
thưa ông?
Ông
P. Arène: Vâng, đúng là một sự tiếp nối của mối dây
thèm khát mà người ta gọi là tham lam (dục
vọng), mối dây của sự chiếm giữ
được tượng trưng bằng một người đàn bà hay đàn ông,
hoặc một con khỉ đang cướp đoạt một trái cây. Cướp
đoạt có nghĩa là chiếm giữ và trong trường hợp đó chủ
thể chiếm giữ hoàn toàn bị thu hút bởi đối tượng, chính
đó là điểm khác biệt so với sự thèm khát đơn thuần,
bởi vì sự thèm khát đơn thuần trong mối dây trước chỉ
là một hình thức mong muốn kéo dài sự cảm nhận thích thú,
tức là còn thuộc trong lãnh vực của giác cảm (không
cần đòi hỏi đối tượng phải là sở hữu của mình).
Cô
A.G.: Trong khi đó thì tham lam là một hình thức thúc đẩy
muốn chiếm đoạt đối tượng tức là những giác cảm
đó, có phải thế không thưa ông?
Ông
P. Arène: Đúng là như thế. Tham lam có nghĩa là bám víu
vào vật thể tạo ra giác cảm, có nghĩa là nhắm thẳng vào
vật thể bám víu mà quên đi không còn trực tiếp chú ý đến
các giác cảm nữa.
Cô
A.G.: Vậy khi các vết hằn của nghịệp đã chín muồi
thì sẽ chuyển sang mối dây tương liên của sự hình thành
(mối dây thứ 10: hữu, sinh khởi). Tại sao mối dây này là
một mối dây có tầm quan trọng lớn lao, và người ta đã
tượng trưng nó như thế nào?
Ông
P. Arène: Sự hình thành là giai đoạn cuối cùng của quá
trình níu kéo, có nghĩa là trong giai đoạn này nghiệp khơi
mào dưới dạng thể một vết hằn đã chín muồi sau khi được
nuôi dưỡng bởi sự thèm khát và sự tham lam như vừa được
đề cập trên đây, nó sẽ đạt được đầy đủ khả năng
để tạo ra một sự sinh mới tức là tái sinh, và khả năng
tạo ra một sự sinh mới gọi là mối dây hình thành (mối
dây thứ 10: hữu), một số học giả
còn dịch mối dây hình thành (devenir)
là mối dây hiện hữu (existence).
Sự hình thành được tượng trưng bởi một người phụ nữ
mang thai. Quả thật không có cách tượng trưng nào hay hơn,
bởi vì hình ảnh đó cho thấy một cá thể đang được hình
thành.
Cô
A.G.: Vậy tiếp theo đó là mối dây gọi là sinh, tức là
người phụ nữ sẽ hạ sinh ?
Ông
A.G.: Mối dây gọi là sinh có một đặc điểm riêng: nó
khởi sự từ lúc tri thức thâm nhập vào các tế bào của
cha mẹ (tinh trùng và noãn cầu).
Sự sinh sẽ khởi sự cùng lúc với sự hình thành của danh
xưng và hình tướng (tức là thụ
thai). Thật ra thì đấy chỉ là sự
kết hợp của các cấu thể sẵn có (tri
thức, tinh trùng và noãn cầu). Những
gì đặc thù trong mối dây tương liên này là sự diễn biến
liên tục từ khi bắt đầu xảy ra biến cố sinh (thụ
thai) kéo dài cho đến biến cố chết.
Cô
A.G.: Vậy có phải vẫn còn nằm trong lãnh vực của mối
dây thứ 11?
Ông
P. Arène: Đúng như thế, tất cả mọi người trong chúng
ta đều đang bị vướng mằc trong mối dây thứ 11, kể cả
cô và cả tôi trong lúc này.
Cô
A.G.: Vậy tất cả rồi sẽ phải chuyển sang mối dây tương
liên thứ mười hai: tức là sự già nua, cái chết và khổ
đau. Tại sao mối dây này lại được xem là khoen cuối cùng
trong toàn bộ sợi dây xích tương liên?
Ông
P. Arène: Thật hết sức hiển nhiên, có sinh tất có tử.
Vậy già nua và cái chết thật sự là gì? Trên thực tế thì
sự già nua bắt đầu ngay sau khi thụ thai, sự già nua đó
không giống với sự già nua mà chúng ta thường hiểu, vì
thông thường chúng ta cho rằng sự già nua chỉ có thể xảy
ra sau giai đoạn trưởng thành. Đối với Phật giáo thì sự
già nua khởi sự ngay từ khoảnh khắc thứ hai sau khoảnh khắc
thứ nhất là sự thụ thai. Tế bào của cha và mẹ kết hợp
để tạo ra hình tướng và có thể gọi đấy là thân xác,
trong quá trình phát triển của cấu hợp hình tướng các biến
dạng sẽ phát sinh theo và cứ thế mà tiếp tục cho đến
giai đoạn chót gọi là sự già nua. Còn cái chết thì có nghĩa
là sự hủy hoại của cấu hợp hình tướng hay thân xác.
Cô
A.G.: Cần phải có bao nhiêu kiếp sống để hoàn tất toàn
bộ một chu kỳ như thế?
Ông
P. Arène: Cần phải có ít nhất hai kiếp sống, điều này
đã được nói đến trước đây. Tri thức thuộc giai đoạn
hậu quả (tái sinh)
chỉ có thể hình thành khi bắt đầu một kiếp sống tiếp
theo sau. Cũng cần phải hiểu là giữa hai giai đoạn tri thức
nguyên nhân (tạo nghiệp)
và tri thức hậu quả (tái sinh)
cũng có thể xảy ra nhiều kiếp sống (trung
gian). Khi nói đến hai kiếp sống thì
đấy là hai kiếp sống trong cùng một chu kỳ. Có nghĩa là
tri thức của ta sẽ gồm có hai phần: tri thức của giai đoạn
nguyên nhân và tri thức của giai đoạn hậu quả. Giữa hai
giai đoạn tri thức đó, nếu như vết hằn của nghiệp khơi
mào không hội đủ cơ duyên hay điều kiện để trở thành
chín muồi thì cũng có thể xảy ra nhiều kiếp sống khác
(có nghĩa là vô minh nguyên thủy sinh
ra nghiệp khơi mào, nếu nghiệp khơi mào không hội đủ cơ
duyên để để trở thành chín muồi "giúp" cho một cá thể
đạt được thể dạng già nua thì cá thể ấy sẽ phải chết
non vì tác động của một thứ nghiệp khác mạnh hơn, chẳng
hạn như các trường hợp chết ở thể dạng phôi, thai nhi,
ấu nhi, hay chết trẻ vì bệnh tật, tai nạn, bị xử tử...,
chu kỳ luân hồi sẽ quay ngược lại mối dây sinh trước
khi xảy ra mối dây cuối cùng là già nua, bệnh tật và cái
chết). Tuy nhiên thì dầu sao trong trường
hợp này ít ra cũng phải cần có thêm một kiếp sống mới
nữa thì toàn bộ chu kỳ mới có thể hoàn tất được. Nếu
muốn cho mười hai mối dây tương liên diễn biến trở lại
đầy đủ thì phải cần ít nhất là ba kiếp sống là như
thế.
Cô
A.G.: Vậy ông có thể nào giải thích toàn bộ diễn tiến
đó theo chiều ngược lại để theo dõi xem sự lôi kéo liên
tục sẽ xảy ra như thế nào ?
Ông
P. Arène: Người ta có thể hình dung theo chiều ngược lại
giống như tháo gỡ tuần tự từng quân bài được xếp chống
lên nhau để tạo thành một cái nhà. Nếu không có sinh thì
không có tử, nếu không có hình thành thì sẽ không có sinh.
Nếu không có thèm khát và tham lam thì sẽ không có các thứ
khác xảy ra tiếp theo sau. Cứ như thế người ta có thể đi
ngược trở về nguyên nhân đầu tiên tức là vô minh, nếu
có thể nói như thế.
Cô
A.G.: Vậy, người ta có thể tự giải thoát ra khỏi chu
kỳ tái sinh để khỏi quay trở lại lại thế giới ta bà
hay không? Có phương pháp nào giúp thực hiện được điều
đó hay chăng?
Ông
P. Arène: Nhất định là phải có một phương pháp để
thực hiện điều đó, nếu không thì Phật giáo không có một
lý do nào để tồn tại, vì vai trò của Phật giáo không phải
chỉ để mô tả các hiện tượng mà thôi. Vô minh tác động
vào sự sống của chúng ta từ những thời gian không khởi
thủy và nó không phải là một thành phần nội tại thuộc
bản thể tự nhiên của tâm thức. Vì lý do vô minh không phải
là thành phần tự nhiên của tâm thức nên ta có thể loại
bỏ được nó. Nhưng phải làm thế nào? Phải dựa vào những
gì trực tiếp đối nghịch với nó tức là đối nghịch với
sự nhận biết sai lầm về cái tôi, sự đối nghịch ấy
chính là trí tuệ tối thượng giúp nhìn thấy cái tôi, cái
ngã đúng với thực thể của nó, tức là tính cách lệ thuộc
của cái tôi.
Cô
A.G.: Có phải đấy là cách giúp chúng ta tái sinh trong một
thể dạng tự do không còn bị trói buộc?
Ông
P. Arène: Khi mà ta không còn vướng mắc vào sự nắm bắt
sai lầm ấy nữa, thì lúc đó ta sẽ không còn nhìn thấy tính
cách tuyệt đối của cái tôi nữa, và ta chỉ xem nó là một
thứ gì mang tính cách lệ thuộc, hoàn toàn trống không về
sự hiện hữu. Chính đấy là chủ thuyết về Tánh không,
tức là sự trống không của mọi sự hiện hữu. Khi đã quán
nhận được điều đó ta sẽ cảm thấy mình không còn liên
hệ với cái tôi giống như trước kia nữa. Ta sẽ không còn
phải tái sinh ngoài sự mong muốn của mình trong trong bất
cứ một cõi nào thuộc vào thế giới luân hồi. Tuy nhiên
ta vẫn có thể tự hỏi nếu như không tái sinh trở lại trong
thế giới ta bà thì ta sẽ trở thành cái gì đây?
Cô
A.G.: Đúng thế, điều đó cũng không có nghĩa là sẽ rơi
vào cõi hư không?
Ông
P. Arène: Đúng như thế. Tự mình nhận thấy đã thoát
ra khỏi thế giới ta bà, tuy nhiên ta vẫn có thể tự nguyện
quay trở lại với cái thế giới khổ đau ấy, và nếu chọn
giải pháp đó thì ta sẽ phải tiếp tục lang thang trong thế
giới ta bà, nhưng tuyệt nhiên sẽ không còn khồ đau như trước
nữa. Thật ra khi đã thoát ra khỏi thế giới ta bà thì ta
sẽ có hai cách tái sinh khác nhau để chọn lựa: cách thứ
nhất là tái sinh vào cõi Tịnh độ của chư Phật, cách thứ
hai là quay về với thế giới hiện hữu như vừa trình bày
trên đây. Nếu như ta quay lại làm người thì đương nhiên
ta sẽ phải chấp nhận sự sinh và cái chết, nhưng thay vì
phải gánh chịu khổ đau như những người bình thường thì
ta sẽ không còn cảm thấy khổ đau trong sự sinh, sự hình
thành và cái chết nữa.
Cô
A.G.: Thưa ông Pierre Arène, xin cám ơn ông về những lời
giải thích thật minh bạch của ông.
http://www.bouddhisme-france.org
(1)
http://www.bouddhisme-france.org
(2)
Bures-Sur-Yvette,
10.01.10
Hoang
Phong