Điều Gì Chờ Ta Sau Cánh Cửa Cuộc Đời?
Tùy
theo nghiệp nhân con người đã gây tạo trong qúa khứ có sai khác, mà đến
khi lâm chung mỗi người hấp hối đều có những biểu hiện lâm chung khác
nhau. Hoặc có người biết trước giờ chết vui vẻ niệm Phật mà chết, hoặc có người đầy sự thảng thốt, run sợ… thậm chí có người khi sắp chết đã có những tướng biểu hiện của các
cảnh giới Ngạ quỷ, Súc sanh… Như thế tuỳ theo nghiệp nhân thiện hay ác
mà con người sắp chết có những biểu hiện lâm chung khổ đau hay hạnh phúc
để rồi tái sanh về cảnh giới lành hay dữ. Chung quy, cảnh giới mà con
người tái sanh là cảnh giới tương ưng với sự khao khát và thoả mãn tự
thân của mỗi người.
CÁC CẢNH GIỚI TÁI SANH
A. DẪN NHẬP:
Tựu trung các
cảnh giới mà con người sẽ tái sanh vào là cảnh giới gì ? Do động lực căn
bản nào dẫn dắt thần thức con người đi tái sanh? Sự thọ dụng khổ đau
hay hạnh phúc của từng cảnh giới ra sao? Nỗi bình an hay hốt hoảng để tương ứng với từng cảnh giới chuẩn bị tái sanh của con người như thế nào? Các yếu tố cần và đủ để biện minh về sự hình thành một cảnh giới là yếu tố gì? Đó là những vấn đề mà người Phật tử chúng ta không thể không biết.
B. CHÁNH ĐỀ
I. NGHIỆP VÀ CÁC CẢNH GIỚI TÁI SANH
1. Nghiệp – Nhân tố quyết định cho sự tái sanh:
Theo quan điểm đạo Phật con người sau khi chết không phải là mất hẳn, đó chỉ là một trạng thái biến dạng của
nghiệp thức. Thể xác phân tán nhưng phần tâm thức tiếp tục cuộc truy cầu
trong sự khao khát được thoả mãn về đối tượng ( cảnh giới) tương ứng.
Và cứ như thế con người chúng ta khi chưa đạt đến Thánh vị, thì mãi luẩn
quẩn trong cuộc rượt bóng bắt hình nơi trò chơi luân hồi huyễn mộng hư
hư thực thực này.
Ai là tác giả của cuộc chơi hư hư thực thực này ? Đó chính là nghiệp- là nguyên động lực dẫn dắt con người đi vào tái sanh trong các cảnh giới luân hồi. Nghiệp là những hành động có tác ý, từ nghiệp tạo thành sức mạnh của nghiệp hay còn gọi là nghiệp lực. Nghiệp lực chi phối tái sanh của con người qua một trong bốn loại sau:
a.
Cực trọng nghiệp : Nghĩa là những hành động trọng yếu hay là những hành
nghiệp nhân cực trọng. Nếu Cực trọng nghiệp thuộc về loại bất thiện đó
là những nghiệp như : Ngũ nghịch, Thập ác. Bằng như Cực trọng nghiệp
thuộc về loại thiện đó là những nghiệp như: Người chứng đắc các quả vị tứ thiền sắc giới trở lên.
b.
Tập quán nghiệp: Còn gọi là Thường nghiệp. Tập quán nghiệp là những
việc làm, lời nói hàng ngày chúng ta hay làm và thường nhớ đến ưa thích
hơn hết. Những thói quen lành hay dữ dần dần uốn nắn tạo thành bản chất của con người. Ngay trong lúc vô thức đôi lúc nó vẫn hiện khởi. Trong các loại nghiệp thì nghiệp này đóng vai trò rất quan trọng.
c. Tích lũy nghiệp: Đời sống của con người hôm nay là sự tích góp bởi vô số các
nghiệp từ trong quá khứ đã tạo. Trong sự luân hồi bất tận con người ai
cũng đã tích luỹ cho mình một số lượng lớn tài sản nghiệp. Như thế, Tích
luỹ nghiệp là những nghiệp do tích luỹ nhiều đời. Nghiệp này có công
năng dẫn dắt con người đi tái sanh, khi ba loại nghiệp trên vắng mặt.
d. Cận tử nghiệp: là nghiệp nhân sau cùng con người nhớ tưởng lúc lâm chung. Tâm niệm sau cùng của con người nếu là niệm ác tức sẽ tái sanh vào một trong các cảnh khổ. Tâm niệm sau cùng của con người nếu là niệm thiện tức sẽ tái sanh vào một trong các cảnh giới lành, đây gọi là Cận tử nghiệp.
Khi
con người lâm chung, nếu không có Cực trọng nghiệp hay Tập quán nghiệp
nào làm động cơ cho sự thúc đẩy tái sanh thì Cận tử nghiệp sẽ dẫn dắt
con người thọ sanh. Hoặc nếu không có cả ba loại nghiệp kể trên thì Tích
luỹ nghiệp sẽ dẫn dắt con người tái sanh.
2. Các cảnh giới tái sanh:
Trong vũ trụ mênh mông có tất cả mười cảnh giới mà tuỳ theo nghiệp lực của
mỗi người tạo ra, tương ứng để tái sanh vào một trong mười cảnh giới đó.
Mười cảnh giới đó bao gồm bốn cảnh giới Thánh và sáu cảnh giới phàm.
Thần
thức con người sau khi chết sẽ có hai tình huống xảy ra. Nếu người nào
có công phu tu hành đạt đến được cảnh giới nghiệp sạch tình không, tuỳ
mức đoạn vô minh vi tế có sâu hay cạn hoặc dứt sạch mà sanh về một trong
bốn cảnh giới Thánh là Phật, Bồ Tát, Duyên giác và Thanh Văn. Hoặc như
người nào tuy tu hành nhưng chưa đoạn được phiền não, chưa đạt đến cảnh
giới nghiệp sạch tình không…nhưng do tâm nguyện khẩn thiết cầu sanh thế
giới Cực lạc và thường trì Thánh hiệu Phật A Di Đà, người đó cũng được thoát ly sanh tử, khi lâm chung được vãng sanh về thế giới Tịnh độ của chư Phật, lần hồi tiến tu cho đến ngày thành Phật.
Còn bằng người nào còn nghiệp sau khi chết đều phải tái sanh vào một trong sáu cảnh giới luân hồi. Tuỳ theo nghiệp nhân quả của
mỗi con người có sai khác mà họ phải sanh vào cảnh giới khổ đau hay hạnh
phúc. Sáu cảnh giới mà con người phải luân hồi qua lại đó là: Thiên đạo, Nhân đạo, A tu la đạo, Súc sanh đạo, Ngạ quỷ đạo và Điạ ngục đạo.
Trong đó hai cảnh giới đầu là cảnh giới thiện đạo đây là cảnh giới hạnh
phúc, bốn cảnh giới sau là cảnh giới ác đạo là cảnh giới khổ đau. Chung
quy, con người trong dòng sống bất tận, phần nhiều vì vô minh che lấp
tạo ra các nghiệp lành hay dữ rồi phải tùy theo nghiệp lành hay dữ mà tái sanh vào một trong sáu cảnh giới luân hồi.
II. Luân hồi trong lục đạoTrong
phạm vi bài viết chúng tôi xin trình bày giản lược về cảnh giới thọ
dụng và nghiệp nhân tái sanh, biểu hiện lâm chung… trong sáu cảnh giới
luân hồi và cảnh giới Tịnh độ mà thôi. Nơi cảnh giới Tịnh độ chúng tôi
triển khai về cảnh giới Tây phương Tịnh độ (thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà) làm đại biểu.
1. Sanh về ác đạo
a. Địa ngục đạo:
Địa
ngục tiếng phạn là Nại lạc ca, có nghĩa là Khổ cụ, Phi đạo, Ác nhân…
Địa ngục là cảnh giới trong đó không có hạnh phúc, nơi có đầy đủ muôn
vàn sự khổ đau mà những người tạo ác nghiệp phải sanh về để trả lại
những nghiệp nhân bất thiện trong quá khứ.
a.1 Cảnh giới thọ dụng:
* Khổ lạc thọ dụng:
Chúng
sanh ở cảnh địa ngục phải chịu sự thống khổ vô cùng, như trong kinh Địa
tạng có dạy: Chúng sanh ở cõi này, một ngày một đêm trải qua trăm vạn
lần chết đi sống lại để chịu các khổ báo như ăn hoàn sắt nóng, uống nước đồng sôi, bị kéo lưỡi cho trâu cày…
* Ẩm thực thọ dụng:
Chúng
sanh ở cảnh dịa ngục đều dùng thức thực mà duy trì thân. Loại này cũng
có thọ dụng phần đoạn thực vi tế, tạng phủ có hơi gió thoảng động, do
nhân duyên này mà được sống lâu.
* Dục nhiễm thọ dụng:
Chúng sanh ở cảnh địa ngục không có hành dâm, vì bị quá nhiều sự hình phạt đau khổ.
a.2 Nghiệp nhân và biểu hiện lâm chung:
* Nghiệp sanh tái sanh:
Người nào hiện đời bất tín Tam bảo, tạo các nghiệp cực ác như ngũ nghịch, thập ác… sau khi chết sẽ đoạ vào cảnh giới khổ đau này.
* Biểu hiện lâm chung:
Nếu ai lâm chung, đoạ vào cảnh giới địa ngục sẽ có những biểu hiện sau:
- Nhìn ngó thân quyến với con mắt ghét giận.
- Đi đại tiện, tiểu tiện mà không hay biết.
- Nằm úp mặt hoặc che dấu mặt.
- Thân hình và miệng mồm đều hôi hám.
- Cơ thể co lại, tay chân bên trái chấm xuống đất.
b. Ngạ quỷ đạo:
Ngạ
quỷ tiếng phạn Preta, Ngạ là đói khát, Quỷ là khiếp sợ. Ngạ quỷ là chỉ
những chúng sanh thường xuyên bị nạn đói khát và khiếp sợ đe dọa đời
sống. Thân tướng Ngạ quỷ có nhiều hình thù rất xấu xa, mắt thường con
người không thể thấy được. Ngạ quỷ không có một cảnh giới riêng biệt, mà
sống trong rừng bụi, ở những nơi dơ bẩn…
b.1 Cảnh giới thọ dụng :
* Khổ lạc thọ dụng:
Chúng
sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ chịu nhiều phần khổ não về sự đói khát chỉ có
chút ít phần vui. Đại để loài Ngạ quỷ phân thành ba loại là: Quỷ đa tài,
hạng Quỷ này do đời trước có tu phước nên hiện đời được ăn uống sung
mãn có đầy đủ thần lực; loại thứ hai là Quỷ thiếu tài, hạng Quỷ này đời
trước tuy có tu phước nhưng không nhiều, nên hiện đời tuy có đủ vật ăn
uống nhưng không được như ý và thần lực kém cỏi; loại thứ ba là Quỷ Hy
tự, hạng Quỷ này bụng to như cái trống cổ nhỏ như cây kim, bởi do đời
trước tham lam bỏn xẻn, nên hiện đời luôn phải chịu cảnh đói khát liên tục…
* Ẩm thực thọ dụng:
Chúng
sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ đều dùng thô đoạn thực, tức ăn uống những vật
thực như con người. Có điều, loài Ngạ quỷ Hy tự ( Quỷ kém phước) chỉ ăn
thuần đồ bất tịnh. Loài Ngạ quỷ này khi thấy nước hay thức ăn thì những
vật này đều hoá thành máu lửa và cát sạn.
* Dục nhiễm thọ dụng:
Chúng
sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ do vì có khổ vui xen lộn nên có sự dâm dục.Ở
cõi này khi hai giống giao hợp, trong tâm khoái lạc tột độ liền có chất
bất tịnh chảy ra.
b.2 Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung:
* Nghiệp nhân tái sanh:
Người nào hiện đời tạo những nghiệp ác cộng với tánh hay tham lam keo kiệt, không thích làm các việc lành bố thí, cúng dường…sau khi chết sẽ đọa vào cảnh giới đau khổ này.
* Biểu hiện khi lâm chung:
Nếu ai lâm chung đọa vào cảnh giới Ngạ quỷ sẽ có những biểu hiện sau :
- Thân nóng như lửa.
- Thường lo nghĩ đói khát, hay nói đến việc ăn uống.
- Không đại tiện nhưng đi tiểu tiện nhiều.
- Đầu gối bên phải lạnh trước.
- Tay bên phải nắm lại biểu hiện lòng bỏn xẻn.
c. Súc sanh đạo:
Súc
sanh hay còn gọi là bàng sanh. Bàng sanh là loại chúng sanh có xương
sống nằm ngang. Lại chữ bàng có nghĩa là “biến mãn” vì bàng sanh có
nhiều chi loại và các cõi đều có loài này. Đây là cảnh giới thuần đau khổ, hình thù kỳ dị.
c.1 Cảnh giới thọ dụng :
* Khổ lạc thọ dụng:
Chúng
sanh ở cảnh giới bàng sanh chịu nhiều phần khổ về ăn nuốt lẫn nhau, chỉ
có chút ít phần vui. Chúng sanh ở cảnh này phải chịu nhiều sự đánh đập,
cày bừa, bị banh da xẻo thịt và nấu nướng, bị người nhai nuốt… Nói
chung, họ luôn sống trong tâm trạng si mê xen lẫn đầy nỗi sợ hãi.
* Ẩm thực thọ dụng :
Chúng sanh ở cảnh giới súc sanh đều dùng thô đoạn thực. Các
loài rồng thường dùng rùa, cá, ếch, nhái… làm thức ăn, loài kim suý điểu
dùng rồng làm thức ăn, những vị long vương có phước báo cũng thọ dụng các trân vị như hương phạn, cam lồ, nhưng miếng ăn sau cùng đều biến thành ếch nhái. Còn lại các loài bàng sanh khác đều ăn uống những vật bất tịnh.
* Dục nhiễm thọ dụng:
Chúng
sanh ở cảnh giới Súc sanh, do vì có khổ vui xen lộn nên có sự hành dâm.
Ở cõi này khi hai giống giao hợp, trong tâm khởi niệm khoái lạc tột độ
liền có chất bất tịnh chảy ra.
c.2 Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung:
* Nghiệp duyên tái sanh:
Người nào hiện đời tạo các ác nghiệp cộng với tánh si mê, ngu độn…bướng bỉnh không nghe theo lời dạy của các bậc trưởng thượng, cố chấp không chịu sửa sai, sau khi chết đọa vào cảnh giới khổ đau này.
* Biểu hiện lâm chung:
Nếu ai lâm chung đoạ vào cảnh giới bàng sanh sẽ có những biểu hiện sau :
- Sanh lòng yêu mến vợ con đắm đuối không bỏ.
- Ngón tay và ngón chân đều co quắp.
- Ngu si mờ mịt như rơi vào mê sảng.
- Khắp trong thân mình đều toát mồ hôi.
- Tiếng nói khò khè miệng hay ngậm đồ ăn.
d. A tu la đạo
A
tu la còn gọi là A tố lạc dịch là vô đoan chánh, phi thiên…. đây là
hạng chúng sanh không bao giờ hớn hở tươi vui, đa số có hình tướng không
được đoan chánh tâm luôn sân hận và hay sanh ái dục. A tu la có bốn bậc
đó là Thiên A tu la, Nhân A tu la, Ngạ quỷ A tu la và Súc sanh A tu la.
d.1 Cảnh giới thọ dụng:
* Khổ lạc thọ dụng :
Chúng sanh ở cảnh giới A tu la thọ sự khổ vui xen tạp, hoặc nhiều hoặc ít tuỳ theo tội phước hơn kém của
mỗi người. Nói chung, A tu la tuỳ theo ở cảnh giới nào thì có sự khổ lạc
thọ dụng tương tự như ở cảnh giới đó, vì thế họ không có chủng loại và
trụ xứ riêng biệt.
* Ẩm thực thọ dụng:
Chúng sanh ở cảnh giới A tu la thọ dụng có thô đoạn thực và tế đoạn thực. A tu la ở trong Súc sanh, Ngạ quỷ và cõi người dụng các vật bất tịnh. Riêng loài thiên A tu la dù có ăn các món ăn trân vị, song miếng sau cùng tự nhiên hóa ra bùn hay sâu nhái.
* Dục nhiễm thọ dụng :
Chúng sanh ở cảnh giới A tu la có sự hành dâm tương đồng như chúng sanh loài người, quỷ, bàng sanh.
d.2. Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung.
* Nghiệp nhân tái sanh :
Người
nào hiện đời tuy có tu ngũ giới nhưng tâm còn nhiều sân hận và lòng dục
nhiễm, sau khi chết sẽ đoạ vào cảnh giới khổ đau này.
* Biểu hiện lâm chung :
Có thể nói A tu la là một dạng khác của Ngạ quỷ, do vậy biểu hiện lâm chung của người nào sắp tái sanh về cảnh giới A tu la, thời có những biểu hiện như chúng sanh tái sanh về cảnh giới Ngạ quỷ.
Có
điều, tại sao trong A tu la có thiên A tu la thế mà loại này vẫn xếp
sau nhân đạo. Sở dĩ như thế do vì hạng A tu la ở cõi trời, do tâm sân
hận và ái nhiễm của họ mà có sự việc kém hơn cõi người:
- Dù loài này có ăn các món ăn trân vị song miếng ăn sau cùng tự nhiên hoá thành bùn hay ếch nhái.
- Ở trong cõi trời mưa hoa hoặc châu báu, nơi cõi người mưa nước cõi A tu la mưa xuống những binh khí dao gậy.
- Loài người tâm điềm tĩnh nên dễ thực hành theo chánh pháp của Như lai, loài A tu la tâm sôi nỗi hơn thua nên khó tu đạo giải thoát.
2. Sanh về thiện đạo
a. Nhân đạo:
Nhân
đạo là nẽo người. Nhân có nghĩa là nhẫn chỉ cho loài người khi gặp cảnh
thuận nghịch đều có năng lực nhẫn nại an chịu với duyên phần. Chúng
sanh ở cảnh giới này sự thọ hưởng có hạnh phúc lẫn đau khổ chứ không
phải thuần khổ như bốn cảnh giới trước. Ở loài này có đầy đủ những thuận
lợi để học và thực hành các giáo lý của đức Phật.
a.1 Cảnh giới thọ dụng :
* Khổ lạc thọ dụng :
Chúng
sanh trong cảnh giới nhân đạo thọ sự khổ vui xen tạp, hoặc ít hoặc
nhiều tuỳ theo nghiệp nhân mỗi người đã tạo ra. Nói chung, bên cạnh sự
hạnh phúc đôi chút con người phải bị chi phối tám nỗi khổ lớn. Đó là :
Sanh là khổ, bịnh là khổ, già là khổ, tử là khổ, cầu bất đắc là khổ, ái
biệt ly là khổ, oán tắng hội là khổ và ngũ ấm xí thạnh là khổ.
* Ẩm thực thọ dụng :
Chúng
sanh trong cảnh giới nhân đạo về ẩm thực thọ dụng có tế đoạn thực và
thô đoạn thực. Tế đoạn thực là khi ở trong thai thọ dụng huyết phần của mẹ. Thô đoạn thực là ăn những thức ăn như: cơm, rau, cá, thịt… Nói rộng ra, các sự thọ dụng khác như: phòng nhà, chiếu, gối, tắm… cũng gọi là tế đoạn thực.
* Dục nhiễm thọ dụng :
Chúng
sanh ở cảnh giới nhân đạo vì có sự khổ vui xen lộn nên có hành dâm. Sự
hành dâm tương đồng như loài bàng sanh, quỷ, thần… khi hai thân khác
giống giao hợp, trong tâm khởi niệm khoái lạc tột cùng, liền có chất bất
tịnh chảy ra.
a.2 Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung:
* Nghiệp nhân tái sanh :
Người
nào hiện đời có niềm tin kiên cố đối với Tam Bảo và giữ gìn năm giới
cấm, có lòng nhân từ hiếu đạo, giúp đỡ yêu thương kẻ nghèo khó, phát tâm
bố thí kẻ cúng dường… sau khi chết sẽ được tái sanh vào cảnh giới
người.
* Biểu hiện lâm chung :
Nếu ai lâm chung được tái sanh vào cảnh giới nhân đạo sẽ có những biểu hiện sau :
- Khởi niệm lành sanh lòng hòa dịu ưa việc phước đức.
- Sanh lòng chánh tín thỉnh Tam Bảo đến đối diện quy y.
- Thấy bà con trông nom sanh lòng vui mừng.
- Tâm chánh trực không ưa dua nịnh.
- Dặn dò giao phó các công việc lại cho thân quyến rồi từ biệt ra đi.
b. Thiên đạo :
Thiên
đạo là nẽo trời, chữ Thiên có nghĩa là thiên nhiên, tự nhiên, lại chữ
thiên ở đây còn có bốn nghĩa ẩn: Tối thắng, tối thiên, tối lạc, tối tôn.
Chúng sanh ở cảnh giới này thân tướng trang nghiêm hưởng phước lạc tự
nhiên, sự ăn mặc thọ dụng đều tùy niệm hóa hiện.
b.1 Cảnh giới thọ dụng :
* Khổ lạc thọ dụng :
Chúng
sanh ở cảnh giới này khổ ít vui nhiều. Chư thiên ở cõi dục thọ dụng
nhiều phần vui, có ít phần khổ về sự suy não đoạ lạc. Chư thiên ở cõi
sắc giới từ sơ thiền đến tam thiền lấy định cảnh làm vui, sự vui cùng
cực duy ở cõi tam thiền. Từ tứ thiền cho đến chư thiên cõi vô sắc thì
không có khổ lạc thọ.
* Ẩm thực thọ dụng :
Chư thiên ở cõi dục thọ dụng những trân vị như cam lồ, tô đà. Tuy nhiên, tuỳ theo phước báu của mỗi vị sai khác mà có vị thọ dụng đầy đủ có vị thọ dụng không đầy đủ, đồng thời mùi vị của
thức ăn có sự hơn kém. Chư thiên ở cõi sắc giới thọ phần tư thực, dùng
sự vui thiền định để nuôi sắc thân. Còn chư thiên ở cõi vô sắc thì chỉ
có thức thực.
* Dục nhiễm thọ dụng :
Chúng
sanh ở cảnh thiên đạo, chỉ có chư thiên ở dục giới là có sự hành dâm,
còn chư thiên ở cõi sắc và vô sắc giới đều tu phạm hạnh không có dục
nhiễm thọ dụng.
Thiên
chúng ở dục giới khi gần gũi với nhau không có chảy ra chất bất tịnh,
chỉ nơi căn môn có hơi gió nhẹ thổi ra dục niệm liền tiêu. Trời Tứ thiên
vương và Đao lợi có sự giao cảm cũng như loài người. Trời Dạ ma nam nữ
chỉ ôm nhau là đã thoả mãn dâm dục. Trời Đâu suất hai bên nắm tay nhau
dục niệm liền tiêu. Trời Hoá lạc hai bên nam nữ chỉ chăm nhìn nhau cười
là dục sự đầy đủ. Trời Tha hoá chư thiên chỉ liếc mắt nhau là đã xong
rồi dục sự.
b.2 Nghiệp nhân tái sanh và biểu hiện lâm chung :
* Nghiệp nhân tái sanh :
Người nào hiện đời tu Thập thiện và chứng đắc các
thiền định, sau khi lâm chung sẽ được tái sanh về cảnh trời. Trong đó
người nào thành tựu mười nghiệp lành, sẽ tái sanh về cảnh giới Dục giới,
người nào tu mười nghiệp lành cọng với chứng đắc một trong bốn thiền
định ( tứ thiền) sẽ tái sanh về cảnh trời Sắc giới, người nào tu mười
nghiệp lành cọng với chứng đắc một trong bốn không định (tứ không) sẽ
tái sanh về cảnh trời Vô sắc.
* Biểu hiện lâm chung :
Nếu ai lâm chung được tái sanh về cảnh trời sẽ có những biểu hiện sau :
- Phát khởi tâm lành.
- Chánh niệm rõ ràng.
- Đối với của cải, vợ con…lòng không lưu luyến.
- Không có những sự hôi hám.
- Ngữa mặt lên và mỉm cười, mà nghĩ tưởng thiên cung đến rước mình…
Lưu ý:
Biểu hiện lâm chung của
sáu cảnh giới kể trên không phải con người khi sắp chết mỗi mỗi đều biểu
hiện đầy đủ, mà đôi lúc chỉ có những điểm thiết yếu biểu hiện. Lại
chúng ta cần phân biệt, ví như hai cảnh giới nhân đạo và thiên đạo thì
tâm hồn họ đều trong sạch, nhưng một bên chỉ nghĩ đến thiên cung xao
lãng việc đời, một bên thì thương nhớ bà con căn dặn việc nhà. Còn hai
cảnh Ngạ quỷ và địa ngục thì tâm hồn họ đều mê man, nhưng một bên thì
sanh tâm nóng nảy mất hết sự từ hòa, một bên thì biểu hiện tham
lam hay nói đến chuyện ăn uống. Đến như loài Súc sanh thì thân thể tháo
mồ hôi tiếng nói khàn nghẹt nhưng còn luyến tiếc bà con…. đó là những
điểm dị biệt trong sáu cảnh giới để chúng ta xác định rõ từng cảnh giới
tái sanh.
Lại
có đôi người đến khi chết tâm hồn trở thành vô ký (không biểu hiện lành
hay dữ như thế nào). Hạng người này muốn dự đoán họ sẽ tái sanh về cảnh
giới nào, chúng ta chỉ xác định dựa theo hơi nóng nơi nào trên thân mới
có thể quyết đoán được.
III. BA YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH THÀNH TỰU MỘT CẢNH GIỚI:
Xưa
nay có một số người quan niệm rằng : Con người chúng ta khi tâm thanh
tịnh chính là đang sống trong cảnh giới Tịnh độ, khi tâm đang ngu si, mê
mờ…là đang sống trong cảnh giới địa ngục chứ không có cảnh giới Tịnh độ
hay cảnh giới địa ngục nào khác. Quan niệm về cảnh giới như thế là hoàn
toàn không chính xác, đôi khi dẫn đến nhiều sự ngộ nhận gây tác hại
không nhỏ. Với những biểu hiện của tâm con người như thế, chúng ta chỉ có thể nói đó là nghiệp nhân Tịnh độ hay nghiệp nhân địa ngục mà con người đang tạo mà thôi.
Chung quy, cảnh giới mà mỗi khi chúng sanh thọ dụng phải đầy đủ ba yếu tố mới có thể thành tựu :
Vũ trụ quan : Là xác định vị trí địa lý của
mỗi cảnh giới, như cảnh Tây phương Tịnh độ là cõi cực kỳ trang nghiêm
nằm ở phía tây cõi Ta Bà, địa ngục là cảnh giới thuần khổ đau vị trí ở
ngoài mé núi Thiết vi.
Nhân sanh quan : Là xác định thân tướng sai biệt của mỗi cảnh giới, bởi thân tướng của mỗi loài tuỳ theo phước báu có hơn kém mà mỗi loài đều có hình tướng sai biệt, như thân tướng của Thánh chúng cõi Tây phương Tịnh độ thì trang nghiêm đủ ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, còn thân tướng của
chúng sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ thì bụng to như trống, cổ nhỏ như kim,
thân tướng chúng sanh ở cảnh địa ngục thì xấu xa kỳ dị, đầu trâu mặt
ngựa…
Tâm lý quan : Là xác định tâm lý sai biệt của mỗi cảnh giới, như tâm của Thánh chúng cõi Tây Phương Tịnh độ thì luôn thanh tịnh, tâm các Ngài luôn an trụ vào thiền định đồng thọ hưởng pháp lạc của thiền định tương đồng với Phật A Di Đà; còn tâm chúng sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ luôn bị sự đốt cháy của đói khát… tâm của chúng sanh ở cảnh giới địa ngục luôn sân hận, sợ hãi…
Như
thế, chúng sanh hiện đời gây tạo nghiệp nhân gì sau khi lâm chung sẽ
tuỳ theo nghiệp nhân đó mà tái sanh về một trong sáu cảnh giới luân hồi.
Do đó, cảnh giới tái sanh chỉ xác lập khi đã đầy đủ ba yếu tố kể trên,
nếu chưa đủ ba yếu tố đó thì chưa có thể nói đó là cảnh giới chúng sanh
đang thọ dụng. Hay nói một cách khác, ở mỗi cảnh giới đều có vị trí, thân tướng và tâm lý sai khác mà chúng sanh ấy phải thọ dụng.
C. Kết luận:
Tóm
lại, bởi do vô minh và ái dục chi phối mà chúng sanh cứ sống rồi chết,
chết rồi lại sống, cứ thế mãi mãi trối lăn vào một trong sáu cảnh giới
luân hồi. Trong sáu cảnh giới đó, bốn cảnh giới trước hoàn toàn khổ đau,
hai cảnh sau trời và người tuy có hạnh phúc nhưng xét lại vẫn thuần là
khổ.
Ví như chúng sanh ở cảnh giới địa ngục, thì một ngày một đêm phải trải qua cảnh vạn lần chết đi sống lại bị sự tra tấn của vạc dầu hầm lửa. Chúng sanh ở cảnh giới Ngạ quỷ thì bị sự thiêu đốt của
nạn đói khát, ngàn vạn năm cái tên cơm, nước chưa từng nghe huống gì là
được ăn no. chúng sanh ở cảnh giới Súc sanh thì bị sự khổ của si mê dày vò, bị người khác banh da xẻo thịt nhai nuốt vào bụng. Chúng sanh ở cảnh giới A tu la thì bị sự sân hận và tham dục chi phối, suốt ngày luôn đánh giết lẫn nhau để tìm cầu sự thoả mãn của xác
thịt. Còn chúng sanh ở hai cảnh giới trời, người tuy có hạnh phúc xen
lẫn khổ đau nhưng ở cảnh người, chúng sanh phải chịu tướng bát khổ; ở
cảnh giới trời vẫn bị năm tướng suy hao. Chi bằng muốn thoát ly sanh tử
luân hồi tránh sự nhọc nhằn khi phải làm kẻ lữ khách qua lại nơi tam
giới, chúng ta nên cố gắng phát tâm tín sâu, nguyện thiết, chuyên trì
danh hiệu Phật A Di Đà. Chúng ta chỉ mong làm sao hiện đời trả chút nghiệp còn lại lâm chung sớm được vãng sanh về nước Phật mà thôi.
Trích Lâm Chung Những Điều Cần Biết
Thích Nguyên Liên soạn dịch - duongvecoitinh