Với Phật giáo, dục vọng không hẳn là
điều quá xấu xa, tội lỗi vì lẽ Đức Phật vẫn cho phép hàng tại gia sống
chung với các dục theo những chuẩn mực nhân bản, nhân văn. Tuy nhiên,
với đời sống xuất gia thì việc từ bỏ dục vọng là tiêu chí cơ bản của
phẩm vị thanh cao, hướng thượng. Dục vọng là tác nhân có liên quan đến
sự đọa lạc của một con người. Hiểu về dục vọng và cách thức chuyển hóa
chúng, là điều rất mực quan trọng trong đời sống thiểu cầu, vô dục của
người xuất gia.
Mặc dù những phương thức chuyển hóa dục
vọng được đề cập trong kinh phần lớn liên quan đến người xuất gia; tuy
nhiên trong thời đại ngày nay, khi sự xuất hiện của cái ác ngày càng
nhiều và chúng có liên quan ít nhiều đến việc quản lý năng lượng tính
dục, thì phương thức chuyển hóa dục vọng mà Đức Phật đã chỉ dạy, có ý
nghĩa tham khảo đối với bất kỳ ai muốn làm chủ bản thân. Với khảo sát
bước đầu, chúng tôi khái lược những phương thức chuyển hóa dục vọng được
Phật dạy trong kinh tạng Nikaya.
Đừng nhìn chúng
Đó là câu trả lời của Đức Phật dành cho
ngài A Nan trong kinh Đại bát Niết bàn (1). Đừng nhìn chúng cũng có
nghĩa là né tránh chúng, không nên tiếp cận với chúng. Tuy phương pháp
này mang tính cổ điển, nhưng giá trị vận dụng vẫn vượt tầm ảnh hưởng của
lịch sử, không gian. Vì lẽ, giữa tâm và cảnh có mối liên hệ thắm thiết
đến nhau. Tâm dễ phát khởi tà ý nếu gặp cảnh tương ưng dục vọng. Tuy
nhiên, trong thực tế đời sống, không phải khi nào cũng có thể né tránh
những điều kiện nảy sinh dục vọng mà đôi khi phải chấp nhận đối diện với
chúng.
Trong trường hợp này, Phật dạy chớ có
nói chuyện với chúng (2). Chớ nói chuyện tức là không giao tiếp với nữ
sắc, không nên tiếp thêm duyên. Củi và lửa xa nhau thì khó có thể cháy
vì duyên chưa đủ. Và nếu như phải giao tiếp, phải nói chuyện, phải thân
cận với nữ nhân, thì không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng
riêng (3), không khởi lên phân biệt mắt đen, da trắng, má hồng… khi đối
diện với nữ sắc. Vì một khi khởi tâm so sánh, nghĩ ngợi… thì bước đầu sẽ
tạo ra một sự dính mắc trong tâm. Cái đẹp là một thực tại không thể
chối cãi. Một người bình thường thì có thể nhận ra khi cái đẹp hiện hữu
trước mắt. Tuy nhiên, giữa việc thấy cái đẹp và chấp thủ cái đẹp là hai
việc hoàn toàn khác nhau.
Ở đây, phương pháp đầu tiên mà Đức Phật
chỉ dạy là không nên nhìn chúng, không thân cận, không nói chuyện, không
liên lạc, không nắm giữ chúng trong tâm tưởng… là những biện pháp bổ
trợ để dục vọng không sanh khởi. Phương pháp này được Đức Phật đúc kết
trong kinh Tất cả các lậu hoặc (4): các lậu hoặc phải do tránh né được
đoạn trừ. Kinh An trú tầmcũng khẳng định tương tự: ví như một người có
mắt, không muốn thấy các sắc pháp nằm trong tầm mắt của mình, người ấy
nhắm mắt lại hay ngó qua một bên (5). Luận điểm từ hai bài kinh nêu trên
đã đồng xác tín rằng, một trong những cách thức đầu tiên nhằm ngăn ngừa
và chuyển hóa dục vọng chính là đừng nhìn hoặc tránh xa chúng.
Xem như người thân
Người xuất gia thường tùy duyên giáo
hóa, và do vậy việc gặp gỡ nữ nhân trên đường đi khất thực và đôi khi
phải thuyết giảng cho họ là sự kiện thường gặp trong nhiều kinh, luật.
Trường hợp của Tôn giả Pindola Bhāradvāja (6) là một ví dụ điển hình.
Theo kinh, Tôn giả Pindola Bhāradvāja thường phi hành trong không gian
và chọn vườn ngự uyển của vua Udena, nước Kosambi làm nơi thiền định.
Cùng thời gian đó, nhà vua cùng đoàn thị nữ đang ở trong hoa viên. Do
vua ngủ say nên các thị nữ trốn đi dạo chơi và gặp Tôn giả Pindola
Bhāradvāja. Tại đây, các nàng thị nữ nghe tôn giả thuyết giảng nên quên
mất phận sự của mình. Thức dậy trong bực bội, vua Udena định sử dụng
hình phạt nghiêm khắc nhất đối với Tôn giảPindola Bhāradvāja.
Tuy nhiên, khi nghe tôn giả trình
bày: Thưa Ðại vương, Thế Tôn, bậc Tri giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh
đẳng giác đã nói như sau: “Hãy đến, này các Tỳ-kheo, đối với những
người chỉ là mẹ, hãy an trú tâm người mẹ. Ðối với những người chỉ là
chị, hãy an trú tâm người chị. Ðối với người chỉ là con gái, hãy an trú
tâm người con gái (7). Đặc biệt, Tôn giả Pindola Bhāradvāja khẳng định
rõ với vua Udena rằng: trong khi tôi vào nội cung, với thân được phòng
hộ, với lời nói được phòng hộ, với tâm được phòng hộ, với niệm được an
trú, với các căn được chế ngự; thời trong khi ấy, tham pháp không chinh
phục tôi (8). Sau khi vua Udena hiểu ra, sám hối và xin quy y làm đệ tử
với tôn giả, tôn giả đã thi triển thần thông bay lên hư không trở về Kỳ
Viên tịnh xá.
Trong pháp thức hóa giải dục vọng này,
cần có sự bổ trợ của hai đức tính quan trọng, đó chính là tàm và quý.
Tàm là tự thẹn với mình, quý là tự hổ với người. Đây là hai đức tính cơ
bản định hình nên nhân cách, đạo đức của con người. Bởi lẽ, một khi đã
xem người xa lạ như người thân thì phải ứng xử theo chuẩn mực của người
thân. Muốn xử sự cho đúng, cần phải biết hổ thẹn. Theo kinh Tăng chi,
hai đức tính tàm và quý che chở cho thế giới (9). Nhờ hai đức tính
này nên mới có thể chỉ được đây là mẹ hay đây là chị em của mẹ, hay đây
là vợ của anh hay em của mẹ, hay đây là vợ của thầy hay đây là vợ của
các vị tôn trưởng (10). Sống làm người phải biết tàm quý. Nếu sống không
biết tàm quý thì đạo đức, trật tự của thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như
giữa các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can (11). Nói
theo kinh Giáo giới La Hầu La ở Am Bà La, nếu một người không có tàm
quý, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm (!2). Ẩn
dụ một thanh niên ưa thích đồ trang sức nhưng bị mang trên cổ một xác
chó, một xác rắn, một xác thú vật, thì người ấy luôn ghê tởm, xấu hổ
(13)… là hình ảnh ấn tượng về việc sử dụng năng lượng tàm quý, nhằm làm
thuyên giảm và hóa giải dục vọng.
Quán vô thường và quán bất tịnh
Suy niệm về sự biến hoại của thân xác là
một liệu pháp hiệu quả nhằm chuyển hóa dục vọng. Theo kinh Đại khổ uẩn
(14),Đức Phật dạy các Tỳ-kheo pháp quán về cuộc đời của một mỹ nữ. Theo
Đức Phật, cần phải tập trung quán sát nàng thiếu nữ đó từ khi còn thanh
xuân, tuổi trẻ, đến lúc già yếu, da nhăn, tay chân tái xám. Sự quán niệm
cần phải tập trung vào chuyện khi nàng ấy bệnh tật, dơ bẩn, nằm lẫn lộn
trong chất thải của mình. Đặc biệt, phải quán sâu vào những biến đổi
của thân xác sau khi nàng ấy chết và được quẳng vào rừng tử thi. Đó là
khi các loài sâu bọ, côn trùng rúc rỉa thể xác và đến cuối cùng, chỉ còn
một bộ xương trắng mòn mỏi với thời gian. Theo Tích truyện Pháp cú,
bằng cách chỉ ra thực tại vô thường và bất tịnh mà Đức Phật đã hóa độ
nàng tín nữ Rùpanandā (15). Nhiều vị Tỳ-kheo ni trong Trưởng lão Ni
kệ cũng thành tựu đạo quả nhờ hai pháp quán này (16).
Pháp quán về vô thường có tần suất xuất
hiện rất cao và được sử dụng trong nhiều bối cảnh. Đoạn hội thoại giữa
Đức Phật và La Hầu La cũng nằm trong trường hợp này: Này Rāhula, ông
nghĩ thế nào? Mắt là thường hay vô thường?. - Là vô thường, bạch Thế
Tôn. - Cái gì vô thường là khổ hay lạc? - Là khổ, bạch Thế Tôn. - Cái gì
vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu xem cái ấy: “Cái
này là của tôi, cái này là tôi, cái này tự ngã của tôi”? - Thưa không,
bạch Thế Tôn (17). Nguyên mẫu hội thoại này được Đức Phật viện dẫn trong
nhiều kinh văn.
Trong kinh Niệm xứ (18), kinh Thân hành
niệm (19), liệu pháp quán bất tịnh được ghi lại rất mực chi tiết, rõ
ràng. Theo Đức Phật, cần phải quán sát ba mươi hai thể dơ bẩn của thân
từ tóc, lông, răng, móng…. cho đến đại tiện, tiểu tiện. Hành giả quán
sát về ba mươi hai thể trược này phải chuyên chú, thuần thục và nhuần
nhuyễn. Mức độ thuần thục của pháp quán phải tương tự như việc có thể
nhận ra một hạt lúa bé tẹo trong một bao hỗn hợp ngũ cốc được đổ ra sàn
nhà (20). Quán và giữ nhận thức về sự không sạch sẽ của thân người sẽ
tạo nên một sự tự chủ vượt trội. Với một hành giả thuần thục về bất tịnh
quán, thì họ không thể tìm ra cái đẹp, cái hấp dẫn, cái lôi cuốn trong
bất cứ một thân phần nào của con người, dù đó là nữ sắc hoặc ngược lại.
Câu chuyện chấn động của Tỳ-kheo ni Subha (21) bị quấy rầy vì đôi mắt
đẹp, đã tự tay móc con mắt của mình ban cho kẻ yêu đơn phương, làm cho
kẻ kia kinh hoàng bỏ chạy, đã cho thấy sự thuần thục về phép quán vô
thường và bất tịnh của thân thể. Nhờ thuần thục về pháp quán này, các
niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ (22).
Suy niệm về bản chất của dục
Quán niệm sâu về bản chất của dục được
đề cập trong những ẩn dụ sinh động từ kinh Potaliya2 (23)và kinh Ví dụ
con rắn (24), giúp ngăn ngừa và chuyển hóa năng lượng tính dục hiệu quả.
Trước hết, dục như khúc xương và con chó
đói. Một khúc xương đã lóc hết thịt, tận lóc và kẻ tìm cầu dục vọng thì
giống như con chó đói, cố tìm kiếm chút gì lót dạ từ khúc xương kia. Dù
nỗ lực cách mấy đi chăng nữa con chó vẫn không thể thỏa mãn cái đói với
khúc xương không còn một chút dưỡng chất nào. Một số luận giải còn mở
rộng hình ảnh con chó đói bị chảy máu ở miệng do quá cố gắng với khúc
xương. Nó đã liếm máu từ miệng mình mà lầm tưởng chút béo bổ thu lượm
được từ khúc xương, và tự đưa mình đi đến suy kiệt. Ý nghĩa tương tự
cũng được tìm thấy trong kinh Magandiya (25) với hình ảnh người cùi hơ
vết thương trên lửa nhằm tìm kiếm một chút lạc thọ dễ chịu, nhưng thực
tế càng đau khổ thêm lên.
Thứ hai, dục như miếng thịt trong đám
diều hâu. Ngoài nội dung căn bản như kinh Potaliya, Chuyện tiền thân Đức
Phật số 330 (26) đã đề cập khá chi tiết về câu chuyện này. Chuyện kể
rằng, có một con diều hâu cắp được miếng thịt bay lên hư không. Những
con diều hâu khác liền vây lấy nó và tấn công bằng mỏ nhọn và vuốt sắc,
mãi đến khi nó nhả miếng thịt ra. Hễ con nào buông bỏ miếng thịt thì
được yên thân và ngược lại. Từ sự kiện đó, tiền thân Đức Phật đã suy
niệm: Những tham dục của chúng ta cũng giống như những miếng thịt. Ai
nắm lấy chúng thì bị đau khổ, ai thả chúng ra thì được an bình (27).
Thứ ba, dục như tù nhân và hố than hừng.
Một hố than hừng rừng rực nóng, có một tù nhân bị hai lực sĩ lôi đến hố
than kia. Trước sức nóng của hố than hừng, người tù kia tất sẽ vặn vẹo,
cố thoát khỏi cánh tay của hai người lực sĩ kia. Câu chuyện tương tự
cũng được kể lại trong kinh Tăng chi khi Đức Phật đã khéo hỏi các thầy
Tỳ-kheo rằng: Các thầy nghĩ thế nào, này các Tỳ-kheo, việc nào là tốt
hơn: ôm ấp, ngồi gần hay nằm gần đống lửa lớn đang cháy đỏ, cháy đỏ rực,
cháy lửa ngọn, hay ôm ấp, ngồi gần, nằm gần tay chân mềm mại non trẻ
của người con gái Sát-đế-lỵ, người con gái Bà-la-môn hay người con gái
gia chủ? (28) Sau khi nghe câu trả lời, Đức Phật đã xác tín rằng khi nội
tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh (29) thì bất hạnh, khổ
đau còn hơn bị quăng vào hố than hừng.
Thứ tư, dục như leo cây hái trái. Có một
cây ăn trái tốt tươi được nhiều người tìm kiếm. Sau hàng loạt nỗ lực
tìm cầu, họ đã tìm được cội cây kia. Khi ấy, kẻ thì leo lên cao hái
trái, kẻ thì cố nhặt nhạnh những gì trong tầm tay. Tuy nhiên, có những
kẻ không biết leo cây nhưng vẫn thèm khát quả ngọt, họ bèn đốn cây để
thỏa nguyện của mình và đâu biết rằng, hành động của mình có thể gây
nguy hiểm cho những kẻ kia. Ý nghĩa tương tự cũng được phát hiện trong
kinh Phật tự thuyết. Chuyện kể rằng, có hai nhóm người đắm say một kỹ
nữ. Họ đánh nhau bằng những phương tiện hung dữ nên cả hai nhóm có nhiều
kẻ bị thiệt mạng hoặc đau khổ gần như chết (30). Đại kinh khổ uẩn
(31) cũng đề cập câu chuyện tương tự. Cần phải thấy, leo cây hái trái sẽ
gặp nguy hiểm, cũng như bọn người vì gái đẹp mà thiệt thân.
Thứ năm, dục như tài sản vay mượn. Người
có sở hữu tài sản, dù đó là do người khác cho mượn, nhưng trong tâm
luôn phơi phới hân hoan. Họ đến đâu cũng được ngợi khen, tôn trọng. Họ
sống trong tâm thế lâu ngày như thế nên tưởng chừng tài vật kia thực sự
là của mình. Đến khi đúng kỳ, người chủ đòi lại tất cả và kẻ kia buồn
tủi, khổ đau. Theo kinh Tăng chi, bản chất của tài sản bị đe dọa bởi nhà
vua, trộm cướp, kẻ thừa tự kém cỏi, lửa và nước (32). Ở đây, cái gọi là
sắc đẹp, là hạnh phúc… thực chất chỉ là sự vun vào của nhiếu yếu tố
khác. Vì bản chất của đời sống là tổng hòa những sự nương gá, vay mượn
lẫn nhau, nếu chấp chặt vào chúng thì phiền não, khổ đau là kết quả tất
định.
Thứ sáu, dục như cầm đuốc đi ngược gió.
Hình ảnh một người cầm bó đuốc cháy rực đi ngược gió, nếu như kẻ kia
không mau chóng vứt bỏ ngọn đuốc ấy đi thì tất sẽ bị cháy tay, cháy cả
thân mình và nguy hiểm đến tính mạng. Ôm ấp dục vọng trong tâm cũng như
người cầm đuốc đi ngược gió, sẽ bị thiêu cháy bất kỳ lúc nào.
Theo Chuyện tiền thân Đức Phật số 491, năng lượng nguy hại của dục còn
được ví như trận cuồng phong hoành hành khắp núi Sineru (Tu di) (33).
Người ôm ấp dục vọng trong tâm chỉ như chiếc lá tả tơi, vô định trước
sức mạnh của trận cuồng phong.
Thứ bảy, dục như đầu rắn. Nọc độc của
rắn thường nằm ở phần đấu. Một cái đầu rắn dù đứt rời thân thể nhưng vẫn
có thể gây khổ đau cho người. Người trúng nọc độc rắn nếu nhẹ thì đau
khổ, quằn quại, nếu nặng thì có thể nguy hiểm đến tính mạng. Ít nhất đã
có một vị Tỳ-kheo trong thời Phật bị rắn cắn chết được kinh, luật ghi
lại (34). Ở đây, sự nguy hiểm của dục vọng được ví như nọc độc của rắn.
Nó khiến người ta mê mờ, dã dượi và đau khổ. Liên tiếp các Chuyện tiền
thân Đức Phậtmang số: 62, 85, 159, 262, 327, 366, 380, 458, 477, 491,
497, 527, 531… đề cập đến những day dứt, khổ đau của các vị Tỳ-kheo bị
dục vọng ám ảnh, có những trường hợp đớn đau giống như như bị trúng nọc
độc của rắn.
Thứ tám, dục như giấc mộng. Như một
người chìm sâu trong giấc mộng dài, họ thấy nhà cửa lâu đài và mọi lạc
thú đoanh vây và an vui thụ hưởng tạm thời trong cảnh ấy. Trong một
thoáng đột nhiên tỉnh mộng, thì cảm giác bàng hoàng, luyến tiếc, khổ đau
là cảm giác có thật cho người đó trong hiện thực cuộc đời này. Cuộc đời
như giấc mộng dài và việc nếm trải dục vọng chỉ như là một giấc mơ con.
Quan niệm hạnh phúc như một giấc mơ không chỉ là ngôn ngữ văn chương mà
là thực tế được Đức Phật đã dạy rõ ràng trong kinh điển.
Lời kết
Khi dục vọng lên ngôi thì khổ đau xuất
hiện. Tính tương thuộc giữa dục vọng và khổ đau là một thực tế cay
nghiệt được Đức Phật chỉ ra. Với nhân loại, ẩn họa của nữ sắc là một
kinh nghiệm thương đau được điểm xuyết trong nhiều trang chính sử. Với
một người bình thường, phải cần nhiều nỗ lực mới có thể tự chủ cũng như
vượt qua được cửa mỹ nhân (35). Với người xuất gia, mang tâm nguyện tự
độ và hóa tha, thì trong hành trang lý tưởng mang theo không có dấu vết
của dục vọng.
Bản chất dục vọng và cách thức chuyển
hóa chúng đã được Đức Phật chỉ bày khá rõ, vấn đề mức độ chuyển hóa
thành công hay không, liên quan đến sự chuyên tâm, nỗ lực của từng
người.
Chú thích
(1) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16, tụng phẩm V.
(2) Kinh đã dẫn.
(3) Kinh Trung bộ, tập 3, kinh Sáu thanh tịnh, số 112.
(4) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh Tất cả các lậu hoặc, số 2.
(5) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh An trú tầm, số 20.
(6) Kinh Tương ưng, tập 4, thiên Sáu xứ,
phần d, phẩm Gia chủ, kinh Bhāradvāja. Câu chuyện cùng nội dung còn
được phát hiện trong bản kinh: Kính Tiểu bộ, tập 8, chuyện Tiền thân Đức
Phật, Chuyện bậc hiền trí Matanga, số 497.
(7) Kinh Tương ưng, tập 4, thiên Sáu xứ, phần d, phẩm Gia chủ, kinh Bhāradvāja.
(8) Kinh đã dẫn.
(9) Kinh Tăng chi, chương Hai pháp, Hai loại tội.
(10) Kinh đã dẫn.
(11) Kinh đã dẫn.
(12) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Giáo giới La hầu La ở Am Bà La, số 61.
(13) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh An trú tầm, số 20
(14) Kinh Trung bộ, tập 1, Đại kinh khổ uẩn, số 13
(15) Tích truyện Pháp cú, bản dịch của Viên Chiếu, phẩm Già, Chuyện Ni cô và bóng sắc.
(16) Kinh Tiểu bộ, tập 3, Trường lão Ni kệ, Abhirupa Nanda, Theri 125; Sundari Nada, Theri 132; Khema, Theri 237
(17) Kinh Tương ưng, tập 2, Thiên nhân duyên, Chương bảy, Tương ưng Rahula, phẩm thứ nhất.
(18) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh Niệm xứ, số 10.
(19) Kinh Trung bộ, tập 3, kinh Thân hành niệm, số 119.
(20) Kinh đã dẫn.
(21) Kinh Tiểu bộ, tập 3, Trường lão Ni kệ, phẩm 14, tập 30 kệ, Subha ở rừng xoài Jivaka, Theri 150.
(22) Kinh đã dẫn.
(23) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Potaliya, số 54.
(24) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh Ví dụ con rắn, số 22.
(25) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Magandiya, số 75.
(26) Kinh Tiểu bộ, tập 6, Chuyện tiền thân Đức Phật, Chuyện thử thách giới đức, số 330.
(27) Kinh đã dẫn.
(28) Kinh Tăng chi, chương bảy pháp, Đại phẩm, kinh Lửa.
(29) Kinh đã dẫn.
(30) Kinh Tiểu bộ, tập 1, kinh Phật tự thuyết, U 71.
(31) Kinh Trung bộ, tập 1, Đại kinh khổ uẩn, số 13.
(32) Kinh tăng chi, chương Năm pháp, phẩm Du hành dài, kinh Tài sản.
(33) Kinh Tiểu bộ, tập 8, Chuyện tiền thân Đức Phật, Chuyện Đại khổng tước (tiền thân Maha-Mora), số 491.
(34) Cullavagga 2, chương V, Các tiểu sự, Chuyện Tỳ-kheo bị rắn cắn. Kinh rắn chúa, đoạn 26.
(35) 英 雄 不 過 美 人 關.