Ở đây, chúng ta không nên ngộ nhận chữ nhẫn nhục như người ta thường hiểu ở đời. Nhẫn nhục ở đời là thứ nhẫn nhục không rốt ráo, chỉ có hình thức bên ngoài, chứ không đi sâu vào bên trong, nghĩa là trước một sự bất công, một điều sỉ nhục, người nhẫn nhục không tỏ ra phản đối trong lời nói, trong cử chỉ, nhưng trong lòng họ vẫn không dằn được cơn tức giận phẫn uất; thứ nhẫn nhục ấy không phải là nhẫn nhục của đạo Phật.
Vậy tánh chất của nhẫn nhục trong đạo Phật như thế nào, chúng ta xin trình bày ở đoạn dưới đây.
II.- TÍNH CHẤT NHẪN NHỤC TRONG ĐẠO PHẬT
Nhẫn nhục theo giáo lý Phật đà phải gồm đủ ba phần là: thân nhẫn, khẩu
nhẫn, ý nhẫn. Nghĩa là ở nơi thân thì cam chịu đau khổ mà không đối phó lại bằng cử chỉ, hành động trả thù; ở nơi miệng không thốt ra những lời hung ác, nguyền rủa, và nhất là ở trong lòng thì cũng phải dẹp xuống, đánh tan cơn tức giận, nỗi oán thù, không cho nó vươn lên, vùng dậy. Nếu không dẹp được sự giận dữ, phẩn uất ở trong lòng thì chưa gọi được là nhẫn nhục theo nghĩa trong đạo Phật.
Hơn nữa, người theo pháp nhẫn nhục phải luyện cho đến trình độ không thấy có người làm mình khổ nhục, có nỗi khổ nhục, và người chịu khổ nhục. Nhẫn nhục ở đây có tánh cách bao la rộng lớn, không phân chia biên giới, vì nó bắt nguồn từ lòng từ bi, từ trí
tuệ và bình đẳng tuyệt đối của Phật tánh. Cho nên người dưỡng tánh nhẫn
nhục, muốn thành tựu phải dựa lên ba đức tính trên làm căn bản.
III.- CÔNG NĂNG CỦA NHẪN NHỤC
Một trong những đại họa của cõi đời là tánh giận dữ, oán thù. Có thể nói một cách không
quá đáng rằng lửa giận đã đốt thiêu một nửa cõi đời, một nửa công lao
của loài người, từ ngày có nhân loại đến nay. Cho nên tánh nhẫn nhục là
một phương thuốc thần diệu để dập tắt lửa sân hận.
Về phương diện cá nhân, người nhẫn nhục làm cho người chung quanh cảm
mến, vì nét mặt hiền dịu, vì lời nói hòa nhã, vì cử chỉ khoan hòa. Người
nhẫn nhục tâm trí được sáng suốt, xét đoán phải lẽ, không mắc
những sai lầm lỗi đáng tiếc vì thiếu bình tĩnh. Thân tâm người nhẫn nhục
luôn luôn được an lạc, nhẹ nhàng, và do những điều trên, người nhẫn
nhục dễ thành tựu trong mọi công việc, trong đời mình.
Về phương diện gia đình, nếu mọi người trong nhà đều nhẫn nhục thì cảnh
gia đình luôn luôn được hòa thuận, tin yêu, ấm cúng. Người ta thường
nói: "Thuận vợ thuận chồng thì tát biển đông cũng cạn". Thiếu đức tính
nhẫn nhục, sự hòa thuận trong gia đình không bao giờ có thể thực hiện được. Và không hòa thuận, thì gia đình trở thành một cảnh địa ngục nho nhỏ, mà mọi người đều muốn đạp đổ để thoát ra.
Về phương diện xã hội, nhẫn nhục làm cho mọi đoàn kết có thể thực hiện được, sự chung sống được êm đẹp, chiến tranh không xảy ra, hòa bình được củng cố, cõi đời sẽ trở thành một lạc địa.
Về phương diện tu hành, nhẫn nhục như là một hòn đá thử vàng, như là
một lò luyện kim khí, nó làm cho người tu hành luôn luôn phải cảnh giác,
đề phòng trước những nghịch cảnh. Nó bắt buộc kẻ tu hành luôn luôn phải
vận dụng lòng từ bi, ánh sáng trí tuệ, tinh thần bình đẳng để phá tan
giận dữ, oán thù. Nó dẹp lần ngã mạn, ngã ái và công phá luôn thành trì
cuối cùng của chúng là cái ngã. Do đó, người tu hành chứng được vô ngã
vô sanh.
IV.- GƯƠNG NHẪN NHỤC CỦA ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI
Sức
chịu đựng của đức Thích Ca trong bước đi tìm đạo của ngài thật là một
gương sáng cho chúng ta. Từ một vị Thái tử sống trong nhung lụa, ngài
trở thành một kẻ không nhà, lặn lội hết khu rừng nầy đến ngọn núi khác, chịu lạnh chịu nóng, nhịn đói nhịn khát, tìm học tất cả mọi người, không sợ nhục nhã, xấu hổ khi phải hỏi những điều mình chưa biết. Khi tu khổ hạnh với bọn ông Kiều Trần Như, thấy không có kết quả, ngài rời họ, trở lại ăn uống như thường và đã bị họ chế diễu, khinh bỉ; nhưng Ngài vẫn điềm nhiên như không, chỉ một dạ quyết tâm tu học.
Khi đắc đạo, trở thành một đấng Chí tôn, ngài bị Đề Bà Đạt Đa nhiều lần
quấy phá, nào thả voi dữ, nào lăn đá từ sườn núi cao xuống mình ngài,
nhưng không một lần nào ngài tỏ ra vẻ phẩn nộ, bực tức. Khi bị thương
nhẹ nơi chân vì hòn đá của Đề Bà Đạt Đa lăn xuống, đức Phật đã điềm
nhiên bảo các đệ tử rằng: Đề Bà Đạt Đa là thiện hữu tri thức của ngài,
nhờ Đề Bà Đạt Đa mà ngài mau thành Phật. Khi bị ngoại đạo âm mưu sai
người đến nhục mạ ngài giữa đại chúng, Phật lặng thinh để cho người ấy
nhiếc mắng. Cuối cùng, ngài chỉ hỏi lại một câu nhưng hàm bao nhiêu ý
nghĩa thâm thúy, mà chúng ta cần phải nhớ lấy nằm lòng trong khi tập
tánh nhẫn nhục. Ngài hỏi người nọ:
- Khi người đem cho ai một món gì mà họ không nhận, thì người làm thế nào?
- Thì tôi đem về!
- Ở đây cũng vậy, ta không nhận những lời nhục mạ của người. Người hãy mang về đi!
Hơn ai hết, ngài hiểu rõ công dụng lớn lao của nhẫn nhục nên trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật đã dặn các đệ tử:
"Nếu có người đến chặt tay chân các ông, hoặc xẻo mũi cắt tai v.v...
các ông cũng phải nhiếp trì tự tâm, chớ nên móng niệm sân hận mà làm trở
ngại đạo Bồ đề của các ông, và chớ thốt ra lời nói hung ác, mà bị lửa
sân hận đốt thiêu rừng công đức của các ông..."
Phật còn tán thán những người nhẫn nhục với một câu nói đẹp đẽ như sau:
"Người nào ngăn được phẫn nộ sắp phát ra, như dừng được chiếc xe đang
chạy nhanh, như thế mới được gọi là thiện ngự, ngoài ra chỉ là kẻ cầm
cương mà thôi".
V.- NGƯỜI PHẬT TỬ PHẢI NUÔI DƯỠNG TÁNH NHẪN NHỤC NHƯ THẾ NÀO TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY ?
Trước tiên, người dưỡng tánh nhẫn nhục phải nên nhớ luôn điều này: không phải vì để được người đời tán thán, khen ngợi mà ta nhẫn, không phải vì sợ sệt trước oai lực của kẻ khác mà ta nhẫn, không phải vì mong được chức tước quyền lợi mà ta nhẫn, không phải vì lười nhác, muốn buông xuôi tay cho khỏe trước cuộc đời bất công mà ta nhẫn, không phải vì không
biết nhục nhã, thiếu nhân cách mà ta nhẫn. Nếu vì lý do trên mà ta nhẫn,
thì cái nhẫn ấy còn nguy hại hơn sự phẫn nộ, vì nó là tay sai đắc lực
của dục vọng: tham lam, kiêu mạn, hèn nhác, ích kỷ... Ta nuôi dưỡng tánh
nhẫn nhục là vì một đại nguyện, một mục đích cao quý, một tình thương
lớn lao, một trí tuệ sáng suốt. Ta nhẫn nhục là vì muốn trau dồi
đức tánh, muốn đối trị cái bệnh nóng giận do tham lam, ích kỷ, ngạo mạn,
si mê gây ra.
Cái
nhẫn trên lá cái nhẫn đê hèn, cái nhẫn dưới mới là nhẫn cao quý, đúng
theo ý nghĩa của giáo lý. Cái nhẫn dưới mới là nhẫn mà chúng ta cần nuôi
dưỡng hằng ngày. Mặc dù đứng trước một hoàn cảnh như thế nào, cử chỉ
chúng ta luôn luôn dịu dàng, nhã nhặn, lời nói chúng ta luôn luôn ôn
tồn, điềm đạm, ý nghĩ chúng ta luôn luôn sáng suốt để phân tách vì đâu
có cảnh ấy, vì sao chúng ta không nên nóng giận. Ta phải luôn luôn vận dụng đến tình thương, là một thứ nước cam lồ có thể dập tắt bao nhiêu lửa dữ.
Ở đời có hai nguyên nhân làm cho người ta dễ giận hơn ai hết, đó là
tánh tham lam và kiêu mạn. Mất của, mất danh, mất ngủ... nên sanh ra
giận; thấy người ta phạm đến lòng tự cao, tự đại, tự mãn, tự ái của
mình, nên sanh ra giận. Cho nên, muốn nuôi dưỡng tánh nhẫn nhục thì
trước tiên phải cảnh giác, đề phòng luôn luôn hai tánh xấu ấy. Phải tỉnh
táo, đừng để mắc mưu chúng nó. Chúng rất quỷ quyệt, rất nhiều mưu mô.
Có khi chúng mượn tiếng nói của bổn phận, danh dự, quyền lợi chung để
bắt ta phải hờn giận oán thù, có khi chúng tỉ tê bên tai ta trong đêm
vắng, có khi chúng to tiếng buộc tội hành động nhẫn nhục của ta là nhu
nhược, hèn nhát. Cho nên, chúng ta phải biết rõ hành tướng của những
tánh xấu ấy, phải điều phục được chúng, mới có thể thực hiện tánh nhẫn
nhục một cách có hiệu quả.
Mỗi khi một nỗi bực bội, chán chường, oán tức sắp nổi dậy, chúng ta hãy bình tĩnh đọc đi đọc lại mấy câu thơ dưới đây:
Nhẫn, nhẫn, nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận!
Nhiêu, nhiêu, nhiêu thiên tai vạn họa nhứt tề tiêu;
Mặc, mặc, mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc;
Hưu, hưu, hưu, cái thế công danh bất tự do.
(Nhẫn, nhẫn, nhẫn - thân nhẫn, miệng nhẫn, tâm nhẫn - thì những điều
trái chủ oan gia từ đây đứt dây hết. Nhịn, nhịn, nhịn, thì ngàn tai muôn
họa đều tiêu tan, Nín, nín, nín, thì cảnh giới thần tiên vô hạn cũng do
đấy mà được, Thôi, thôi, thôi, thì những công danh lớn lao nhất trên
thế giới cũng không làm gì được ta).
Làm
được như thế, trong mọi địa hạt, trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời
gian thì tánh nhẫn nhục của Phật đã sẵn có ở trạng thái tiềm phục trong
ta sẽ được hoàn toàn biểu lộ.