Nhưng mà chúng ta phải tự chọn lấy, đừng
nhờ nhõi, đừng nghe lời xúi giục của ai, vì đây là con
đường tự ta đi không ai thế ta được. Chọn kỹ rồi
sẽ đi, là thái độ của kẽ khôn ngoan; nhắm mắt đi càng,
phó mặc đi đến đâu hay đến đó, là kẻ khờ dại, mang
cả cuộc đời làm một trò chơi. Người trí phải nhìn
kỹ, phải xem xét tường tận trước khi mình cất bước đi
trên một con đường nào. Quy y Tam Bảo quả là đặt mình
trên một con đường đi đến tận cùng. Đến tận đầu
đường là suốt cuộc đời của chúng ta. Việc làm nầy
cần phải hiểu biết rõ, nhận thức tường tận, mới phát
tâm Quy y. Phát nguyện Quy y là định hướng cho cả cuộc đời
chúng ta. Nếu không hiểu biết gì, thì việc Quy y mất hết
ý nghĩa của nó.
II. Định Nghĩa
Tam Quy nói đủ là Quy y Tam Bảo.
Tam Bảo là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Phật là
chỉ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, do trước kia ngài tu hành giác
ngộ thành Phật. Pháp bảo là giáo pháp do Đức Phật nói
ra chỉ dạy đường lối tu hành. Tăng bảo là những vị tu
hành theo giới luật và chánh pháp của Đức Phật.
Tại sao gọi là Phật
bảo?
Từ một kẻ phàm phu như chúng ta
tu hành thành Phật thực là chuyện ít có trên nhơn gian
nầy. Thế nên trong kinh thường nói Phật ra đời khó gặp,
như hoa Ưu Đàm một ngàn năm mới trổ một lần. Bởi ít có
khó gặp nên nói là Báu. Hơn nữa, tự bản thân Ngài đã
thoát khỏi sanh tử luân hồi và giác ngộ thành Phật, rồi
đem chỗ giác ngộ ấy dạy lại cho mọi người cùng ra
khỏi sanh tử, là điều cao cả nhất trần gian nên gọi là
Báu.
Thế nào gọi là Pháp
bảo?
Chánh pháp xuất thế hy hữu do Đức
Phật dạy lại, người nghe rất khó hiểu khó thấu đáo
được. Nhưng một khi đã hiểu, ứng dụng tu hành có thể
chuyển đời phàm phu trở thành thánh nhân, pháp như vậy còn
gì quý báu bằng. Pháp của Phật dạy là chơn lý, dù trải
qua bao thời gian chơn lý ấy vẫn rạng ngời như hòn ngọc
báu. Những kẽ đang lạc lầm trong đêm đen, bất thần
gặp được ngọn đuốc, vui mừng quý tiếc thế nào, người
học đạo gặp được chánh pháp cũng như thế. Người đang
bị chìm đắm ngoài bể cả, trông thấy một con thuyền đến
vớt, vui mừng sung sướng quý mến thế nào, người học đạo
gặp được chánh pháp cũng như thế. Cho nên nói "Trăm
ngàn muôn kiếp khó tìm gặp."
Thế nào gọi là Tăng
bảo?
Tăng là chỉ cho một nhóm tu sĩ
học theo Phật, sống chung nhau đúng tinh thần Lục Hòa.
Sống đúng tinh thần Lục Hòa là việc ít co trên nhơn gian
nầy. Bởi vì người thế gian sống trong đua đòi giành
giật hơn thua với nhau, không bao giờ hòa thuận được.
Lục hòa là:
Thân hòa cùng ở,
Miệng hòa không tranh cải,
Ý hòa đồng vui,
Giới luật hòa đồng giữ,
Hiểu biết hòa cùng giải,
Lợi hòa chia đồng.
Sáu điều này là tinh thần của
Tăng. Nếu có người đầu tròn áo vuông mà không sống theo
tinh thần Lục Hòa cũng không gọi là tăng. Ở trong tập
thể từ bốn người trở lên, ai cũng hòa thuận chung sống
đúng tinh thần lục hòa là một việc rất khó làm. Vì
thế, người tu sĩ sống theo tinh thần Lục Hòa, là một điều
quí báu trên nhơn gian. Hơn nữa, trên sự tu hành, các vị
ấy đã vơi đi phiền não và đạt được phần nào của an
ổn thanh tịnh, rồi hướng dẫn mọi người cùng đến
chổ an ổn thanh tịnh ấy. Vì thế cho nên gọi là Tăng
bảo.
Thế nào là Quy y?
Quy là trở về, y là nương tựa.
Trở về nương tựa với Phật, Pháp và Tăng gọi là Quy y
Tam Bảo. Từ lâu chúng ta mãi chạy theo dục lạc, tạo
nghiệp đau khổ, nay hồi tâm thức tỉnh nhất định trở
về nương tựa với Tam Bảo. Lấy Tam Bảo làm chổ cứu cánh,
để không còn tạo thêm nghiệp đau khổ, rồi từ đó đem
lại cho chúng ta sự an lạc trong cuộc sống. Đây là sự
hồi tâm tỉnh giác, phát nguyện trở về của chúng ta. Sự
tỉnh giác nầy là nền tảng của lâu đài trí tuệ, nó là
bước đầu trên con đường về quê hương giác ngộ. Đặt
nền tảng nầy vững chắc thì lâu đài trí tuệ mới được
lâu dài. Đó là sự hệ trọng của tinh thần Quy y.
III. Quy Y Tam
Bảo Bên Ngoài
Phật Pháp Tăng là đối tượng
để chúng ta Quy y. Nguyện noi theo con đường Đức Phật đã
đi là Quy y Phật. Quyết thực hành những lời chỉ dạy
của Ngài còn ghi trong kinh điển là Quy y Pháp. Thuận theo
sự hướng dẫn tu hành của chúng tăng là Quy y Tăng. Từ đây
bước đi, cuộc sống của chúng ta lấy Tam Bảo làm mẫu
mực, nhắm thẳng theo đó mà tiến tới, khỏi phải nghi
ngờ dò dẫm như thuở nào. Chúng ta là Hoa Tiêu, Tam Bảo là
ngọn hải đăng. Cứ nhắm theo hải đăng mà lái con thuyền
thân mạng của chúng ta cho đến đích. Song Phật pháp, người
Phật tử quyết định tin theo không còn chút do dự, còn Tăng
thì phải cẩn thận để khỏi nhận lầm. Tăng là tập đoàn
Tăng lữ sống đúng tinh thần Lục Hòa, không phải tính cách
cá nhân. Nếu một vị sư đứng ra làm lễ Quy y cho Phật
tử, chính vị ấy đại diện cho tập đoàn. Quy y Tăng là
quy y với những vị sư sống đúng tinh thần Lục Hòa, không
phải cuộc hạn riêng vị sư truyền tam quy ngũ giới cho mình.
Nếu vị đại diện truyền quy giới ấy có tu được hay không
tu được, người thọ pháp giới vẫn đã quy y tăng rồi.
Khi quy y một vị tăng tức là đã quy y tất cả chư Tăng,
nếu vị nào sống đúng tinh thần hòa hợp. Phật tử có
quyền học hỏi tất cả tăng chúng, không nên hạn hẹp nơi
ông thầy của mình. Được vậy mới đúng tinh thần Quy y
Tam Bảo bên ngoài.
IV. Quy Y Tam
Bảo Tự Tâm
Phật pháp bao giờ cũng phải đủ
hai mặt, Tam Bảo bên ngoài là đối tượng, Tam Bảo tự tâm
là bản chất. Nương tam bảo bên ngoài, chúng ta phát triển
Tam Bảo của tự tâm. Trong ngoài hỗ tương để viên mãn công
phu tu hành, là mục tiêu chính yếu của Đạo Phật.
Thế nào là Tam Bảo
tự tâm?
Tánh giác sẵn có nơi chúng ta là
Phật Bảo. Lòng từ bi thương xót cứu giúp chúng sanh là Pháp
bảo. Tâm hòa hợp với mọi người là Tăng Bảo. Nhờ
Phật Bảo bên ngoài, chúng ta đánh thức tánh giác của mình,
trở về nương tựa tánh giác của mình là Quy y Phật. Nhờ
Pháp Bảo bên ngoài, chúng ta dấy khởi lòng từ bi đối
với chúng sanh, trở về nương tựa với lòng từ bi của mình
là Quy y Pháp. Do chư Tăng bên ngoài gợi lại cho chúng ta có
tinh thần hòa hợp thuần thảo, trở về với tinh thần hòa
hợp thuần thảo của mình là Quy y Tăng.
Phật Pháp Tăng bên ngoài là trợ
duyên giúp chúng ta phát khởi Phật pháp tăng của tự tâm.
Ví như ông thầy giáo làm trợ duyên cho đứa học trò mở
mang kiến thức của nó. Có ông thầy giáo cần cù, mà đứa
học trò lười biếng không chịu học, ông thầy cũng trở
thành vô ích. Cũng thế, có Tam Bảo bên ngoài, người Phật
tử không cố gắng đánh thức Tam Bảo của chính mình, Tam
Bảo bên ngoài cũng thành vô nghĩa. Tam Bảo bên ngoài là điều
kiện tốt thiết yếu với người Phật tử, nhưng có được
giác ngộ giải thoát chính là khả năng của Tam Bảo tự tâm.
Chỉ biết có Tam Bảo bên ngoài là chấp sự bỏ lý. Một
bề tin vào Tam Bảo của tự tâm không cần biết đến Tam
Bảo bên ngoài, là chấp lý bỏ sự. Người Phật tử chơn
chánh phải viên dung sự lý mới khỏi trở ngại trên đường
tu.
V. Nghi Thức
Quy Y
Trọng tâm chủ yếu trong buổi
lễ quy y , chính lúc Phật tử quỳ trước Tam Bảo, ba lần
phát nguyện: "Đệ tử ... xin suốt đời quy y Phật, quy
y Pháp, quy y Tăng". Câu phát nguyện này tự đáy lòng
Phật tử phát xuất, không do sự ép buộc xúi giục nào. Ba
lần phát nguyện như vậy là gieo hạt giống vào sâu trong tàng
thức, khiến đời đời không quên. Đây là tinh thần tự
giác tự nguyện. Hình thức nghi lễ chỉ giúp thêm ấn tượng
quan trọng cho giờ phút phát nguyện ấy thôi. Khi chúng ta
tỉnh giác nguyện theo Tam Bảo thì đời ta được lợi ích.
Nếu trên đường tu có lúc nào bị vô minh che đậy không
nhớ Tam Bảo, chúng ta tự chịu thiệt thòi. Nhà Phật không
bắt buộc chúng ta thệ những gì nặng nề để không bỏ
đạo. Của báu cho người nếu ưng nhận lời thì được
lợi ích, không ưng nhận thì thôi, bắt buộc làm gì. Trừ
ra có hậu ý gì, mới bắt buộc những câu thề nặng để
không dám bỏ. Người hiểu được chỗ nầy mới thấy giá
trị chơn thật của đạo Phật.
Tất cả sự dụ dỗ ép buộc để
theo đạo, nhà Phật hoàn toàn phản đối. Mỗi người tự
nhận thức rõ ràng về đạo Phật rồi phát tâm đến với
đạo, mới đúng tinh thần Phật tử. Hiểu rồi mới theo là
hành động đúng với tinh thần giác ngộ. Dùng thuật hay,
phép lạ để dụ người ta vào đạo, đó là mê tín. Dùng
mọi quyền lợi để dụ người ta vào đạo, đó là cám
dỗ kẻ ngu si, không phù hợp với tinh thần giác ngộ. Chúng
ta có bổn phận giải thích để người khác hiểu phát tâm
quy y là, người truyền đạo chơn chánh. Nghi thức trịnh
trọng trong buổi lể quy y, chỉ là trợ duyên cho lời phát
nguyện của chúng ta được thành tựu viên mãn. Nghi lễ này
không có nghĩa là Phật sẽ ban ơn cho chúng ta trọn đời
được an lành.
VI. Khẳng Định
Lập Trường
Sau khi quy y Tam Bảo, chúng ta
khẳng định lập trường một cách tỏ rõ : "Quy
y Phật, không quy y Thiên, Thần, Quỷ, Vật".
Chúng ta đã nhận định kỹ càng quyết chí theo Phật là đấng
giác ngộ, không lý do gì lại theo Thiên, Thần, Quỷ, Vật.
Bởi vì Thiên, Thần, Quỷ, Vật vẫn chưa giác ngộ, còn
bị luân hồi như chúng ta. Song cũng có một số Phật tử
đã quy y Phật, mà vẫn chạy theo quỷ thần. Những người
này vì tham lợi lộc, vì thích mầu nhiệm, nên đã đi sai
đường Phật Pháp. Thậm chí vì sự mê tín của họ, họ
trở lại kính trọng quỷ thần hơn Phật. Đây là hiện tượng
xấu xa để khách bàng quan phê bình Phật Giáo.
"Quy y Pháp, không
quy y ngoại đạo tà giáo". Chánh pháp của
Phật là chơn lý, cứu giúp chúng sanh một cách thiết
thực, như ông thầy thuốc đối với bệnh nhân. Hiểu được
lẽ chơn thực nầy, còn lý do gì chúng ta chạy theo ngoại
đạo tà giáo. Chúng ta tự nhận mình yêu chuộng chân lý,
cầu mong sự thoát khổ thiết thực, ngoại đạo tà giáo còn
gì hấp dẫn được chúng ta. Chỉ có những kẽ ba phải
nghe đâu chúc đó, mới có những hành động đổi thay vô lý
như vậy. Dù có những phép tà ngoại linh thiêng muốn gì
được nấy, chúng ta cũng không khởi lòng tham lam theo họ.
Hoặc có những phương thuốc linh mầu nhiệm bệnh gì cũng
cứu khỏi, là Phật tử chơn chánh thà chịu chết chớ không
cầu xin. Thân này có ghìn giữ khéo mấy, cuối cùng cũng
tan hoại, lạc vào đường tà kiếp kiếp khó ra khỏi.
"Quy y Tăng, không
quy y bạn dữ nhóm ác". Chúng ta đã chọn
lựa những vị hiền đức nương theo, khiến đời mình về
gần với đức hạnh. Bạn dữ nhóm ác đối với người
biết đạo cần phải tránh xa. Bởi vì "gần mực thì
đen gần đèn thì sáng" hay "gần đồ tanh hôi mình
bị hôi lây, gần vật thơm tho mình được thơm lây". Vì
thế chúng ta phải can đảm đi đúng đường của mình đã
chọn, dù có bị khinh khi mạ lỵ, ta cũng cứ thế mà đi.
Bởi vì chúng ta đâu phải là kẻ mù quáng, mà đành bỏ cái
tốt gần cái xấu. Khẵng định lập trường rõ ràng là người
có ý chí cương quyết. Nếu người tu hành mà thiếu ý chí
nầy, dễ bị gió lung lay.
VII. Kết
Luận
Quy y Tam Bảo là nền móng tòa nhà
giác ngộ, là nấc đầu trên cây thang giải thoát, là
những bước đầu trên con đường về quê hương vô sanh.
Muốn tòa nhà vững chắc, cần phải có nền móng kiên cố.
Cần vượt tột cây thang giải thoát, nấc đầu phải bước
cho vững. Thích sự an lành của quê hương vô sanh, những bước
đầu trên con đường đi về phải đi cho đúng. Thiếu nền
móng Tam Quy thì tòa nhà giác ngộ không sao xây cất được.
Không có nấc đầu, khó ai có thể leo tận cây thang giải
thoát. Những bước đầu trên con đường về quê đã sai,
trăm ngàn bước sau cho đến càng đi càng sai. Vì thế, Quy y
Tam Bảo có tầm quan trọng vô cùng. Mỗi người muốn đến
với Đạo Phật phải từ cửa Quy y mà vào, không như thế
thì học Phật mất căn bản. Bởi nó đóng một vai trò quan
trọng như vậy, nên người Phật tử phải thận trọng
trong việc phát nguyện Quy y. Đừng vì là Quy y cho có phước,
cho khỏi bệnh hoạn, cho Phật gia hộ qua tai ách ..., đều là
lý do mê tín, trái với tinh thần tự giác tự nguyện của
Đạo Phật.
B. Ngũ Giới
I. Mở Đề
Con người là đối tượng của
Đạo Phật, bao nhiêu luật, bao nhiêu pháp môn, Đức Phật
đều vì con người lập bày. Đem lại sự an vui hạnh phúc
cho con người, là mục tiêu chính yếu của Đạo Phật. Song
quan niệm của Đạo Phật, không phải được nhiều của
cải, nhiều tình yêu v.v... là con người có hạnh phúc.
Hạnh phúc là người sống biết tiết chế, biết tôn
trọng hạnh phúc của mọi người, biết thành thật thương
mến nhau. Một dân tộc văn minh là một dân tộc biết tôn
trọng sinh mạng của nhau, tôn trọng những quyền tự do căn
bản của con người. Vì thế, ngũ giới là nền tảng căn
bản đem lại hạnh phúc cho con người, xây dựng con người
sống đúng ý nghĩa văn minh của nhơn loại. Ngũ giới là cơ
bản đạo đức của người Phật tử, khi bắt đầu bước
chân trên con đường giác ngộ giải thoát. Thiếu căn bản
đạo đức nầy, dù chúng ta có nói đạo đức cao siêu đến
đâu cũng là lối nói rỗng. Sự tu hành thiết thực phải
gầy dựng cơ bản trước, sau mới tiến lên những bậc cao
siêu. Đó là tầm quan trọng của ngũ giới.
II. Định Nghĩa
Ngũ giới là năm điều ngăn cấm
do Đức Phật bảo các Phật tử phải tuân theo. Sau khi quy y
người ấy đã tự nhận là đệ tử Phật, để đủ tư cách
một Phật tử cần phải gìn giữ năm giới. Phật vì thương
xót chúng sanh mà tạo ra năm điều răn cấm này, cốt
khiến đời sống họ được an lành hạnh phúc. Gìn giữ năm
giới này là vì mình, không phải vì Phật. Hình thức năm
giới:
1. Không sát sanh:
nghĩa là không được giết hại mạng sống con người. Chúng
ta tự quý sinh mạng của mình, vô lý lại sát hại sinh
mạng của kẻ khác. Trên lẽ công bằng nhân đạo không cho
chúng phép chúng ta làm việc ấy. Nếu làm chúng ta đã trái
lẽ công bằng, thiếu lòng nhân đạo, đâu còn xứng đáng
là đệ tử Phật. Giết hại mạng sống người có ba :
trực tiếp giết, xúi bảo người giết, tùy hỷ trong việc
giết hại. Phật tử không tự tay mình giết mạng người,
không dùng miệng xúi bảo đốc thúc kẻ khác giết, khi
thấy họ giết hại nhau chỉ một bề thương xót không nên
vui thích. Đó là giữ giới không sát sanh. Nhưng suy luận
rộng ra, chúng ta quý trọng mạng sống của chúng ta, những
con vật cũng quý trọng mạng sống của nó, để lòng công
bằng tràn đến các loài vật, nếu không cần thiết, chúng
ta cũng giãm bớt giết hại sinh mạng của chúng.
2. Không trộm cướp:
Của cải tài sản của chúng ta, không muốn ai xâm phạm đến,
của cải tài sản của người, chúng ta cũng không được
giựt lấy hay lén lấy. Bởi cướp giựt hay lén lấy của
người là hành động trái nhơn đạo, phạm luật pháp chánh
quyền, phải bị trừng phạt. Trộm cướp là do lòng tham
lam ác độc, chỉ nghĩ lợi cho mình, quên nỗi đau khổ
của người, mất cả công bằng và nhơn đạo, người
Phật tử nhất định không được làm.
3. Không tà dâm: Người
Phật tử có vợ chồng đôi bạn như mọi người thế gian
khác. Khi có đôi bạn rồi tuyệt đối không phạm đến
sự trinh bạch của kẻ khác. Nếu phạm thì mắc tội tà dâm.
Bởi vì đây là hành động làm đau khổ cho gia đình mình và
gia đình người, tạo thành nguy cơ tán gia bại sản. Do
một chút tình cảm riêng tư của mình, khiến nhiều người
khổ đau liên lụy, quả là thiếu lòng nhân. Để bảo đảm
sự an ổn của gia đình mình và hạnh phúc của gia đình người,
Phật tử nhất định không phạm tà dâm.
4. Không nói dối: Nói
lời trái với sự thật để mưu cầu lợi mình, hoặc hại
người là nói dối. Do động cơ tham lam ác độc, sự kiện
sảy ra như thế này lại nói thế khác, sửa trái làm mặt,
đổi phải thành quấy, khiến người mắc họa. Người nói
như thế trái với đạo đức, mất cả lòng nhân, không
xứng đáng là một Phật tử. Phật tử là người đạo đức
nên ăn nói có mẫu mực, thấy biết thế nào nói thẵng
thế ấy, không điêu xảo dối trá. Trừ trường hợp vì
lợi người lợi vật, không nỡ nói thật để người bị
hại hoặc khổ đau, do lòng nhân cứu người cứu vật nói
sai sự thật mà không phạm. Không nói dối là giữ lòng tin
với mọi người chung quanh.
5. Không uống rượu:
Đạo Phật chủ trương giác ngộ muốn được giác ngộ trước
phải điềm đạm tỉnh sáng, uống rượu vào gan ruột nóng
bức, tâm trí quay cuồng, mất hết bình tỉnh không còn sáng
suốt, trái hẵn mục đích giác ngộ. Chính vì nóng bức
cuồng loạn, có những người khi say sưa tội lỗi họ cũng
dám làm, xấu xa gì họ cũng không sợ, mất hết lương tri.
Vì thế người biết đạo đức phải tránh xa không uống rượu.
Uống rượu chẵng những làm mất trí khôn, lại gây nên
bịnh hoạn cho thân thể, còn di hại cho con cái sau này đần
độn. Quả là một tai họa cho cá nhân và xã hội. Người
Phật tử vì nghiệp giác ngộ, vì lợi ích cho mình cho người
quyết hẳn không uống rượu. Trừ trường hợp mắc bệnh
y sỹ bảo phải dùng rượu hòa thuốc mới lành, Phật tử
được uống thuốc rượu đến khi lành bệnh thì chấm
dứt, cần phải trình cho chư Tăng biết trước khi uống.
III. Lợi Ích
Bản Thân
Người biết giữ gìn năm giới
đã tạo thành căn bản đạo đức và sự an lành cho bản
thân. Không sát sanh, bản thân ta không bị người
giết, hoặc tù tội về giết người, cũng không có thù
hận về nợ máu với nhau. Thế là chúng ta không sống trong
kinh hoàng sợ hãi, do thù hằn gây nên. Không trộm cướp,
bãn thân ta không mắc tù tội về trộm cướp, ở đâu hay
đi đến chỗ nào khỏi sợ người theo dõi nghi ngờ. Tới
lui tự do, đến đi an ỗn, không phải hạnh phúc là gì ? Không
tà dâm, bản thân ta khỏi phải lao thần tổn trí,
khỏi sợ ai bàn tán dở hay, mọi người đều tín nhiệm và
tin cậy ta. Bản thân ta trinh bạch, khiến người tự quý
mến. Tự mình an ỗn, gia đình cũng an ỗn. Không nói
dối, chính ta không phải hối hận, lời nói tự có
giá trị, gây được niềm tin của mọi người. Người hay
nói dối sẽ bị xã hội đánh giá thấp, đề xướng điều
gì đều bị nghi ngờ, làm việc gì ít ai tán trợ. Không
uống rượu, chính ta khỏi bị cái tệ điên cuồng
mất trí, khỏi gây cho cơ thể bệnh hoạn suy yếu, khỏi
bị người khinh thường trong lúc say sưa. Trái lại, bản thân
ta điềm đạm bình tỉnh, thân thể khỏe mạnh, đối với
mọi người đều được quý kính, sanh con cũng thông minh sáng
suốt. Đó là lợi ích bản thân ngay trong hiện tại. Nếu
về mai sau không sát sanh, thân tráng kiện sống lâu; không
trộm cướp, được tài sản sung túc; không tà dâm, thân
thể đẹp đẽ; không nói dối, ăn nói khôn ngoan mọi người
yêu chuộng; không uống rượu, trí tuệ sáng suốt.
IV. Lợi Ích
Gia Đình Xã Hội
Mọi người trong nhơn loại đều
tự nhận sinh mạng là tối thượng. Biết tôn trọng sinh
mạng là nếp sống văn minh, chà đạp lên sinh mạng là con
người dã man. Biết giữ năm giới là nguồn hạnh phúc
của gia đình, là nếp sống văn minh của xã hội. Đức
Phật nhìn thẳng vào con người, đem lại hạnh phúc cho con
người một đời sống an lành, một gia đình hạnh phúc,
một xã hội văn minh, Ngài tạo ra năm giới.
Sinh mạng là giá trị tối thượng
của con người mọi người đều phải tôn trọng, vì tôn
trọng sinh mạng con người, Phật cấm Phật tử không được
sát sinh. Sinh mạng con người được tồn tại vững bền,
nhờ tài sản nuôi dưỡng, vì tôn trọng tài sản của người,
Phật cấm Phật tử không được trộm cướp. Sự sống
của con người cần có gia đình, gia đình là tổ ấm của
nhơn loại, tổ ấm ấy bị lung lay là mất hạnh phúc, vì tôn
trọng hạnh phúc của gia đình, Phật cấm Phật tử không
được tà dâm. Sự sống chung đụng trong gia đình và ngoài
xã hội cần phải tin tưởng nhau, thiếu lòng tin thì không
thể thương cảm thân yêu, vì đem sự tin yêu lại cho mọi
người, Phật cấm không được nói dối. Trật tự của gia
đình và xã hội là sự an ổn, một duyên cớ gây xáo
trộn trong gia đình và ngoài xã hội là làm mất trật tự
chung, vì tôn trọng trật tự của gia đình và xã hội,
Phật cấm Phật tử không được uống rượu.
Chỉ trong năm giới luật thôi,
nếu gia đình nào gìn giữ trọn vẹn là gia đình ấy có
hạnh phúc, trên thuận dưới hòa, tin yêu thuần cẩn. nếu
mọi người trong xã hội ứng dụng triệt để là một xã
hội văn minh, chan hòa sự thông cảm và thương mến. Chúng
ta vì lợi ích bản thân, vì hạnh phúc của gia đình, vì
sự an lạc của xã hội, nỗ lực gìn giữ năm giới. Gìn
giữ năm giới là tôn trọng nhân bản, là nếp sống văn
minh, là nền tảng đạo đức vậy.
V. Kết Luận
Sự khổ đau tột độ của con người
không gì hơn, khi họ nghĩ đến sinh mạng họ bị đe dọa,
tiền của họ bị mất mát, người yêu họ bị xâm phạm.
Chính đây là nỗi thống khổ khắc nghiệt nhất của con người.
Vì cứu khổ đem vui lại cho con người. Phật cấm người
Phật tử không được làm ba điều ấy. Tình thương vĩnh
viễn không có, nếu con người không tin tưỡng và cảm thông
nhau. Điều này cũng là nỗi khổ thứ yếu của con người.
Bởi vì trong cuộc sống mà không có tình thương, là loài
người đang lạc loài ở giữa sa mạc hay chốn rừng hoang,
còn đâu sự đùm bọc thân yêu chia sớt cay đắng ngọt bùi.
Muốn đem tình thương cho nhơn loại, trước tiên phải có
tin tưởng thông cảm nhau, nên Phật cấm người Phật tử
không được nói dối. Chính bao nhiêu đó, chúng ta đã
thấy lòng từ bi lênh láng của Đức Phật. Tinh thần cứu
khổ ban vui của Đạo Phật đã thể hiện rõ ràng trong năm
giới này. Vì thương mình thương người, Phật tử chúng ta
phải cố gắng giữ gìn và khuyên người gìn giữ. Đó là
căn bãn của đạo làm người hiện tại và mai sau.
Hòa
thượng Thích Thanh Từ
(Trích: "Bước Đầu Học Phật")