Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã
ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ
ách.
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã
ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ
ách.
Trong đây khó nhất là chữ Không. Toàn
bộ Đại Bát-nhã gồm sáu trăm quyển, rất rộng rất nhiều, ở đây vì
bài kinh rút quá gọn, nên người đọc khó nhận ra được ý nghĩa.
Soi thấy năm uẩn đều không
bằng cách nào? Chữ Không ở đây là
soi thấy năm uẩn đều không có Tự tánh, chớ không phải là không ngơ
hay là chân không .
Không ngơ là không có gì hết, tức là chấp không.
Hiểu chữ Không như vậy là sai lầm, không đúng tinh thần
Bát-nhã là phá chấp, phá chấp có và phá chấp không.
Không nếu hiểu
là chân không lại không ổn, vì chân không không thể giải thích bằng
ngôn ngữ văn tự được.
Để hiểu rõ chữ Không, chúng ta cần biết
qua ba thời kỳ Phật giáo:
1. Sơ kỳ Phật giáo: Giải thích pháp Tứ đế, Thập
nhị nhân duyên, cho đây là chân lý. Như thế là còn nằm trên hình
thức, nói về tướng hoặc có, hoặc không, hoặc thiện, hoặc ác v.v…
2. Trung kỳ Phật giáo: Nói về lý Tánh không
tức là lý Bát-nhã.
3. Hậu kỳ Phật giáo: Nói về lý Chân không diệu
hữu.
Chữ Không trong Bát-nhã là không Tự tánh,
hay Không tánh. Học Bát-nhã là học về lý Tánh không. Tánh không là
gì ? Tánh là danh từ chỉ cái gì cố định, bất di bất dịch. Tánh
không chỉ tất cả pháp thế gian này đều không có cái gì cố
định, bất di bất dịch, nghĩa là hằng đổi dời, không thật. Tinh thần
Bát-nhã chống lại nghĩa Tánh hữu, tức là các pháp đều có Tự
tánh, đều cố định, đều là thật. Quan niệm Tánh hữu là không đúng
theo lý Bát-nhã.
Các pháp thế gian không cố định nên không phải là
thật, do duyên hợp nên không phải là không ngơ.
Soi thấy năm uẩn đều không
tức là soi thấy năm uẩn đều không có tính cách cố
định. Khi soi thấy năm uẩn đều không cố định, nên qua hết tất cả khổ
nạn. Vì sao? Vì tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay bị bệnh chấp
ngã.
Bệnh thứ nhất của chấp ngã là chấp thường nhất.
Chấp thường nhất là mỗi người đều chấp thân tâm mình thật có, tức là
thường còn thường nhất không thay đổi. Thử hỏi trong chúng ta, ai
thấy được con người mình luôn luôn thay đổi? Từ thuở bé đến ngày nay
khôn lớn bốn, năm mươi tuổi, con người mình khi trước và ngày nay là
một hay là hai? Nếu nhận thấy nó không khác, là thường nhất, gọi là
chấp ngã. Nhưng kiểm lại xem con người mình về tâm sanh lý từ lúc bé
thơ đến tuổi già nua có thật là thường nhất, có thật là không thay
đổi, có thật là một chăng? Nhận xét như vậy mới biết chấp ngã là một
quan niệm sai lầm của con người.
Bệnh thứ hai của chấp ngã là chấp chủ tể. Chấp
chủ tể tức là chấp mình làm chủ trọn vẹn con người mình về cả hai
mặt sanh lý và tâm lý. Ai cũng thầm nghĩ thân này là của tôi, tức là
tôi làm chủ nó trọn vẹn, cũng như tôi có cái nhà và bàn ghế trong
nhà, tôi làm chủ trọn vẹn tức là tôi có trọn quyền sử dụng nó không
ai ngăn cản hay sửa đổi được.
Nhưng tôi có thật sự làm chủ con người tôi hay
không? Về mặt sanh lý, tôi luôn luôn muốn cho thân thể được khỏe
mạnh hồng hào, nhưng đôi khi nó cũng bị đau yếu nhức nhối, đòi hỏi
phải thuốc thang chữa trị. Như vậy tôi đâu có thật làm chủ thân tôi.
Về mặt tâm lý, tôi không làm chủ được tư tưởng của tôi. Như trong
lúc ngồi thiền tôi suy nghĩ miên man hết việc này đến việc khác, tôi
muốn tâm thanh tịnh mà có mấy khi được như vậy.
Hai quan niệm chấp ngã: ngã là thường nhất và ngã
là chủ tể, là hai quan niệm sai lầm và lệch lạc. Do bệnh chấp sai
lầm này nên chúng ta đau khổ. Nếu chúng ta nhận thấy rõ con người
mình không thường nhất và không có chủ tể là chúng ta phá được bệnh
chấp ngã.
Trong thời sơ kỳ Phật giáo, để phá bệnh chấp ngã,
đức Phật bảo thân này do tứ đại hòa hợp là cho những người thiên
chấp về vật chất, thân này do ngũ uẩn hòa hợp là cho những người
thiên chấp về tinh thần.
Nếu thân này đã do tứ đại hòa hợp, tức là đất
nước gió lửa hòa hợp, thì thân này không có nghĩa là thường nhất
được. Trong bốn đại, không đại nào làm chủ, nên biết thân này không
có chủ tể.
Nếu thiên chấp về tâm, Phật dạy thân này do ngũ
uẩn hòa hợp, tức là ngoài Sắc uẩn chỉ cho thân, còn có bốn uẩn thuộc
phần tâm lý là: thọ, tưởng, hành, thức.
Thọ là cảm giác, lãnh thọ. Ví dụ khi mắt nhìn
thấy cảnh đẹp, mình nhận đây là cảnh đẹp, rồi vui thích gọi là thọ
lạc của mắt, khi nhìn cảnh xấu, mình nhận đây là cảnh xấu và cảm
thấy chán ghét gọi là thọ khổ của mắt. Khi tai nghe tiếng nhạc hay
tiếng khen, mình cảm thấy vui thích gọi là thọ lạc của tai, nếu nghe
tiếng dở và tiếng chê, mình cảm thấy ghét giận gọi là thọ khổ của
tai. Như vậy khi mắt tai mũi lưỡi thân ý tiếp xúc với sáu trần bên
ngoài, khi cảm thấy vừa ý và vui thích gọi là thọ lạc, khi cảm thấy
trái ý và chán ghét gọi là thọ khổ. Cảm nhận sự vui buồn thương ghét
gọi là thọ uẩn, tức thuộc phần tâm lý hay tâm thức.
Tưởng là những nghĩ tưởng về các cảnh đã thấy,
như khi chúng ta tưởng lại các cảnh đã thấy ở thành phố hay núi non,
thì các cảnh ấy hiện ra với mình. Hoặc khi chúng ta tưởng đến việc
vị lai, thì những việc ấy hiện ra với mình. Như vậy những nghĩ tưởng
trở về quá khứ hay hướng đến tương lai là thuộc về tinh thần hay tâm
thức.
Hành là những suy tư tiếp nối miên man sanh diệt
chẳng dừng ở một điểm. Như khi chúng ta đang suy nghĩ một vấn đề gì,
tâm tư chúng ta luôn luôn nghĩ từ việc này sang việc khác liên tục
không ngừng, như người bộ hành đi đường, bước này tiếp nối bước kia
không dừng. Hành cũng thuộc về tâm thức.
Thức là cái phân biệt. Ví dụ mắt thấy sắc, phân
biệt là đẹp là xấu, tai nghe tiếng, phân biệt là
hay là dở v.v… Phân biệt gọi là
thức, thuộc về tinh thần.
Thọ, tưởng, hành, thức bốn uẩn này thuộc về tâm.
Vì tâm do bốn uẩn kết hợp không thể là thường nhất, cũng không có
chủ tể, vì không uẩn nào là chủ. Tại sao năm thứ đều gọi là uẩn? Uẩn
nghĩa là chứa nhóm hay tích tụ. Sắc chứa nhóm bốn đại hay tích tụ
bốn đại, thọ chứa nhóm sáu thọ của sáu căn…
Trong thời sơ kỳ Phật giáo tức là thời kỳ nguyên
thủy, Phật thuyết pháp vô ngã để phá bệnh chấp ngã về thân và
tâm. Con người chúng ta là tướng duyên hợp do tứ đại hay ngũ uẩn kết
hợp không thật, nên không thường nhất và không chủ tể. Vô ngã là
không có một cái ngã thường nhất và chủ tể.
Nhiều người hiểu lầm nghĩa vô ngã, cho rằng vô
ngã là không ngơ tức là không có mình, không có thân này. Nếu không
có thân này thì ai đang sống đây, ai đang hoạt động, ai đang thọ khổ
thọ vui? Có thân này nên chúng ta mới có cảm giác nóng lạnh, đau
nhức hay êm dịu; có tâm này nên chúng ta mới cảm nhận, suy tư hay
phân biệt. Nhưng thân và tâm này là do duyên hợp tạo thành, nên
không thường nhất và không chủ tể, gọi là vô ngã.
Lại có nhiều người nghĩ lầm thân tâm mình, từ xưa
đến nay là một không biến đổi, mình làm chủ mình hoàn toàn, mình
được tự tại, không ai có quyền làm chủ mình. Nhưng thật sự thể xác
và tinh thần chúng ta, từ xưa đến nay đã đổi thay không biết bao
nhiêu lần và chúng ta thật sự có bao giờ làm chủ chúng ta đâu! Nếu
chúng ta nhận không đúng lẽ thật mà khăng khăng bám chặt vào quan
niệm sai lầm, gọi là chấp. Có một quan niệm sai lầm về thân và tâm
là thường nhất và có chủ tể, gọi là chấp ngã. Và chấp ngã là nguyên
nhân của tất cả khổ đau trong cuộc đời.
Đến giai đoạn thứ hai là thời trung kỳ Phật giáo,
đức Phật không còn nói thân này không thật, do tứ đại hay ngũ uẩn
duyên hợp giả có, mà đức Phật đi thẳng vào năm uẩn, soi thấy từng
uẩn một đều không cố định. Vì mỗi uẩn không có tánh cố định, luôn
luôn biến chuyển và đổi dời nên không thường nhất, không chủ tể, còn
gọi là không Tự tánh. Năm uẩn còn không cố định huống là cái hợp thể
do năm uẩn hợp lại tức là thân, là bản ngã của chúng ta làm sao cố
định được.
Lấy một ví dụ cho dễ hiểu là bàn tay chúng ta.
Năm ngón tay co lại hợp thành nắm tay, nắm tay này không cố định,
nếu cố định thì đâu đợi năm ngón co lại mới hợp thành? Nếu xòe bàn
tay chia ra từng ngón một thì đâu có nắm tay. Năm ngón co lại thành
nắm tay, thử hỏi ngón tay nào là chủ của nắm tay? Trong năm ngón
không có ngón nào làm chủ, nên nghĩa chủ tể của nắm tay không thành
được. Nắm tay do năm ngón co lại nên không thường nhất, nếu thường
nhất thì đâu đợi năm ngón co lại mới thành, nếu thường nhất thì khi
xòe bàn tay ra từng ngón một, nắm tay ở đâu? Cái thường nhất có còn
không?
Như vậy nghĩa thường nhất của nắm tay cũng không.
Nắm tay trước không có, do duyên hợp tạm có, duyên tan thì mất,
không thường nhất, không chủ tể, nên gọi là không cố định.
Tiến sâu hơn, chúng ta không nhắm vào nắm tay
nữa, mà nói từng ngón tay, mỗi ngón tay có thật hay không? Có đủ hai
nghĩa thường nhất và chủ tể hay không? Mỗi ngón tay cũng là tướng
duyên hợp do xương gân máu thịt hợp thành, nên không có đủ hai nghĩa
thường nhất và chủ tể. Một ngón tay không thường nhất và không chủ
tể, năm ngón tay cũng thế, huống là nắm tay. Ngón tay là đơn vị hợp
thành nắm tay, chính mỗi ngón tay ấy cũng là một hợp thể, cũng là
tướng duyên hợp tạm bợ không thật, không cố định.
Đức Phật đi thẳng vào từng uẩn một của thân năm
uẩn, soi thấy mỗi uẩn đều không cố định nên gọi là soi thấy năm
uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách. Làm sao qua
được khổ ách? Khổ ách gốc từ đâu mà có? Nếu hỏi ai khổ thì trả lời
tôi khổ, tôi bị tai nạn. Tôi là gì? Là bản ngã, là cái tôi trước sau
như một, là cái tôi làm chủ. Nếu cái tôi trước sau như một, gặp điều
gì trái sở thích gọi là khổ, gặp việc gì làm nó bị suy giảm gọi là
nạn. Sở dĩ có khổ nạn là vì chấp bản ngã, nếu bản ngã không còn thì
khổ nạn còn không? Bản ngã không còn không có nghĩa là không ngơ, mà
có nghĩa là không cố định. Bởi bản ngã không cố định vì là tướng
duyên hợp, bởi là tướng duyên hợp nên tạm bợ hư dối, đổi dời luôn
luôn không dừng; không chủ tể, không thường nhất, đó là nghĩa “vô
ngã”. Nếu ngay nơi năm uẩn, thấy rõ mỗi uẩn luôn luôn đổi dời không
chủ tể và không thường nhất, thì cái thân do năm uẩn hợp lại làm sao
có chủ tể và thường nhất được. Nên nói soi thấy năm uẩn đều không,
tất cả khổ nạn theo đó liền dứt.
Nếu chúng ta thấy rõ thân này, về sanh lý cũng
như tâm lý đều là tướng duyên hợp đổi dời không cố định, thì mới
biết thân này là hư dối không thật, cái ngã này là hư dối không
thật. Và những gì đến với cái ngã hư dối không thật này, dù là tốt
xấu hay vui buồn cũng đều hư dối không thật, thì còn gì gọi là khổ
ách nữa. Nên nói soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết tất cả khổ
nạn.
Người tu hành chỉ cần soi thấy năm uẩn đều không
là qua hết khổ nạn, là được giải thoát. Nhưng chúng ta phải soi
trong thời gian bao lâu mới thấy năm uẩn đều không? Bồ-tát Quán
Tự Tại hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời…Soi đây là hành, thâm
là sâu xa đến bao giờ thâm nhập được trí tuệ Bát-nhã, khi ấy xem
thấy năm uẩn đều không cố định nên tất cả khổ nạn đều qua.
Trên đường tu tập Bát-nhã, chúng ta soi thấy năm
uẩn đều có rõ ràng, như vậy lời Phật dạy không đúng sao? Đó là vì
chúng ta chưa hành thâm Bát-nhã, thâm đây không phải năm mười ngày,
đôi ba tháng hay hai ba năm, thâm đây là thâm nhập sâu xa trí tuệ
Bát-nhã, khi ấy xem thấy năm uẩn đều không cố định nên tất cả khổ
nạn đều qua.
Sở dĩ chúng ta đau khổ là vì mê lầm về bản thân
nên sanh chấp ngã. Với trí tuệ Bát-nhã chúng ta thấy đúng như thật
thân tâm này là tướng hư dối, luôn luôn biến chuyển không cố định,
nên không còn mê chấp nữa. Không mê lầm chấp ngã nên hết khổ nạn.
Giả sử có ai gọi tên ta và xỉ vả đủ điều, nếu chúng ta dùng trí tuệ
Bát-nhã thấy đúng như thật thân tâm là tướng hư dối, không còn chấp
ngã thì các đau khổ liền dứt. Người học Phật phải thấy đúng như vậy,
vì đó là căn bản của sự tu hành.
Xá-lợi tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc,
sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc
phục như thị.
Này Xá-lợi-phất, sắc chẳng khác không,
không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ,
tưởng, hành, thức cũng lại như thế.
Đến đây Phật đi vào chi tiết, bảo ngài
Xá-lợi-phất: Sắc uẩn chẳng khác với không, không chẳng khác với Sắc
uẩn. Không đây chẳng phải là không ngơ, hay trống không như hư
không. Không đây là không Tự tánh tức là không cố định. Sắc uẩn là
phần thân tứ đại, thân tứ đại này là tướng duyên hợp đổi dời không
cố định. Chính bản chất thân tứ đại này không cố định, nên không
khác với không. Nếu thân tứ đại là cố định tức khác với không rồi.
Cho nên nói Sắc uẩn chẳng khác với cái không cố định và cái không cố
định chẳng khác với Sắc uẩn.
Ví dụ cái bàn là tướng duyên hợp nên không cố
định, như vậy cái không cố định chẳng khác với cái bàn. Vì sao? Vì
ngay nơi cái bàn tự nó đổi dời sanh diệt nên không cố định, và cái
không cố định là sẵn nơi cái bàn và ngay nơi cái bàn. Sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc là như vậy.
Sắc tức là không, không tức là sắc.
Trong đoạn trước còn so sánh, thấy dường như hai,
sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Đến đây Phật chỉ thẳng
chính Sắc uẩn là không cố định, không cố định chính là Sắc uẩn.
Nghĩa là thân tứ đại này là tướng biến đổi không cố định, không cố
định là thân tứ đại này. Nếu thân tứ đại cố định thì không diệt,
nhưng thân bị sanh diệt tức bản chất nó không cố định.
Như cái bàn này là không cố định, cái không cố
định tức là cái bàn này, không phải rời cái bàn này có cái không cố
định ở ngoài.
Nhiều người cho rằng sắc là sắc, không là không,
vì sao lại nói sắc tức là không, không tức là sắc? Phải hiểu
chữ không đây là không cố định, là sanh diệt đổi dời.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế.
Nghĩa là Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn,
bốn uẩn này cũng lại như thế. Thọ uẩn chẳng khác với
không cố định, không cố định chẳng khác với Thọ uẩn, Thọ uẩn tức là
không cố định, không cố định tức là Thọ uẩn. Tưởng uẩn, Hành uẩn,
Thức uẩn cũng đều như vậy, chẳng khác với không cố định và tức là
không cố định.
Xá-lợi tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh
bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Này Xá-lợi-phất, tướng không của các pháp,
không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
Tướng không
của các pháp tức là tướng không cố định
của các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tướng không cố định ấy
chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Vì sao? Vì là không cố định. Nếu nói sanh tức là cố định mất rồi,
nếu nói diệt tức là cố định mất rồi; nếu sanh thì đâu có diệt, nếu
diệt làm sao có sanh? Cho nên nói tướng không cố định không phải
sanh, không phải diệt, là như vậy. Nó không phải nhơ, không phải
sạch, vì nếu là nhơ tức không bao giờ đổi thành sạch được , nếu là
sạch tức không bao giờ biến thành nhơ được. Nên nói tướng không cố
định không phải nhơ, không phải sạch. Cũng như vậy, tướng không cố
định của các pháp không phải thêm, không phải bớt.
Nói tóm lại, tướng không cố định của các pháp
không phải sanh, không phải diệt, không phải nhơ, không phải sạch,
không phải tăng, không phải giảm. Tướng không cố định ấy không phải
tất cả những tướng đối đãi. Vì sao? Vì nếu nó là cái này hay là cái
kia tức là nó cố định mất rồi. Vì tướng không cố định, nên sanh có
thể biến thành diệt, nhơ biến thành sạch, tăng biến thành giảm, hoặc
diệt biến thành sanh v.v… Tướng của các pháp tùy duyên đổi thay nên
không cố định. Vì tùy duyên đổi thay nên không thể xác nhận nó là
cái gì được. Tỉ dụ chúng ta có một ly nước đang trong sạch, nếu đem
bỏ đất vào thì ly nước biến thành nhơ đục mất rồi. Như vậy ly nước
không cố định phải là sạch hay là nhơ mà tùy duyên, tức là từ sạch
do duyên đổi, biến thành nhơ. Nếu là cố định, khi sạch phải sạch mãi
không nhơ, khi nhơ phải nhơ mãi không sạch, mà thật ra nó tùy duyên
thay đổi làm sao gọi là cố định! Đó là ý nghĩa tướng không cố định
của các pháp, nó không phải là cái gì hết vì nó là tướng tùy duyên.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng,
hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
Cho nên trong tướng không không có sắc,
không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới
cho đến không có ý thức giới.
Ở đây Phật dạy tướng không cố định không phải là
năm uẩn, không phải là sáu căn, không phải là sáu trần, không phải
là mười tám giới. Nếu nó là cái nào tức là cố định rồi. Vì nó không
phải là cái nào hết, nên nó mới tùy duyên không cố định. Nên nhớ chữ
Vô ở đây là không phải: không phải sắc, không
phải thọ, tưởng, hành, thức v.v… vì căn cứ trên tướng
không cố định mà nói như vậy.
Khi chúng ta chấp nặng Sắc thân, đức Phật dùng tứ
đại để phá chấp; khi chấp nặng phần tâm lý, đức Phật dùng ngũ uẩn để
phá chấp. Khi chúng ta chấp về căn thân và trần cảnh, đức Phật dùng
Thập nhị xứ để phá chấp; khi chấp căn, trần và thức, đức Phật dùng
Thập bát giới để phá, cho nên nói không phải nhãn giới cho đến không
phải ý thức giới. Nói tóm lại, trong cái không cố định không phải là
sáu căn, không phải là mười hai xứ, không phải là mười tám giới,
nghĩa là cái không cố định không phải là tất cả pháp thế gian.
Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô
lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô
đắc.
Không có vô minh cũng không có hết vô minh,
cho đến không có già chết cũng không có hết già chết; không có khổ,
tập, diệt, đạo; không có trí tuệ cũng không có chứng đắc.
Đây là chỉ pháp xuất thế gian. Thập nhị nhân
duyên thuộc về sơ kỳ Phật giáo, bắt đầu là vô minh, hành, thức, danh
sắc v.v… cho đến lão tử, đó là chiều lưu chuyển. Vô minh diệt thì
hành diệt, hành diệt thì thức diệt … cho đến lão tử diệt, đó là
chiều hoàn diệt. Như vậy, cái không cố định, không phải là mười hai
nhân duyên trong chiều lưu chuyển, cũng không phải mười hai nhân
duyên trong chiều hoàn diệt.
Không phải khổ, tập, diệt, đạo.
Tức là không phải pháp Tứ đế, nghĩa là cái không
cố định không phải Khổ đế, không phải Tập đế, không phải Diệt đế,
không phải Đạo đế. Pháp Tứ đế thuộc về sơ kỳ Phật giáo, là bốn pháp
chân thật không dời đổi, tức là cố định. Nhưng ở đây nói không phải
khổ tập diệt đạo là để phá cái chấp cố định của Tiểu thừa.
Tiểu thừa đối với giáo pháp Phật nói cho là chân
lý, nên chấp chặt đó là thật. Nhưng ở đây phá luôn cái chấp Mười hai
nhân duyên và Tứ đế. Vì sao? Vì Mười hai nhân duyên và Tứ đế là
tướng không thật, đổi dời và không cố định.
Không phải trí, cũng không phải đắc.
Đây là nói đến quan niệm Bồ-tát. Thường thường
Bồ-tát dùng Sáu ba-la-mật để độ chúng sanh, nhưng trong Sáu
ba-la-mật, trí ba-la-mật là căn bản. Nếu Bồ-tát dùng sáu ba-la-mật
độ chúng sanh, sẽ đắc quả Sơ địa đến Thập địa Bồ-tát, tức là có trí
có đắc. Nhưng sự thật ở đây nói không trí cũng không đắc, vì không
có sở đắc, tức là không có cái để chứng được.
Sự thật của pháp thế gian, tại sao nói không cố
định, không phải tất cả pháp thế gian? Không phải tất cả pháp thế
gian, nghĩa là không phải tất cả pháp đối đãi của thế gian. Cái
không cố định đó, nó không phải là cái gì trong các pháp đối đãi thế
gian, bởi vì nếu nó là cái gì thì thành cố định cái đó rồi, cho nên
nói cái không cố định không phải tất cả pháp thế gian, nhưng là tất
cả pháp thế gian. Tất cả pháp đối đãi thế gian không khác với không
cố định, mà chính là không cố định. Đây là ý nghĩa thâm trầm
của tinh thần Bát-nhã.
Thường thường tất cả pháp thế gian, khi lập ra
cái gì người ta đều cố định cái ấy, xét cho kỹ có pháp thế gian nào
mà chúng ta không chấp là thật đâu? Khi nói phải chúng ta chấp phải
là thật, khi nói quấy chúng ta chấp quấy là thật, nói tốt xấu dài
ngắn đều chấp là thật, nói cái gì đều chấp cái đó là thật. Nhưng thử
hỏi tất cả cái ấy có thật không? Có cố định không? Nếu nói phải, có
cố định là phải chăng? Nói quấy, có cố định là quấy chăng?
Ở thế gian khi người ta nói như thế này là phải,
thì tất cả người nghe theo nhận đó là phải và cho cái phải đó là cố
định. Nhưng người khác lại nói như thế kia là phải, thì sao? Tức
nhiên cái phải quấy chỉ là cái bày ra đấy thôi. Cái bày ra đó của
ai? Tức nhiên là của những người lớn có uy quyền, rồi người sau bắt
chước, chấp đó là phải, là cố định. Tỉ dụ hồi xưa các cụ nho nói
người nữ là “khuê môn bất xuất”, cho đó là phải. Lúc ấy mọi người
đều thấy như thế là phải. Nhưng ngày nay người nữ ngang quyền với
người nam, có quyền ra ứng cử… Như vậy quyền bình đẳng đó là phải
hay là quấy? Nếu hiện nay là phải, thì cái phải ngày xưa với cái
phải ngày nay còn là một được không? Có khác nhau không? Nếu ngày
xưa là phải, thì hiện nay đâu phải. Nếu ngày nay là phải thì ngày
xưa hết phải. Như vậy ai phải? Cái nào phải?
Qua tỉ dụ trên, chúng ta thấy cái phải không cố
định, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp, tùy theo sự sắp đặt
của người trên trước có uy quyền. Thời đó phải sống như vậy mới là
phải, tức là cái phải của thời đó, của lúc đó mà thôi, chớ đâu phải
là cái phải miên viễn muôn đời. Nếu chúng ta chấp cái đó là phải, mà
có người nói khác đi tức nhiên ta phản đối lại, do đó sanh ra bao
nhiêu tranh cãi phiền phức.
Xét kỹ lại tất cả cái phải đều không cố định, đã
không cố định thì đâu có thật. Phải đã như vậy, thì quấy cũng như
vậy. Giả sử có những việc ngày xưa cho là quấy, ngày nay trở thành
phải, cũng có những việc ngày xưa cho là phải, ngày nay trở thành
quấy. Mỗi thời mỗi lúc đều mỗi khác, cho nên phải quấy đều không cố
định, nếu chúng ta chấp sự việc là cố định, tức nhiên là sai lầm, là
không đúng sự thật.
Thiện ác có cố định được không?
Thường thường chúng ta hay nói làm việc này là
thiện, làm việc kia là ác. Nhưng, tỉ dụ vào một buổi chiều ngồi trên
Thiền thất, tôi thấy một con kỳ nhông đang bò trên thân cây tràm.
Bỗng từ xa bay nhanh lại một con chim bìm bịp chực chụp mổ kỳ nhông,
chú kỳ nhông hoảng sợ chạy loanh quanh thân cây, bìm bịp cũng bay
loanh quanh đuổi theo. Đứng trước cảnh đó, tôi phải làm sao? Tôi ra
đuổi con bìm bịp để cứu con kỳ nhông, việc làm đó là thiện hay ác?
Thấy qua dường như là thiện, cứu được sanh mạng con vật bé nhỏ, đuổi
được con vật lớn hiếp đáp, đó là việc thiện chớ gì? Nhưng xét kỹ
lại, quí vị thấy việc thiện đó đã thật là thiện hay chưa? Đứng về
bên con kỳ nhông đây là việc thiện, nhưng đứng về bên con bìm bịp
thì thế nào? Buổi chiều đang đói, chim bìm bịp đi kiếm ăn, gặp được
miếng mồi, sắp mổ ăn, mà bị người ngăn lại, làm sao khỏi sanh tức
giận. Khiến kẻ khác tức giận đó là việc ác chớ gì? Như vậy việc đuổi
chim bìm bịp chỉ thiện đối với con kỳ nhông mà ác đối với chim bìm
bịp, thiện ác có cố định không? Xét xa hơn nữa, chẳng những ác với
chim bìm bịp mà còn ác với con mồi khác nữa, vì chim bìm bịp đâu
chịu nhịn đói, tức nhiên phải kiếm một con mồi khác để ăn. Và con
mồi này là nạn nhân của tôi vì nó đã thế mạng con kỳ nhông, nếu nó
biết việc này tức nhiên nó sẽ oán thù tôi luôn!
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy phải định
thiện ác như thế nào? Thiện ác có cố định chăng? Một việc làm mới
nhìn dường như là thiện, nhưng nhìn qua một khía cạnh khác lại là
ác, chính đó là trong đối đãi không cố định, nghĩ làm việc thiện mà
việc ác đã ở bên cạnh rồi. Thiện ác không cố định mà chấp là cố
định, là chúng ta đã sai lầm. Tuy nhiên trong đối đãi, làm việc gì
lợi mình lợi người là thiện, hoặc hại mình mà lợi nhiều người là
thiện, còn làm việc gì lợi mình hại người là ác.
Nói lại tỉ dụ ly nước khi nãy, nó có cố định là
nhơ hay sạch chăng? Một ly nước đang trong sạch, bỏ đất vào thành
nhơ mất, đâu có cố định. Ly nước thành nhơ ấy, để lóng lại, lọc qua
ly khác thì trở thành trong sạch. Ly nước luôn luôn đổi thay tùy
duyên không cố định, nếu chấp vào một cái gì cố định là chúng ta sai
lầm.
Đến tỉ dụ sự dài ngắn, một cây dài một thước để
gần cây năm tấc, thì cây một thước là dài, cây năm tấc là ngắn. Khi
cây một thước để gần cây hai thước thì cây một thước là ngắn, cây
hai thước là dài. Như vậy chúng ta thấy tùy duyên mà cây một thước
biến thành dài ngắn trong đối đãi, chớ không cố định.
Sự tốt xấu của sự vật cũng như vậy. Một món vật
trung bình để gần một vật tốt thì trở thành xấu, nếu để gần một vật
xấu hơn thì trở thành tốt. Cái tốt biến thành xấu hay cái xấu biến
thành tốt là tùy duyên thay đổi, không có cái xấu tốt cố định, nếu
chấp vào sự vật cố định tức là sai lầm.
Cũng như vậy, tất cả các pháp thế gian đều là đối
đãi khôg cố định, nếu thấy các pháp không cố định là thấy đúng như
thật, nếu thấy các pháp cố định là thấy sai lầm, tức là khổ vậy.
Học kinh Bát-nhã là phá chấp, nếu biết tất cả là
không cố định thì còn chấp vào cái gì? Cho nên nói không phải tất
cả, không có nghĩa là không có, mà ngay nơi đó thành tất cả. Bởi vì
cái không cố định này không phải là cái gì hết, không phải tất cả mà
tùy duyên thành lập tất cả.
Tinh thần Bát-nhã chỉ cho chúng ta thấy rõ tất
cả các pháp đối đãi ở thế gian này là không có thật. Không thật là
tướng tùy duyên không cố định, không cố định nên luôn luôn thay đổi
theo duyên, theo duyên thay đổi nên không ở mãi một vị trí, không ở
mãi một hình thức, không ở mãi một hoàn cảnh nào, luôn luôn tùy thời
chuyển biến đổi thay.
Như vậy cái chuyển biến đổi thay tùy thời tùy
duyên gọi là không cố định. Nhìn thấy rõ như vậy là thấy đúng như
thật, gọi là thấy bằng trí tuệ Bát-nhã. Nếu thấy một bên là thấy
bằng thiên chấp, tức là thấy lầm. Nếu thấy bằng thiên chấp là cái
thấy của vô minh, không bao giờ thấy đạo. Nếu thấy đúng như thật là
thấy bằng trí tuệ, là thấy đạo.
Câu chuyện thiền sau đây cho chúng ta thấy các
pháp tùy duyên chuyển biến. Thiền sư Đạo Ngô và đệ tử là Tiệm Nguyên
đi đám tang của một thí chủ. Khi ấy Tiệm Nguyên vỗ quan tài hỏi
thầy: Đây là sanh hay tử? Ngài Đạo Ngô trả lời: Sanh không nói, tử
cũng không nói. Tiệm Nguyên tức quá hỏi lại thầy: Tại sao không nói?
Ngài Đạo Ngô chỉ trả lời: Không nói! Không nói!
Tiệm Nguyên càng tức, vì sao thầy không nói tử mà
cũng không nói sanh. Sau khi xong đám ra về, đi ngang qua cánh đồng,
Tiệm Nguyên lại thưa: Thầy phải nói cho con nghe, thầy không nói con
sẽ đánh thầy. Vị thầy bảo: Đánh thì đánh, nhất định không nói. Ông
học trò liền thoi vị thầy. Khi về đến chùa vị thầy bảo: Thôi chú hãy
cuốn gói đi đi, nếu Tri sự hay việc này chú sẽ không yên. Tiệm
Nguyên đành phải ra đi. Sau khi rời thầy, Sư cất một cái am ở xa để
tu, Sư cứ mãi băn khoăn vấn đề tại sao không phải sanh, không phải
tử, vì sao sanh tử đều không nói? Cho đến một đêm nghe am ở gần bên
tụng kinh Phổ Môn, đến câu “ưng dĩ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di thân nhi vị thuyết pháp…” khi nghe đến đây Sư liền ngộ. Như
vậy tại sao Tiệm Nguyên ngộ? Tại sao ngài Đạo Ngô không chịu nói
sanh hay tử? Chúng ta quen sống trong đối đãi cho nên chấp cái gì
cũng thật hoặc là sanh hoặc là tử. Nhưng theo tinh thần Bát-nhã thì
sanh tử không cố định; nếu là sanh thì không tử, nếu là tử thì không
sanh. Nhưng trong vòng luân hồi sanh tử không dừng: tử rồi lại sanh,
sanh rồi lại tử, không cố định, nếu nói là sanh hay là tử là nói một
bên. Cho nên vị thầy thà để học trò đánh mà không nói. Sau này ngài
Viên Ngộ bình rằng: “Thật là ông thầy vì trò mà máu ra lênh láng.”
Thầy đã hy sinh tột độ để nhờ đức hy sinh đó người học trò mới ngộ.
Nhưng Tiệm Nguyên đã ngộ cái gì? Khi nghe tụng: nếu cần dùng thân
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để độ, liền hiện thân
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà vì đó nói pháp… như
vậy là tùy duyên mà hiện chớ không có cái gì cố định cả. Đó là chỗ
Tiệm Nguyên đã ngộ. Ngài đã thấy đạo.
Trong kinh Pháp Bảo Đàn, lời di chúc của Lục Tổ
cũng dạy như vậy. Lục Tổ bảo: Nếu người hỏi tối thì lấy sáng đáp,
hỏi có thì lấy không đáp. Ví dụ hỏi thế nào là tối, đáp không sáng.
Hỏi thế nào là có, đáp chẳng phải không. Dạy cách đối đáp như vậy,
Lục Tổ muốn chỉ cho chúng ta thấy tối sáng là tướng đối đãi không
thật, không thật là không cố định, là tướng tùy duyên. Nếu nói là
tối là sáng, là cố định, tức nhiên khiến người ta chấp vậy. Thà nói
không phải tối, không phải sáng để người nghe thầm nhận tối và sáng
là tướng đối đãi không cố định. Có và không cũng lại như vậy, sở
dĩ có là đối với không mà nói, chớ đâu có thật. Biết các pháp không
thật là thấy đạo. Lục Tổ đã ứng dụng triệt để tinh thần Bát-nhã
trong cách đối đáp về các tướng đối đãi tùy duyên.
Trong nhà Thiền, khi được hỏi những gì còn chấp
một bên, các Thiền sư thường đưa hai ngón tay lên để chỉ rằng người
hỏi còn kẹt ở hai bên, tức chưa thấy đạo. Dùng trí tuệ Bát-nhã thấy
các pháp là tướng tùy duyên không cố định, đó là cửa vào nhà thiền,
là cửa không, tức là không cố định vậy. Các pháp biến chuyển
tùy duyên, vật này biến thành vật kia thấy đúng như vậy gọi là trí
tuệ Bát-nhã thấy đúng như thật, và đó cũng hợp với tinh thần khoa
học hiện nay.
Pháp thế gian không cố định, còn pháp xuất thế có
cố định không? Pháp Phật nói như những thứ thuốc để trị bệnh cho
chúng sanh, chúng sanh có những bệnh gì đức Phật lập ra những thứ
thuốc ấy, vì vậy thuốc và bệnh là hai cái đối đãi nhau thì làm sao
thật được? Nếu cố chấp là thật tức là cố định, là sai lầm mất rồi.
Cho nên nói không phải vô minh… cho đến không phải hết lão tử là để
phá chấp của Tiểu thừa cho Tứ đế và Thập nhị nhân duyên là thật
pháp. Chẳng qua vì chúng sanh có những bệnh nên đức Phật phải lập
những phương thuốc để trị, nếu bệnh hết rồi thì thuốc cũng phải bỏ.
Vì vậy pháp Tứ đế và Thập nhị nhân duyên đức Phật tạm lập ra để trị
bệnh cho chúng sanh, nếu chúng ta chấp cho là thật pháp thì sai lầm.
Trí và đắc của Bồ-tát cũng không thật. Thật ra
trên thế gian này không có cái sở đắc. Nếu có cái sở đắc là có cái
bị được, tất phải có cái hay được; hay được và bị được là đối đãi
nhau, năng và sở đối đãi nhau thì làm sao thật được. Cho nên nói
không trí cũng không đắc để phá luôn cái chấp trí đắc của Bồ-tát.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã
ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu kính Niết-bàn. Tam thế chư Phật y
Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Vì không có chỗ được, nên Bồ-tát y theo
Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu kính Niết-bàn.
Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát-nhã ba-la-mật-đa, được đạo quả
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Niết-bàn là vô sanh, tức là không sanh không
diệt. Chúng sanh vì bị các thứ điên đảo và mộng tưởng, tức là những
cái nhìn trái với sự thật, và những cái tưởng mơ màng không đúng lẽ
thật, cho bản thân mình về tâm lý cũng như sinh lý là thường nhất và
có chủ tể. Thấy như vậy là điên đảo, sai lầm không sáng suốt. Vì
không sở đắc, nên Bồ-tát nương trí tuệ cứu kính xa lìa được các điên
đảo mộng tưởng. Nhờ trí tuệ cứu kính ấy, các ngài hoàn toàn thoát ly
sanh tử nên nói là cứu kính Niết-bàn.
Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát-nhã
ba-la-mật-đa, được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác. Tức là thành Phật.
Vì không sở đắc, Phật nhân trí tuệ Bát-nhã mà
được thành Phật. Vì không sở đắc, Bồ-tát nhân trí tuệ Bát-nhã mà xa
lìa tất cả sai lầm được an ổn Niết-bàn. Chính là vô đắc mà đắc, đây
là tinh thần Bát-nhã. Như trong kinh Kim Cang, Phật nói: “…Do thật
không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nên đức Phật
Nhiên Đăng mới thọ ký cho ta rằng: Ở đời sau, ông sẽ được thành Phật
hiệu Thích-ca Mâu-ni.”
Chúng ta tu theo Phật phải đi đường nào để được
Niết-bàn, để xa lìa điên đảo mộng tưởng, để thành Phật? Tức là phải
dùng trí tuệ Bát-nhã, nên ở đây nói:
Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa, thị đại thần
chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng
trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.
Nên biết, Bát-nhã ba-la-mật-đa là đại thần
chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ
được hết thảy khổ, chân thật không dối.
Vì sao trí tuệ Bát-nhã lại có diệu dụng như là
đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú? Vì ngày
xưa ở Ấn Độ, những chú này thường được dùng để trừ hết các khổ của
chúng sanh. Cũng như vậy, trí tuệ Bát-nhã có đủ công dụng như những
thần chú ấy, chân thật không dối, đó là diệu dụng của Bát-nhã.
Cố thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa chú tức thuyết
chú viết: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề
tát-bà-ha.
Vì vậy nói chú Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền
nói chú rằng: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề
tát-bà-ha.
Vì sao đã nói trí tuệ Bát-nhã là đại thần chú, là
đại minh chú… có diệu dụng trừ tất cả khổ, chân thật không dối, lại
còn nói thêm câu chú yết-đế, yết-đế… chi cho thừa?
Cách kết thúc bài Bát-nhã Tâm Kinh này là một
nghi vấn cho chúng ta. Có những nhà khảo cứu giải rằng: Trong thời
trung kỳ Phật giáo (thời kỳ Bát-nhã), Mật tông đã chen vào trong
giáo tức là trong kinh điển cho nên rốt sau bài Bát-nhã Tâm
Kinh có một câu chú để kết thúc.
Nhưng với cái nhìn của Thiền sư thì không phải
như vậy. Thiền sư thấy câu chú ở phần kết thúc là đúng nghĩa Tâm
Kinh. Vì sao? Chúng tôi xin trích dẫn câu nói của Thiền
sư Duy Tín: “Trước khi gặp thiện tri thức, tôi thấy núi sông là núi
sông. Sau khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không
phải là núi sông. Sau ba mươi năm, tôi thấy núi sông là núi sông.”
Chúng tôi sẽ lần lượt giải thích để quí vị nhận rõ:
1. Trước khi gặp thiện tri thức, thấy núi sông là
núi sông: Khi chưa học Bát-nhã, chúng ta thấy núi sông là núi sông,
vì chúng ta thấy tất cả pháp thế gian đều là thật. Núi thật là núi,
sông thật là sông. Pháp nào cũng thật, pháp nào cũng cố định cả.
2. Khi gặp thiện tri thức chỉ dạy, thấy núi sông
không phải là núi sông: Khi học Bát-nhã rồi, chúng ta thấy tất cả
pháp tùy duyên, tất cả pháp không cố định, cho nên núi không phải là
núi, sông không phải là sông. Ví dụ như vì một nguyên do nào, quả
đất chúng ta đang ở bỗng rung rinh sụp đổ, núi cao có thể biến thành
biển cả, sông ngòi lại hóa thành đồi nổng v.v... Vì vậy các pháp đều
tùy duyên, không cố định, nên núi sông không phải là núi sông, tức
là thấy đúng trí tuệ Bát-nhã.
3. Sau ba mươi năm, thấy núi sông là núi sông: Ba
mươi năm hành thâm Bát-nhã rồi, mới thấy núi sông là núi sông. Nhận
thấy núi sông là núi sông ở đây, có giống với nhận thấy núi sông là
núi sông thuở trước, khi chưa gặp thiện hữu tri thức không? Chắc hẳn
là không! Khi xưa thấy núi sông là thật, đến khi dùng trí tuệ
Bát-nhã quán chiếu, biết núi sông là tướng tùy duyên không cố định.
Khi biết các pháp hư dối, tùy duyên nên tâm không còn chấp một pháp
nào, tức không còn dính mắc vào một pháp nào cả, gọi là tâm vô quái
ngại, được cứu kính Niết-bàn, đó là đến chỗ như như. Tâm như như
rồi, thấy núi là núi, sông là sông, không khởi phân biệt, không còn
dính mắc. Thấy núi là núi, sông là sông là cái thấy của Thiền sư, là
sống được với bản tâm thanh tịnh của mình tức là tâm kinh vậy. Kết
thúc bằng tâm kinh, tức là kinh này nói thẳng vào tâm, là chỗ không
có ý niệm, không khởi phân biệt: núi là núi, sông là sông.
Chúng tôi xin dẫn thêm bài kệ của Thiền sư Trì
Bát đời Lý, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Khi sắp tịch Ngài nói kệ:
Hữu tử tức hữu sanh
Hữu sanh tức hữu tử
Tử vi thế sở bi
Sanh vi thế sở hỉ
Bi hỉ lưỡng vô cùng
Hốt nhiên thành bỉ thử
Ư chư sanh tử bất quan hoài
Án tố rô tố rô tất rị.
Dịch:
Có tử tức có sanh
Có sanh tức có tử
Tử là người đời buồn
Sanh là người đời vui
Buồn vui hai không cùng
Bỗng nhiên thành bỉ thử
Đối với sanh tử không bận lòng
Án tố rô tố rô tất rị.
Có tử tức có sanh, có sanh tức có tử. Tử là người
đời buồn, sanh là người đời vui. Vì vậy để kỷ niệm ngày sanh, người
ta gọi là ăn mừng sinh nhật, còn nhớ tưởng đến ngày mất, người ta
buồn sợ nên gọi là ngày kỵ cơm. Vui buồn, hai cái không cùng tột,
bỗng nhiên thành ra có kia, có đây, trong vòng đối đãi. Đối với sanh
tử không bận lòng, tức không còn thấy hai bên, nghĩa là không còn cố
chấp hai bên nữa. Không còn cố chấp thật sanh, không còn cố chấp
thật tử, thì như thế nào? Án tố rô tố rô tất rị! Ý nghĩa câu thần
chú này là gì? Tức là khi người ta không còn chấp hai bên thì tâm
hết dính mắc. Tâm hết dính mắc tức đến chỗ như như. Đọc câu
chú ấy lên mà không dấy niệm phân biệt, đó là như như. Như vậy, khi
kết thúc bằng mấy câu thần chú là để nói dùng trí tuệ Bát-nhã đến
chỗ cứu kính rồi, thì Tâm thể như như, đó tức là Tâm kinh. Các Thiền
sư thời xưa hay dùng câu thần chú để kết thúc, như Quốc sư Tông Cảnh
đã dùng “Án tố rô tố rô tất rị” để kết thúc bài tán ngài Tuệ Trung
Thượng sĩ. |