Một trong những bộ sách đặc biệt của Tây Tạng là bộ Tử Thư (Tibetan
Book of the Dead) viết về đời sống sau khi chết. Cuốn sách này đã được
nhiều người nghiên cứu và phiên dịch nhưng vì nó quá hàm súc, khó hiểu
nên một số học giả đã rút tỉa vài đoạn trong đó, khai triển rộng ra để
an ủi những người đang đau khổ vì cảnh tử biệt. Phần dưới đây trích
trong cuốn "To Those Who Mourn" của Giám Mục Charles Leadbeater, một nhà
thần học nổi tiếng của thế kỷ 20
Lúc chết thực sự cũng là lúc mà những kinh nghiệm nội tâm lợi lạc sâu xa
nhất có thể xảy ra. Do thường thực tập tiến trình chết trong khi thiền
định, một thiền giả tu cao có thể sử dụng lúc chết của mình để đạt những
chứng ngộ lớn lao. Đấy là lý do những hành giả có kinh nghiệm thường
nhập định vào lúc họ chết. Một dấu hiệu của sự đắc đạo nơi họ là thi thể
họ thường không thối rửa sau khi họ đã chết rất lâu trên phương diện
lâm sàng.
Ngoài sự chuẩn bị cái chết của riêng mình, một việc khác không kém phần
quan trọng là giúp người khác có một cái chết tốt đẹp. Khi mới sinh ra
đời, chúng ta đều là những hài nhi yếu đuối; nếu không nhờ sự săn sóc tử
tế mà chúng đã nhận được, thì chúng ta đã không thể sống còn. Người sắp
chết cũng thế, không thể tự túc được, nên ta phải giúp họ thoát khỏi
những bất tiện và lo âu, và cố hết sức để giúp họ có một cái chết thanh
thản. Điều quan trọng nhất là tránh làm điều gì khiến cho tâm người sắp
chết thêm rối loạn. Mục đích trước nhất của chúng ta giúp người sắp chết
là làm cho họ được thoải mái. Có nhiều cách để làm việc này. Với người
đã quen tu tập, nếu khi họ sắp chết mà ta nhắc nhở chuyện tu hành, tinh
thần họ có thể thêm phấn chấn. Một lời trấn an đầy từ ái của ta có thể
gợi cho người sắp chết một thái độ bình an, thoải mái.
Cái chết và tiến trình chết có thể cung cấp một giao điểm gặp gỡ giữa
Phật giáo Tây Tạng và khoa học tân tiến. Tôi tin rằng hai bên có thể
cống hiến cho nhau rất nhiều về hiểu biết và thực hành. Thầy Sogyal
Rinpoche đúng là người để làm cho cuộc gặp gỡ này thêm dễ dàng, vì thầy
đã sinh ra và trưởng thành trong truyền thống Tây Tạng, đã thụ giáo với
một vài vị lạt ma tên tuổi nhất của Tây Tạng, đồng thời thầy cũng được
hấp thụ một nền giáo dục tân tiến, đã sống và giảng dạy nhiều năm ở Tây
phương và đã quen thuộc với lề lối tư duy của người phương Tây.
Sách này không chỉ cống hiến cho độc giả một trình bày lý thuyết về sự
chết, mà còn cung cấp những cách thực tiễn để hiểu và tự chuẩn bị cho
mình lẫn người khác (về cái chết) một cách thản nhiên và viên mãn.
ĐỌC PHIÊN BẢN PDF: TỬ THƯ TÂY TẠNG PDF Nguyên Phong dịch
GIỚI THIỆU VỀ CUỐN SÁCH:
TỬ THƯ TÂY TẠNG
(Bardo Thodol Chenmo - Nguyên phong dịch)
Wikipedia
Tử Thư Tây Tạng (Tibetan Book of the Dead) hay nguyên tác Bardo Thodol Chenmo
là một cuốn sách đặc biệt đề cập đến các cảnh giới bên kia cửa tử. Ngay
từ khi được giáo sư W.Y.Evens Wentz phiên dịch ra Anh ngữ vào năm 1924,
nó đã gây ra nhiều cuộc bàn cãi sôi nổi. Danh từ “Tử Thư” (Book of the
Dead) thực ra dịch không được đúng vì giáo sư Evans Wentz đã căn cứ trên một cuốn sách nổi tiếng của Ai Cập, cũng đề cập đến một cảnh giới bên kia cửa tử, gọi là Tử Thư Ai Cập
(Egyptian Book of the Dead). Danh từ “Tử Thư” khiến nhiều người hiểu
lầm, cho rằng đó là sách dành cho người chết hoặc để dùng trong các nghi
lễ chôn cất người chết. Thật ra nội dung cả hai cuốn sách nói trên rất
phong phú, chứa đựng nhiều tinh hoa huyền môn, dùng cho người sống cũng
như người chết.
Trước khi đi xa hơn vào chi tiết của cuốn sách này, chúng ta hãy tìm
hiểu danh xưng của nó. Nguyên tác Bardo Thodol Chenmo có tạm dịch là “Sự
giải thoát khi được học hỏi (hay nghe nói) về mật pháp Bardo”. Nhiều
người đã dịch danh từ Bardo là cõi chết, cõi trung giới, hay cảnh giới
của Thân Trung Ấm,
nhưng thật ra nó còn có một ý nghĩa rộng hơn là “sự chuyển tiếp”
(transition). Danh từ “chuyển tiếp” hàm ý một giai đoạn ở giữa sự di
chuyển từ giai đoạn này qua một giai đoạn khác hay từ trạng thái này qua
một trạng thái khác. Tử Thư Tây Tạng là một cuốn sách thuộc về giáo lý
mật truyền nên rất khó hiểu, khó giải thích, và đã gây nhiều cuộc bàn
cãi sôi nổi trong giới học giả. Dĩ nhiên người ta không thể hiểu nó nếu
không nắm vững được căn bản của Mật Tông. Người ta cũng khó có thể áp dụng các phương pháp trong đó nếu không được sự chỉ dẫn khẩu truyền của các danh sư Tây Tạng
chuyên tham cứu về pháp môn này. Trong loạt bài khảo luận ngắn này,
người viết không có ý mong cầu có thể giải thích được sự vi diệu của
cuốn sách trên, nhưng chỉ muốn trình bày một vài khía cạnh đặc biệt của
cuốn sách dưới cái nhìn của của khoa học và Phật học.
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Tử Thư Tây Tạng là sách hướng
dẫn người ta sắp lìa đời hoặc người đã chết vì nội dung cuốn sách đề
cập rất kỹ đến các quy tắc cúng lễ, cầu siêu hay hướng dẫn cho người
đang hấp hối. Tuy nhiên, đức Đạt Lai Lạt Ma lại gọi nó là Sinh Thư (Book of the Living) thay vì Tử Thư. Ngài nhấn mạnh: “Đạo Phật
là đạo dành cho người sống chứ không phải người chết”. Ngài đã giảng:
“Trọn bộ Tử Thư có thể thâu gồm vào một ý chính như sau: Người nào biết
sống một cách tỉnh thức thì sẽ chết tỉnh thức, và một khi đã tỉnh thức
thì họ có thể chuyển thần thức, tránh được sự lôi kéo của nghiệp và
thoát khỏi sinh tử luân hồi. Đa số con người vì bị vô minh che phủ nên
không biết cách sống cho đúng với ý nghĩa của sự sống, thường thường nếu
không hoài niệm về quá khứ thì họ cũng mơ tưởng về tương lai, họ luôn
luôn ‘lo lắng để sống’ chứ không hề ý thức rõ rệt sự sống. Vì sống một
cách u mê, không tỉnh thức như vậy nên khi chết thì họ cũng không thể
làm chủ được hoàn cảnh khi ấy, dĩ nhiên họ sẽ hoàn toàn để nghiệp lực
lôi kéo và trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi”. Lời giải thích này là một
chìa khóa quan trọng đã rọi một tia sáng cho những người muốn tìm hiểu
cuốn Tử Thư Tây Tạng. Người ta có thể coi nó là một Sinh Thư, sách hướng
dẫn cho người sống, khuyên họ phải sống làm sao để khi chết có thể tự
chủ, tỉnh thức để thoát luân hồi, hoặc người ta cũng có thể coi nó là
một Tử Thư, sách hướng dẫn cho người chết biết cách tìm đến những cõi
giới tốt lành, tránh đọa lạc vào ba đường ác là Ngạ quỷ, Địa ngục và Súc sinh.
Theo cuốn Tử Thư Tây Tạng, vòng luân hồi
có thể tạm chia ra làm bốn phần hay bốn giai đoạn như sau: Giai đoạn
sống là khoảng thời gian từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi, nói giản dị
thì đó là một kiếp người. Giai đoạn chết là khoảng thời gian từ khi rời
bỏ thể xác cho đến khi bước sang Cõi Sáng (Dharmata). Giai đoạn thứ ba
là lúc sống trong Cõi Sáng, một khoảng thời gian rất đặc biệt khi thần
thức được khai mở để kinh nghiệm chân tâm. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn
tái sinh, khoảng thời gian từ lúc chuẩn bị để tái sinh cho đến khi sinh
ra.
Các danh sư Tây Tạng tin rằng trong lúc chuyển tiếp giữa hai giai
đoạn, cơ hội để giải thoát hay để phá tung lưới sinh tử có thể thực hiện
được. Đó chính là mật pháp của cuốn Tử Thư Tây Tạng hay sự giải thoát
nhờ biết cách chuyển thần thức, không để bị nghiệp tiếp tục dẫn đi vào
vòng sinh tử luân hồi. Trạng thái chuyển tiếp giữa hai giai đoạn là một
cơ hội đặc biệt có thể được giải thích qua thí dụ sau: Thử tưởng tượng
một người làm việc khó nhọc và xây dựng được một sự nghiệp lớn. Vì một
biến cố chi đó mà chỉ trong giây phút bỗng nhiên anh mất hết tất cả: Nhà
cửa, tài sản, vợ con, danh vọng, quyền thế. Hiển nhiên tâm hồn anh bị
xúc động mạnh khiến anh chới với, hụt hẫng không biết phải làm gì. Ngay
trong giây phút đó, tự nhiên anh bỗng cảm thấy như vừa trút bỏ được một
gánh nặng, không phải khó nhọc, không phải lo lắng nữa. Cái cảm giác này
chỉ tồn tại rất ngắn vì hiển nhiên bộ óc lý luận của anh sẽ làm việc
ngay, nó sẽ thu xếp mọi sự để đi đến một kết luận về biến cố vừa xảy ra
kia. Nó sẽ quy lỗi cho một nguyên nhân nào đó khiến anh cảm tức giận hay
tuyệt vọng. Chính vì thói quen lý luận này mà anh bị lôi kéo vào một mê
hồn trận khiến tâm hồn anh luôn luôn bị động, không còn tự chủ được
nữa. Cái giây phút ngắn ngủi của sự tĩnh lặng thoảng đến trong lúc đầu,
trước khi lý trí của anh hành động, chính là cơ hội ngàn vàng để anh có
thể tránh được sự lôi kéo vào trạng thái bị động này. Cũng giống như
giây phút “hốt nhiên chứng ngộ” của các vị thiên sư, đó là một khoảng
trống mà một người biết sống trong tỉnh thức có thể sử dụng để kéo dài
cái trạng thái tĩnh lặng đó, không để cho bộ óc lao xao đầy lý luận lôi
kéo và chính đó là cơ hội mà sự giải thoát có thể xảy ra. Giai đoạn
chuyển tiếp giữa sự sống và sự chết cũng như thế, chỉ một hơi thở đầy
tỉnh thức mà một người công phu tu tập có thể phá tung lưới sinh tử,
thoát vòng kiềm tỏa của nghiệp lực.
Nghiệp lực là sức mạnh của các thói quen xuất phát từ thân, khẩu và
ý. Chúng sinh trải qua bao kiếp luân hồi đã tạo biết bao nhiêu nghiệp
lành cũng như dữ, dưới hình thức của chủng tử này sẽ phát động. Nghiệp
có thể chia làm hai loại: Tích lũy nghiệp, là nghiệp chất chứa từ lâu,
tùy theo nhân duyên dần dần phát động, và Cận tử nghiệp phát động ngay
trước khi chết. Thí dụ một người làm nhiều việc lành đáng kể nhưng trước
khi chết lại gây ra một nghiệp ác và nghiệp quả này phát động ngay (Cận
tử nghiệp) nên thay vì được hưởng các điều lành, người đó lại bị đọa
lạc vào ba đường ác. Dĩ nhiên những nghiệp lành kia không hề mất nhưng
tiềm ẩn và sau khi trả dứt nghiệp ác, người nọ sẽ hưởng các điều lành
theo đúng nguyên tắc của luật nhân quả. Vì không ai biết nghiệp quả nào
sẽ tạo tác trong giờ phút lâm chung nên sự tỉnh thức và tự chủ trước khi
chết là một yếu tố hết sức quan trọng. Cuốn Tử Thư đã ghi rõ: “Tâm
trạng của người chết sẽ quyết định cảnh giới nào mà người đó sẽ đến”, do
đó cuốn sách này đã dành hẳn ra một chương cho các nghi thức hướng dẫn
người lúc hấp hối để họ có thể thoải mái, an lành khi bước vào thế giới
bên kia.
Sogyan Rinpoche,
một nhà sư Tây Tạng nổi tiếng thế giới chuyên nghiên cứu về các cảnh
giới bên kia cửa tử đã viết: “Không gì làm tôi ngạc nhiên bằng thái độ
của người Âu Mỹ
đối với sự chết. Hình như người ta coi đó là một sự kiện bất bình
thường, một điều ghê tởm đáng sợ và đáng tránh. Tôi thấy hình như đa số
mọi người đều qua đời tại những nơi chốn xa lạ như tại bệnh viện hoặc
nhà dưỡng lão, rất ít ai được chết yên ổn tại nhà. Đã thế họ qua đời
không người hướng dẫn, không ai cử hành một nghi thức nào cho đến khi
người đó hoàn toàn chết hẳn. Lần đó tôi gặp một thiếu phụ đang hấp hối
về chứng ung thư.
Cả gia đình tề tựu an ủi và khuyên bà ta hãy cố gắng chống trả căn bệnh
ngặt nghèo đó. Người chồng nói: ‘Đừng tuyệt vọng. Đừng buôn xuôi tay.
Hãy tiếp tục phấn đấu’. Các con bà cũng khuyên: ‘Hãy vui vẻ, lạc quan’.
Dường như họ nghĩ rằng việc phấn đấu và lạc quan đó sẽ làm cho căn bệnh
ngặt nghèo kia phải chấm dứt. Người đàn bà đã mệt lắm rồi, mạch bà đập
yếu ớt. Bác sĩ
khám nghiệm và xác nhận bà chỉ có thể sống trong vòng vài giờ nữa thôi.
Cả gia đình bèn rút lui để lo việc tống táng, mặc cho thiếu phụ chịu
đựng giờ phút ghê gớm, đầy sợ hãi lúc lâm chung đó là một mình, không ai
giải thích cho bà biết cách chấp nhận sự chết, không ai chia sẻ giờ
phút kinh khủng đó với bà, không ai hướng dẫn cho bà, mà mặc bà chịu
đựng nỗi đau đớn vô vàn đó một mình. Hiển nhiên truớc hoàn cảnh như thế,
làm sao bà có thể ung dung mà bước qua cõi giới bên kia được? Tại sao
một quốc gia đã phóng được phi thuyền lên tận không gian lại không có đủ
những tiện nghi tối thiểu để giúp người chết thoải mái về phương diện
tinh thần? Điều ngạc nhiên thứ hai của tôi là sự xa xỉ quá độ trong các
nghi thức tống táng. Người Âu Mỹ có thể tổ chức những đám tang rất tốn
kém với những cỗ quan tài trị giá bằng cả một gia tài, những vòng hoa
khổng lồ, những ban nhạc được thuê bao đặc biệt, nhưng hình như không ai
có thời giờ chân thành cầu nguyện cho người quá cố cả. Mặc dầu vẫn có
những nghi lễ tôn giáo nhưng gia quyến quá bận rộn đón tiếp những người
đến chia buồn nên đã quên rằng người cần được giúp đỡ là người vừa nằm
xuống chứ đâu phải là những người còn sống. Phải chăng họ ỷ lại vào các
giáo sĩ chuyên nghiệp cầu nguyện là đủ rồi? Có lẽ vì việc không chấp
nhận sự chết, sợ hãi sự chết, ghê tởm sự chết mà họ đã hành động như vậy
chăng? Nếu họ hiểu rằng chết là một sự kiện tự nhiên, một diễn tiến
bình thường như người đi du lịch nơi xa, hay được học hỏi về cảnh giới
bên kia cửa tử thì có thể họ đã hành động khác”.
Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross,
một nhà khảo cứu nổi tiếng nhất hiện nay về sự chết, cũng đã viết: “Một
bác sĩ trẻ tuổi mới tốt nghiệp đến gặp tôi. Anh vừa khóc vừa nói: ‘Ngày
đầu nhận việc tại một bệnh viện, tôi gặp một bệnh nhân già yếu đang hấp
hối, thân quyến của ông ở xa chưa về kịp nên ông nằm một mình với nỗi
lo sợ hằn trên khuôn mặt đầy vết thời gian. Ông nắm chặt tay tôi như
không muốn rời: ‘Này bác sĩ, liệu Thượng Đế
có cứu tôi không? Tôi là kẻ có tội, tôi đã làm nhiều điều tội lỗi, liệu
tôi có xuống địa ngục không?’ Tôi không biết phải trả lời như thế nào.
Tôi là một bác sĩ y khoa, không phải một giáo sĩ. Tôi không hề được huấn
luyện để đối phó với trường hợp như thế. Tôi cố gắng gỡ tay ông lão ra
nhưng ông bám chặt lấy tay tôi không rời. Hai người y tá phải bước đến
dùng sức mạnh mới gỡ được bàn tay của ông lão ra. Chúng tôi quyết định
đưa ông lão vào một căn phòng tối để ông có thể chết một cách yên tĩnh.
Ông nằm đó rên rỉ về những cảnh tượng địa ngục mà ông nghĩ sẽ phải đến.
Chúng tôi cho gọi vị giáo sĩ trực trong bệnh viện đến giúp ông ta, nhưng
lúc đó có quá nhiều người chết, vị này bận rộn không thể đến được. Ông
lão nằm đó rên rỉ suốt mấy ngày liền, không sao chết được. Vị bác sĩ trẻ
tuổi đặt câu hỏi: ‘Thưa bà, trong trường hợp như vậy tôi phải làm gì
đây?” Bác sĩ Kubler Ross nhấn mạnh: “Điều đáng nói là đa số chúng ta,
những người chuyên môn trong lãnh vực y khoa, không hề có câu trả lời
thỏa đáng cho câu hỏi kể trên. Phải chăng chúng ta đã trở nên mất nhạy
cảm, lạnh lùng sắt đá trước sự chết? Phải chăng đã chứng kiến quá nhiều
cảnh tượng này nên chúng ta không buồn lưu tâm đến vấn đề đó nữa? Phải
chăng sau khi đã làm tròn bổn phận một y sĩ là cố gắng cứu chữa bệnh
nhân nhưng biết không thể làm gì hơn, chúng ta đã bó tay, mặc cho số
mệnh mà quên rằng điều bệnh nhân cần là sự giúp đỡ của chúng ta trên
phương diện tinh thần chứ không phải vật chất nữa?”
Thế nào là sự giúp đỡ trên phương diện tinh thần? Theo các danh sư
Tây Tạng, điều quý báu nhất một người có thể giúp cho người sắp từ trần
là làm sao để họ không sợ hãi (vô uý thí). Trước khi có thể giúp cho
người khác không sợ hãi thì chính người cho phải bình tỉnh, thoải mái và
không sợ hãi đã. Điều này không đòi hỏi người cho phải làm những điều
gì khác thường nhưng ít ra người đó phải có một lòng yêu thươnng chân
thành và sự hiểu biết sáng suốt. Vì người sắp chết thường lo lắng, hốt
hoảng, có thể nói năng hàm hồ, không sáng suốt do đó người đến an ủi
phải biết cách lắng nghe, giữ yên lặng để cho người kia thổ lộ tâm can.
Thông thường sau khi được nói một cách thoải mái, người sắp chết dần dần
bình tĩnh và bày tỏ nỗi lo sợ, lòng nghi ngờ, các thắc mắt hay tâm
trạng của họ đối với đời sống. Cuốn Tử Thư ghi nhận: “Đây là lúc các
chủng tử chất chứa trong tàng thức bắt đầu phát động, các yếu tố của Cận
tử nghiệp bắt đầu hiện hành, giống như một ngọn đ èn sắp cạn dầu chỉ
còn bùng lên một lúc trước khi tắt ngún…” Các danh sư Tây Tạng khuyên:
“Hãy cố gắng giữ yên lặng, lắng nghe người sắp chết tâm sự, hãy mở rộng
tâm hồn, tránh không phán đoán hay phản ứng vì không gì tai hại hơn sự
phán đoán trong lúc này. Hãy đem hết tình thương truyền trao cho họ,
khuyến khích họ giãi bày tâm sự và đừng quan trọng hóa những điều họ nói
đó. Đôi khi vì những chủng tử xấu phát động mà người đó có thể nổi sân
si, la hét mắn chửi, kêu gào vào những lúc bất ngờ nhất. Hãy tự chủ và
biết rằng một người đang mất bình tĩnh, đang chịu đựng những nghiệp quả
bất ngờ, không ý thức rõ rệt vì về hoàn cảnh lúc đó thật không đáng
trách. Nhiều người vì quá thương xót đã lên tiếng khuyên giải nhưng sự
kiện này có thể làm người sắp chết thêm giận dữ mà thôi. Sự yên lặng,
chăm chú lắng nghe và không phản ứng là món quà quý giá nhất, vì hơn bao
giờ hết, người sắp chết đang cần sự thông cảm và thương yêu. Đừng nghĩ
rằng mình có thể cứu được người kia hay có thể làm được điều gì tốt hơn
mà hãy giữ yên lặng vì chúng ta không biết rõ được tâm thức của người
sắp chết khi đó ra sao”. Để giữ bình tĩnh và lắng nghe, các vị thầy Tây
Tạng đã chỉ dạy một phương pháp quán tưởng như sau: “Hãy giữ vững hơi
thở cho thật đều, đừng xem người sắp chết như một người thân hay một
người đang cần giúp đỡ mà hãy quán rằng họ là một vị Phật sắp thành. Vì
tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, hãy quán rằng họ là một vị Phật
sắp thành có hào quang sáng chói, mọi sự đau khổ, kêu la than khóc của
họ chỉ là một đám mây mù và trước sau sẽ tan ra khi ánh sáng của Phật
tánh chiếu sáng. Nhờ phép quán đó mà người giúp đỡ sẽ khơi dậy mầm mống
thương yêu nơi mình, bình tĩnh và hoàn tất việc yên lặng lắng nghe một
cách hữu hiệu hơn”.
Sự yên lặng, lắng nghe là bước đầu tiên trong việc giúp đỡ người sắp
qua đời, nhưng nếu đã thành công trên phương diện này, người ta có thể
đi vào bước thứ hai là việc làm khơi dậy các chủng tử thiện. Cuốn Tử Thư
ghi nhận: “Trong tàng thức con người có đầy đủ mọi hạt giống thiện ác,
xấu tốt và nếu biết khéo léo khơi dậy các chủng tử thiện, sẽ giúp cho
người sắp chết tránh được các Cận tử nghiệp xấu xa”. Khi người sắp chết
thố lộ tâm sự, đừng chú ý tới những điều tội lỗi, xấu xa người đó đã làm
mà chỉ nên đặc biệt chú trọng đến những điều người đó hãnh diện, thích
thú, tự hào. Lúc lâm chung, ai cũng cảm thấy sợ hãi, lo sợ, hối hận hay
tuyệt vọng, nhưng đôi khi họ cũng vô tình đề cập đến một điều gì tốt đẹp
mà họ đã làm. Hãy khuyến khích hay nhắc nhở người đó khai triển đề tài
này để cho thần thức của họ bớt mặc cảm sợ hãi, để họ thấy rằng cuộc đời
của họ cũng có những lúc tốt đẹp, tươi sáng đem lại cho họ một hy vọng.
Nếu họ chuyển qua những viêc vừa ý hơn điều bất như ý thì các chủng tử
xấu xa, tội lỗi không có dịp phát động, nhường chỗ cho các chủng tử
thiện và điều này có thể đem lại những kết quả tốt đẹp bất ngờ.
Trong khóa huấn luyện các bác sĩ y khoa, bác sĩ Elizabeth Kubler Ross
đã dạy: “Thật không có gì tốt đẹp hơn là làm cho người sắp chết trút
được nỗi lo sợ, đem lại cho họ một niềm hy vọng. Nếu một người đặt câu
hỏi: ‘Tôi là kẻ tội lỗi, liệu Thượng Đế có tha thứ cho tôi hay không?’
thì các bạn phải biết trả lời: ‘Thượng Đế chính là tình thương. Trong
tình thương luôn luôn có sự tha thứ. Chúng ta đều là con của Ngài thì lẽ
nào Ngài lại có thể không tha thứ cho con của Ngài được?’ Hiển nhiên
không phải người nào cũng có đức tin tôn giáo, nhiều người nghĩ rằng nếu
đem đức tin đến cho người sắp chết thì họ sẽ được thoải mái hơn. Bác sĩ
Rubler Ross khuyên: “Chúng ta cần thận trọng trong việc này. Nếu người
đó yêu cầu, dĩ nhiên chúng ta nên làm, còn nếu không, đừng nên quan
trọng hóa nó. Biết đâu trong đời người đó đã có ác cảm với một tôn giáo
nào đó và việc khơi dậy nhữnh điều này có thể mang lại những hậu quả tai
hại bất ngờ”.
Phần lớn mọi người đều sợ chết vì không ai biết chết sẽ đưa họ đến
đâu! Cái quan niệm chết là hết, là mất tất cả, nhà cửa, tài sản, vợ con,
thân quyến, và ngay cả chính mình nữa là một điều hết sức ghê gớm không
mấy ai muốn nghĩ đến. Đó là chưa kể sự sợ hãi về một nơi gọi là “địa
ngục” nên hiển nhiên chẳng ai muốn giáp mặt với sự chết hay có thể chấp
nhận nó dễ dàng.
Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross đã phân tích tâm trạng con người khi
phải giáp mặt với sự kiện này qua năm trạng thái tâm lý như sau: Phủ
nhận, giận dữ, lý luận, buồn nản, và chấp nhận. Hiển nhiên thoạt biết
mình bị bệnh nặng có thể chết, trạng thái tâm lý tự nhiên của con người
là phủ nhận nó. Nhiều bệnh nhân đã từ chối không chịu uống thuốc hay
chấp nhận việc chữa trị. Họ tự đánh lừa mình rằng họ không làm sao hết,
họ đổ lỗi cho bác sĩ chẩn bệnh sai, rồi tìm một bác sĩ nào đó có thể nói
khác hơn. Giai đoạn này thường kéo dài rất lâu, gây khó khăn cho việc
chữa trị. Nhiều người đã không vượt qua được trạng thái này và đến khi
chết vẫn tin rằng mình không hề làm sao cả. Nếu vượt qua giai đoạn phủ
nhận này thì đa số thường trở nên giận dữ, than thân trách phận, tìm
cách trách móc, đổ lỗi cho những người chung quanh. Họ dễ nổi giận vô
cớ, hay gây gổ và có những lời nói hay cử chỉ nóng giận bất thường. Có
người đến khi trút hơi thở cuối cùng vẫn còn chỉ trích, trách móc người
khác. Vượt được giai đoạn này, phần lớn người bệnh rơi vào trạng thái
tâm lý phức tạp với những lập luận, tin tưởng lạ thường như có một “phép
lạ” xảy ra, một phát minh mới mẻ được khám phá, một loại thần dược có
thể chữa lành mọi thứ bệnh, rồi bám lấy hy vọng viển vông, hão huyền
này. Đây là lúc các bệnh nhân đi tìm những phương pháp chữa bệnh khác
với lối chữa trị thông thường, đi tìm an ủi qua những điều huyền hoặc
hay có những lập luận rất lạ lùng về tình trạng của họ. Nếu qua được
giai đoạn này, đa số bệnh nhân sẽ cảm thấy tuyệt vọng, lúc nào cũng buồn
chán, không biết làm gì nữa. Đây là lúc họ buông xuôi, mặc cho số phận
an bài. Họ thường tủi thân, khóc lóc và hơi một chút bất như ý là động
lòng, cho rằng không ai thông cảm hay hiểu họ hết. Cuối cùng là giai
đoạn chấp nhận. Đây là trạng thái quan trọng có thể giúp người sắp chết
được thảnh thơi, ung dung tự tại bước qua thế giới bên kia. Nếu biết rõ
người sắp chết đang ở trong trạng thái tâm lý nào, người ta có thể giải
thích cho họ hiểu để giúp họ vượt qua các khó khăn trở ngại và chấp nhận
sự chết một cách dễ dàng hơn.
Bác sĩ Ross kết luận: “Người sắp chết không ao ước gì hơn là sự cảm
thông và lòng thương yêu của những người chung quanh. Chúng ta không cần
phải khuyên giải hay nói với họ những điều cao siêu to lớn mà hãy tự
nhiên thành thật và biết chia sẻ những giây phút cuối cùng với họ là
đủ”.
Theo cuốn Tử Thư, giây phút lâm chung hết sức quan trọng, có thể
quyết định số phận và tương lai của người chết. Vào lúc đó, tất cả mọi
chủng tử của nghiệp lực chất chứa trong tàng thức đều sẵn sàng phát
động. Nếu ra đi với một tâm trạng an lành thoải mái, người quá cố sẽ dễ
siêu thoát và tránh được ba đường ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh), và
ngược lại, bất cứ một biến cố gì xảy ra trong lúc đó khiến họ xúc động,
phát động các tư tưởng quyến luyến, giận hờn thì hậu quả thật không biết
đâu mà lường.
Cuốn Tử Thư ghi rõ: “Tâm trạng của con người lúc chết sẽ quyết định nơi chốn hay cảnh giới mà họ sẽ đến”. Đó là một lý do người Tây Tạng
chuẩn bị rất kỷ cho lúc lâm chung trong khi người Âu Mỹ, vì thiếu hiểu
biết, đã hết sức bất cẩn vào những giờ phút quan trọng nhất. Đa số người
hấp hối đều được đưa vào bệnh viện. Người ta cố gắng dùng những dụng cụ
y khoa, những liều thuốc kích thích thật mạnh như một giải pháp cuối
cùng để kéo dài thêm sự sống thay vì chấp nhận rằng đã đến lúc phải để
người đó ra đi một cách an lành, thoải mái. Bác sĩ Melvin ghi nhận:
“Người ta đã lạm dụng khoa học và kỷ thuật một cách vô ý thức, dường như
việc kéo dài đời sống thêm dài giờ, vài phút là một điều mà người y sĩ
phải thực hiện cho kỳ được. Tôi thấy người ta sử dụng các dụng cụ làm
hồi tim bằng điện, các liều thuốc kích thích cực mạnh cho những người
già yếu không thể kéo dài đời sống thêm bao lâu nữa. Dường như người y
sĩ quan niệm rằng còn nước còn tát, dù thâm tâm họ biết rằng bệnh nhân
đó khó sống quá vài giờ nữa. Sự gây bạo động trên thân thể người già
bằng các dụng cụ y khoa, các thuốc men hóa học dĩ nhiên gây xáo trộn cho
tâm lý người chết và tôi không hiểu tâm trạng của người đó lúc từ trần
sẽ ra sao! Chắc chắn một người bị điện giật lung tung, bị dao kéo mổ
khắp mình, bị chích đủ các loại thuốc không thể nào thoải mái hay bình
tĩnh mà ra đi cho được”. Linh mục Thomas Merton
cũng cảnh cáo: “Phần lớn các quốc gia tân tiến đã bỏ nhiều tiền bạc và
công sức để tìm các phương pháp kéo dài sự sống, dù chỉ trong vài giờ,
vài ngày nhưng không hề chú ý đến việc giáo dục
con người về ý nghĩa của đời sống hay giúp họ cách giáp mặt sự chết,
điều mà không ai có thể tránh được. Phải chăng nền văn minh kỹ thuật
càng tân tiến, người ta càng mất hết nhân tính?” Sự tiến bộ của khoa học
đã tạo ra một vấn đề hết sức nan giải, đó là sự kéo dài đời sống qua
các máy móc nhân tạo (Life support system). Liệu chúng ta có muốn cho
người thân tiếp tục sống trong trạng thái vô tri, vô giác bởi các máy
móc đó không? Ai có thẩm quyền rút những máy móc này ra để cho người
chết có thể ra đi một cách thoải mái? Đây là một đề tài đang được bàn
cãi sôi nổi nhưng chưa đi đến một kết luận nào. Trước khi đi xa hơn,
chúng ta hãy theo dõi diễn tiến của sự chết.
Theo cuốn Tử Thư, tùy theo nghiệp quả (karma) mà đời sống mỗi người
có một số phận hay thời gian nhất định. Sự chết xảy ra khi nghiệp quả đã
trả xong, các nhân duyên đã hội đủ và đời sống chấm dứt như ngọn đ èn
hết dầu phải tắt. Tuy thế, thời gian của kiếp sống không hoàn toàn cố
định mà có thể thay đổi, hoặc dài hơn hoặc ngắn hơn, tùy theo nhân duyên
và thái độ của con người đối với cuộc sống. Một người biết thực hành
các phương pháp thiền định, dưỡng sinh hay làm việc phúc đức có thể kéo
dài thêm tuổi thơ, trái lại, một người không biết lo lắng cho thân và
tâm, hay làm các điều ác thì có thể chết trước khi phận số đến. Người Tây Tạng tin rằng việc không ăn thịt cá, không sát sinh có thể kéo dài thêm đời sống, cứ bảy năm ăn chay
có thể kéo dài tuổi thọ thêm một năm, hay việc phóng sinh chim cá có
thể giúp người ta thoát khỏi các căn bệnh hiểm nghèo. Đây là một tin
tưởng dựa trên luật nhân quả, giết hại sinh vật thì đời sống mình bị ngắn đi và phóng sinh hay giúp đỡ các sinh vật khác thì đời sống có thể tăng thêm.
Hiển nhiên đã sinh ra thì ai cũng phải chết, nhưng thái độ việc sinh
ra hay lúc chết đi phản ảnh rõ rệt sự khác biệt giữa phong tục Tây Tạng
và các quốc gia Tây phương. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng đã
viết: “Trong khi người âu Mỹ chú trọng đến ngày sinh thì phong tục Tây
Tạng lại chú trọng đến ngày chết. Người Âu Mỹ thích nói đến lúc sinh đứa
bé khỏe mạnh ra sao, cân nặng bao nhiêu ký, giống cha hay giống mẹ và
ăn mừng ngày sinh nhật. Trong khi đó, người Tây Tạng lại nói đến việc tổ
tiên của mình đã chết như thế nào và kỷ niệm ngày giỗ rất trọng thể vì
giá trị của một người không được đánh giá bằng danh vọng hay tài sản
nhưng bằng đời sống nội tâm. Một cái chết phi thường hẳn biểu lộ một đời
sống phong phú về nội tâm, và một người biết trước giờ chết, chuẩn bị
dặn dò con cháu sẵn sàng, ngồi xếp bằng đọc kinh rồi thản nhiên trút hơi
thở cuối cùng là một cái chết mà người Tây Tạng nào cũng muốn. Đôi khi
sự ham muốn này đã tạo ra những sự kiện đáng tiếc như sau: Có một vị Lạt-ma
nổi tiếng có rất đông đệ tử. Không hiểu ông nghĩ sao mà đoán trước được
giờ chết. Ông công bố tin này cho học trò và chuẩn bị một cái chết rất
thịnh soạn. Trong nhiều tuần lễ, đệ tử khắp nơi kéo về đây nghe dặn dò
và chuẩn bị ăn mừng ngày thầy ra đi. Vị này ngồi bằng nhập thiền, học
trò quây quần chung quanh chờ đợi nhưng mấy ngày trôi qua mà vị thầy vẫn
không chết. Sau đó ngồi lâu đói bụng, ông này bèn gọi học trò mang cơm
ra cho thầy ăn. Học trò thất vọng rủ nhau bỏ đi hết vì nghĩ rằng vị thầy
thiếu kinh nghiệm tâm linh. Buổi lễ lonh trọng đó đã biến thành một vở
bi hài kịch”.
Đối với các vị công phu tu hành thì thái độ của họ khác hẳn. Bác sĩ Runolfo Sanchez đã viết về cái chết của Hòa thượng Gyawang Karmapa tại một bệnh viện Hoa Kỳ
vào năm 1891 như sau: “Hòa thượng là một người trầm tỉnh ít nói nhưng
trên môi luôn luôn mỉm cười. Khi chúng tôi chẩn bệnh và nói rằng Ngài
khó qua khỏi đêm đó thì Ngài lắc đầu vá nói rằng chưa đến lúc Ngài ra
đi. Mặc dù tất cả các triệu chứng cho thấy căn bệnh đã đến lúc ngặt
nghèo, khó ai có thể kéo dài sự sống thêm được nhưng Hòa thượng vẫn lạc
quan, và sau cùng chúng tôi thấy rằng Ngài luôn luôn có lý. Cứ thế từ
ngày này qua ngày nọ, mặc dù bệnh tình không thuyên giảm nhưng Hòa
thượng cho biết chưa đến lúc Ngài ra đi, và sau nhiều lần tiên đoán
không đúng, chúng tôi đ ành giữ thái độ im lặng. Chúng tôi biết căn bệnh
này gây đau đớn cho bệnh nhân rất nhiều nên muốn dùng thuốc mê nhưng
Ngài nhất định không chịu. Một hôm Ngài cho biết đã đến lúc ra đi và yêu
cầu tôi gọi nhân viên trong bệnh viện đến để Ngài cám ơn họ. Nhìn Ngài
vui vẻ nói chuyện với mọi người, không ai nghĩ rằng chỉ trong giây phút
sau Ngài ngồi xếp bằng và trút hơi thở cuối cùng. Ba ngày sau khi Ngài
qua đời, ngực Ngài vẫn ấm và thân thể của Ngài không có một dấu vết hư
hoại gì. Đây là một điều mà chúng tôi không thể giải thích”.
Theo cuốn Tử Thư, diễn tiến của sự chết có thể tạm chia ra làm hai
giai đoạn: Giai đoạn tan rã của các phần tử vật chất và giai đoạn tan rã
của các yếu tố tinh thần. Người Tây Tạng tinh rằng phần vật chất của
con người được cấu tạo bởi Tứ Đại hay các yếu tố như Đất, Nước, Gió, Lửa.
Khi các yếu tố này tan rã thì con người không thể sống được. Nhờ biết
quan sát khí sắc hay khả năng hoạt động của các giác quan thay đổi như
thế nào mà một vị thầy Tây Tạng có thể hướng dẫn được cho người chết. Sự
chết xảy ra khi các phần tử vật chất khởi sự tan rẽ, bắt đầu bằng những
giác quan. Người sắp chết có thể vẫn nghe được tiếng người nói nhưng
không còn hiểu được ý nghĩa câu nói đó vì thính giác đã ngưng hoạt động.
Họ không thể nhìn rõ các hình ảnh chung quanh, tất cả từ từ mờ nhạt
không còn rõ rệt vì thị giác đã bắt đầu ngưng hoạt động. Cũng như thế,
các giác quan như khứu giác, vị giác, xúc giác cũng ngưng hoạt động
khiến người đó bước vào trạng thái mê man. Sau đó yếu tố Đất khởi sự tan
ra, các bắp thịt trở nên rã rời, không thể chống đỡ được toàn thân,
người hấp hối có cảm tưởng như mình đang bị một ngọn núi đ è nặng lên
toàn thân. Khi yếu tố Đất tan rã xong thì yếu tố nước khởi sự tan ra,
các chất lỏng trong cơ thể không còn vận hành bình thường được nữa, nước
mắt nước mũi tự nhiên trào ra, nhiệt độ trong người thay đổi nóng lạnh
bất thường. Sau đó yếu tố Lữa bắt đầu tan rã, người chết tự nhiên thấy
khát nước, chân tay trở nên lạnh ngắt và sau đó họ không còn tỉnh táo
nữa. Khi yếu tố lữa tan rã hết thì yếu tố Gió bắt đầu tan rã, hơi thở
người chết trở nên yếu dần và cuối cùng dứt hẳn. Đây là lúc người chết
hoàn toàn hôn mê, không còn biết gì nữa. Đối với y khoa Tây phương thì
tim ngừng đập, óc ngưng hoạt động là lúc người đó coi như đã chết, nhưng
theo cuốn Tử Thư thì giai đoạn tan rã của các phần tử vật chất này mới
chỉ là bắt đầu vì giai đoạn thứ hai, sự tan rã của các yếu tố tinh thần
có hoàn tất thì người đó mới có thể coi là thực sự đã chết.
Vì yếu tố Gió hay hơi thở là yêu cầu tâm thức nối liền tâm và thân
nên khi yếu tố này tan rã, nó sẽ ảnh hưởng vào các trạng thái tâm thức
bên trong và sự tan rã của các yếu tố tinh thần bắt đầu xảy ra. Các tinh
lực của con người khi đó từ từ rút theo các đường kinh mạch
để hội tụ chung quanh trái tim, do đó dù đã chết, thân thể đã lạnh
nhưng người ta thấy phần ngực người chết vẫn còn hơi nóng. Các yếu tố
thuộc về lý trí nằm trên óc được di chuyển đến phần ngực, các yếu tố
thuộc về tình cảm nằm ở dưới bụng cũng di chuyển lên phần ngực và khi
hai yếu tố này gặp nhau ở kinh mạch nằm cạnh trái tim, một sự thay đổi
lớn bắt đầu xảy ra. Các phần tử căn bản của bản ngã bắt đầu tan rã, khởi
đầu bằng sự tan rã của ba yếu tố chính hay tam độc (Tham, Sân, Si) và
khi ba yếu tố này ngưng hoạt động thì thần thức của con người trở nên
minh mẫn hơn, họ sẽ ý thức mọi sự một cách rõ rệt vì nói theo cuốn Tử
Thư “khi các yếu tố thuộc về bản ngã tan rã, khi không còn bị mây mù của
vô minh chi phối nữa thì chân tâm bắt đầu hiển hiện”. Đây là một giai
đoạn hết sức quan trọng vì ý thức được chân tâm hay Phật tánh
chính là cơ hội để giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi. Đối với người
không tập luyện, không ý thức thì giai đoạn này chỉ là một tia chớp lóe
sáng lên rồi tắt ngúm, nhưng với người thực hành thiền định sâu xa thì
đây là cơ hội quý báu nhất vì họ có thể chuyển thần thức, trụ vào trạng
thái này để giải thoát. Đó cũng là lý do đa số các danh sư Tây Tạng đều
nhập thiền vào giây phút lâm chung. Họ hiểu biết rất rõ diễn tiến của sự
chết và nhờ thâm cứu cuốn Tử Thư, như đã có sẵn một tấm bản đồ trong
tay, họ biết cách tập trung ý chí vào các câu thần chú, các biểu tượng
Mandala, các hình ảnh ghi giữ trong tâm. Mỗi khi một yếu tố tan rã, họ
chuyển thần thức để tập trung tư tưởng vào một bài chú đặc biệt, một
hình ảnh nhất định để lúc nào họ cũng ý thức được từng giây, từng phút
của các diễn tiến xảy ra cho đến khi bản ngã tan hết, chân tâm tỏ rạng
thì họ có thể tập trung mọi năng lực để hòa nhập vào cái trạng thái uyên
nguyên bất động này.
Điều này thật ra cũng không khác với lời chỉ dẫn trong kinh A Di Đà vì một người chân thành cầu nguyện, vào phút lâm chung nếu niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà được nhất tâm bất loạn thì họ có thể chuyển thần thức để bước vào cảnh giới Tịnh Độ.
Cuốn Tử Thư đã nói rất rõ về giai đoạn này như sau: “Chân như bản thể
của mọi sự vật đều mở rộng ra, sáng chói như một bầu trời không một gợn
mây, không gian trong suốt như pha lê và vầng rạng đông của chân tâm
bắt đầu sáng tỏ”. Danh từ “Sáng tỏ” (The dawn of luminosity) đã bị nhiều
người hiểu lầm như một thứ ánh sáng nào đó. Theo đại sư Chogyam Trungpa
thì khi chân tâm hiển hiện, tất cả mọi sự đều trở nên rõ ràng, không
còn một chút tăm tối nào. Danh từ “Sáng tỏ” ở đây chỉ có ý nghĩa trừu
tượng khác với tăm tối hay vô minh chứ không có nghĩa là người đó thấy
được một thứ ánh sáng sáng chói như nhiều người lầm tưởng. Có người nói
rằng đây là giai đoạn giác ngộ (Enlightenment) nhưng đại sư Chogyam
Trungpa không đồng ý vì giác ngộ là một kinh nghiệm cá nhân, thấy được
chân tâm chưa có nghĩa là giác ngộ mà còn phải hòa nhập và sống trọn vẹn
trong đó nữa. Ông viết: “Con người trải qua vô thượng kiếp sống, đã
chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần, đã thấy được chân tâm bao
nhiêu lần, nhưng đã mấy ai biết nắm lấy cơ hội để giải thoát này? Giáo
pháp của đức Thế Tôn đã được giảng dạy từ bao ngàn năm nay, người có
duyên được nghe, được học cũng nhiều nhưng đã mấy người biết áp dụng nó
để phá tan núi sinh tử? Phải chăng tai tuy nghe, mắt tuy thấy nhưng vì
không tỉnh thức, bị nghiệp lực chi phối nên họ không thể làm gì hơn là
tiếp tục trôi nổi trong sinh tử luân hồi”.
Dù có ý thức được chân tâm nhưng sự an trú vào đó lâu nay mau hoàn
toàn tùy thuộc vào khả năng hay công phu của người đó. Có người kinh
nghiệm được trạng thái này trong vòng vài giờ, vài ngày, vài tháng hay
vài năm. Hiển nhiên nếu có thể an trú mãi mãi thì họ hoàn toàn giải
thoát rồi, nhưng không mầy ai được như vậy. Dù chưa hoàn toàn nhưng kinh
nghiệm được chân tâm là một kinh nghiệm tâm linh vô cùng quý báu, sau
đó họ có thể chuyển thần thức để tái sinh vào những nơi chốn mà họ chọn
lựa, đó là trường hợp các vị hóa thân. Đối với những người bình thường,
khi yếu tố tinh thần tan rã hết thì họ sẽ tiếp đi trong một thời gian
dài khoảng ba ngày và lúc đó các thói quen được lưu trữ trong tàng thức
bắt đầu thu xếp để chuẩn bị cho giai đoạn sau hay giai đoạn sống trong
Cõi Sáng (the luminous Bardo of Dharmata).
Theo cuốn Tử Thư, giai đoạn sống trong Cõi Sáng (Dharmata) là lúc tâm
thức con người biến hiện rất tế nhị vì các yếu tố vật chất tan rã hết
và chân tâm hiển hiện. Tiến sĩ David Bohn viết: “Khi vật chất tan rã thì
nó chuyển qua hình thức nắng lượng vì vật chất chính là các năng lượng
đã đông đặc lại”. Khi vật chất khởi sự tan rã, thần thức dường như bị tê
liệt khiến con người có cảm tưởng như đang ở trong một căn hầm tăm tối,
không ý thức được điều gì nhưng khi bước sang giai đoạn Cõi Sáng thì họ
thấy mình lơ lửng trong một biển ánh sáng đặc biệt với các màu sáng
huyền ảo. Đây là điều mà cuốn Tử Thư gọi là “lúc đêm chuyển qua ngày”
hoăc “khi mặt trời chiếu sáng thì bóng tối tan dần và sự thật phô bày rõ
rệt”. Mặt dù cuốn sách này hẳn một phần quan trọng để nói về Cõi Sáng
(the Bardo of Dharmata) nhưng đây là một phần rất khó hiểu, khó diễn tả
nên thường được giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Có lẽ chính vì
thế, phần này đã tạo nhiều rắc rối, mâu thuẫn cho những người muốn tìm
hiểu về nó, nhất là giới học giả Tây phương thường hay suy luận, phân
tích một cách khoa học. Đa số những người này vì thiếu kinh nghiệm tâm
linh nên đã giải thích cõi này một cách sai lạc như một “kinh nghiệm về
ảo giác” và có nhiều ngộ nhận đáng tiết.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết: “Chân lý có thể được diễn tả một cách
tuyệt đối cũng như tương đối. Nếu một người có trình độ hiểu biết thâm
sâu thì họ có thể kinh nghiệm ngay được sự tuyệt đối nhưng vì số người
này rất ít, do đó các danh sư đã phải sử dụng các tỉ dụ các lối nói trừu
tượng bóng bẩy, các hình ảnh biểu tượng, các thí dụ giản dị để diễn tả
nhưng cũng vì thế mà nó chỉ có tính cách tương đối thôi. Sử dụng những
gì tương đối để diễn tả điều tuyệt đối là việc rất khó nên người đọc cần
hiểu rằng đó chỉ là những giai đoạn, những phần nhỏ rời rạc được góp
nhặt lại để diễn tả những điều không thể diễn tả mà thôi. Người ta phải
biết phân biệt, đừng lầm ngón chỉ mặt trăng với mặt trăng, đừng lầm
những tỉ dụ bóng bẩy như những sự thật tuyệt đối”.
Có nhiều người cho rằng đời sống ở cõi này rất thoải mái, sung sướng
với những cảnh tương tự như cảnh giới ở cõi trần như người khác lại cho
rằng khi bản ngã đã tan hết thì không còn chủ thể hay đối tượng nữa, tất
cả đều là cái vô cùng, cái đồng nhất, vô phân biệt, mà đã vô phân biệt
thì đâu còn có mình, có người nữa. Đại sư Chogyam Trungpa viết: “Đây
không phải là sự cảm nhận hay kinh nghiệm, vì cảm nhận hay kinh nghiệm
còn có sự phân biệt giữa chủ thể và đối tượng, đây chính là cái điều mà
danh từ Phật giáo gọi là ‘Tâm vô phân biệt’ hay ‘Bất nhị”.
Khi bước qua Cõi Sáng, giai đoạn đầu tiên là hồi quang phản chiếu hay
là sự quan sát lại tất cả những diễn tiến đã xảy ra trong kiếp sống vừa
qua một cách trung thực. Vì bản ngã đã tiêu tan hết, không còn thành
kiến hay tham sân si,
nên đây là một sự quán sát trung thực và chính xác nhất. Tuy nói là
quan sát nhưng đây chỉ là một lối nói có tính cách tương đối vì theo các
danh sư Tây Tạng, đây chỉ là một sự sắp xếp của định luật nhân quả,
chuẩn bị các “nhân” cho kiếp sống tương lai. Giai đoạn thứ hai của sự
sắp xếp này đã được người Tây Tạng sử dụng các hình ảnh, biểu tượng để
diễn tả sự biến hiện của tâm thức từ trạng thái “Vô phân biệt” đến trạng
thái “Phân biệt” hay từ “Bất nhị” chuyển qua “Nhị nguyên”. Theo cuốn Tử
Thư giai đoạn này kéo dài khoảng bảy ngày như sau:
Vào ngày đầu, có các tia sáng xoay vần, bầu trời hiện ra màu xanh dương và chính giữa có đức Phật Tỳ Lô Giá Na,
tượng trưng cho sự thật tuyệt đối hay sự trong sạch vô biên, xuất hiện.
Toàn thân Phật phát ra hào quang màu trắng chói sáng và gần đó có các
hình ảnh của chư thiên với luồng ánh sáng mờ đục hơn cũng đồng thời xuất
hiện. Vì các nghiệp lực của sân hận vẫn còn chất chứa trong tàng thức
nên người ta thường không dám nhìn thẳng vào luồng ánh sáng xuất phát từ
đứt Tỳ Lô Giá Na mà có ý hướng chuyển qua luồng ánh sáng của các chư
thiên. Sân hận được giải thích như một hình thức tự vệ của bản ngã, nó
không dám để cho “mình” tiêu dung vào luồng ánh sáng chói lọi kia mà
quay đầu tìm qua lối khác, thoải mái hơn, dễ chịu hơn. Đây là giai đoạn
đầu của sự thành lập hạt giống của bản ngã và cũng là động lực để vòng
luân hồi tiếp tục chuyển động, thúc đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới
của chư thiên.
Vào ngày thứ hai có các tia sáng của thủy đại màu dễ chịu hơn. Đây là
giai đoạn đầu của các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh
giới A Tu La.
Vào ngày thứ ba, có các tia sáng của địa đại màu vàng xuất phát từ
phương nam. Chính giữa luồng sáng đó có đức Bạt Già Phạm Bảo Sanh, tay
cầm viên minh châu sáng chói. Từ viên ngọc phát xuất những tia sáng màu
vàng tượng trưng cho tam thiên đại thiên thế giới, oai nghi, trang
nghiêm không gì sánh. Gần đó có một lớp ánh sáng màu xanh đờ đục, tượng
trưng cho cảnh giới của loài người cũng đồng thời xuất hiện. Vì các
nghiệp lực của kiêu căng, hãnh diện, nghi kỵ vẫn còn chất chứa trong
tàng thức nên đa số không dám nhìn thẳng vào lớp sáng màu vàng chói lọi
kia. Cái lòng hãnh diện của bản ngã sẽ hành động, nó không muốn nhìn vào
sự vinh quang, lớn lao, trang nghiêm đẹp đẽ trong thế giới của đức Bạt
Già Phạm Bảo Sanh, mà cố gắng tìm cách ẩn mình vào lớp ánh sáng màu xanh
đục. Đây là giai đoạn đầu của các đông lực thúc giục người ta đầu thai
vào cảnh giới của loài người.
Vào ngày thứ tư, có các tia sáng của hỏa đại màu đỏ xuất phát từ
phương tây. Chính giữa luồng ánh sáng đó có đức Phật A Di Đà, đứng trên
tòa sen đang rộng hai tay tiếp dẫn. Luồng ánh sáng này chiếu soi khắp
mười phương thế giới không chỗ nào không soi đến. Gần đó có một lớp ánh
sáng màu nâu đục, tượng trưng cho cảnh giới của ngạ quỷ cũng đồng thời
xuất hiện. Vì các nghiệp lực của ích kỷ, tham lam, lo tích lũy tài sản
vẫn còn phát chứa trong tàng thức nên đa số không dám nhìn thẳng vào lớp
ánh sáng chói lọi kia. Lòng tham lam của bản ngã sẽ hành động, nó không
muốn bước vào sự vinh quang, đẹp đẽ của thế giới Cực Lạc kia mà cố gắng
tìm cách ẩn mình vào lớp ánh sáng màu nâu đục. Đây là giai đoạn đầu của
các động lực thúc giục người ta đầu thai vào cảnh giới của ngạ quỷ.
Vào ngày thứ năm, có các tia sáng của phong đại màu xanh xuất phát từ
phương bắc. Chính giữa luống ánh sáng có đức Phật Bất Không Thành Tựu,
tay cầm một cái chày kim cương hình chữ thập xuất hiện. Chung quanh có
một lớp ánh sáng màu xanh thẩm, tượng trưng cho thế giới của A Tu La
cũng đồng thời xuất hiện. Vì các nghiệp lực của ganh ghét, giận tức, tị
hiềm, đố kỵ, do dự không nhất quyết cón chất chứa trong tàng thức nên đa
số không dám nhìn thẳng vào lớp ánh sáng màu xanh chói lọi kia. Các
động lực của lòng hãnh diện, ganh ghét, tị hiềm, đầy do dự của bản ngã
sẽ hành động. Nó không muốn thấy có một cái gì tốt đẹp hơn, vinh quang
hơn, đẹp đẽ hơn nó thay vì hòa nhập vào thế giới của đức Phật Bất Không
Thành Tựu, nó lại tìm ẩn mình vào lớp ánh sáng màu xanh thẫm vốn rồi
thiếp đi một lúc, sau đó họ dần dần tỉnh lại và thấy mình có thể chứng
kiến tất cả mọi sự đã xảy ra trong cuộc đời (hồi quang phản chiếu). Vì
khi đó bản ngã đã tan rã nên họ có thể chứng kiến rõ ràng mọi sự xảy ra
đúng với sự thật chứ không còn bị các thành kiến chi phối nữa. Khi quan
sát các diễn tiến này, họ sẽ ý thức được luật nhân quả đã hành động như
thế nào, vì lý do gì mà sự kiện đã diễn ra như thế, và từ đó tâm trạng
của họ nảy sinh những mong cầu, ao ước vốn là những hạt giống (nhân) để
chuẩn bị cho sự tái sinh sau này. Sự thu xếp này hết sức phức tạp vì còn
tùy theo những duyên nghiệp đã gây ra từ những kiếp trước. Chính những
động năng này đã quyết định sự thành lập một bản ngã cho kiếp sống trong
tương lai.
Vào ngày thứ sáu, có một cầu vồng năm sắc xuất hiện. Trong mỗi màu
sắc lại có thế giới của một vị Phật đồng xuất hiện. Ngoài ra còn có các
vị kim cang Hộ pháp
và bốn mươi hai đấng thiên thể xuất hiện quanh đó như sẵn sàng tiếp dẫn
người ta bước vào những thế giới tốt lành trang nghiêm thanh tịnh kia.
Tuy nhiên các động năng của bản ngã cũng đồng thời trỗi dậy. Lòng sân
hận, kêu căn, nghi kỵ, ngã mạn, tham lam khiến người ta sanh tâm sợ hãi
không dám bước vào những cảnh giới ấy mà tìm cách tránh né và bỏ qua cơ
hội có thể giải thoát. Ngay từ lúc đó, những luồng ánh sáng mờ đục bắt
đầu chiếu sáng để hướng dẫn con người đi vào sáu nẻo luân hồi, và khởi
sự từ lúc đó, những năng lực của vô minh bắt đầu tạo tác.
Vào ngày thứ bảy, sự sắp đặt của các hạt giống sinh tử đã gần như
hoàn tất vào cái thế giới “Bất nhị” của tâm vô phân biệt đã chuyển thành
những cặp nhị nguyên, đối đãi. Có hai cánh cửa được mở rộng trước mặt.
Cánh cửa của sự hiểu biết (Trời) dẫn lên trên và cách cửa của sự không
hiểu biết (Súc sinh) dẫn xuống dưới. Tuỳ theo nghiệp lực lôi cuốn mà người ta sẽ đi lên cao hay xuống thấp, hoặc bước vào ba đường lành (Trời, Người,
A Tu La) hay ba đường ác (Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh). Sau đó, người
ta bước vào giai đoạn thứ tư của vòng luân hồi hay giai đoạn chuẩn bị để
tái sinh.
Theo các danh sư Tây Tạng, tất cả các hình ảnh nói trên không phải ở
bên ngoài đến mà chỉ là sự phóng chiếu của tâm thức bên trong. Nằm sâu
trong tâm thức là các năng lượng giải thoát biến hiện một cách tế nhị và
phức tạp. Những năng lương này vốn vẫn hiện hữu nhưng thường tiểm ẩn vì
bị vô minh che phủ, hay nói một cách khác, vì bị các động lực của bản
ngã như tham lam, sân hận, kiêu căng, ngã mạn, nghi kỵ che lấp nên người
ta không thể ý thức được chúng. Chính vì không ý thức được chúng nên
người ta tiếp tục bị nghiệp lực lôi kéo vào trong vòng sinh tử luân hồi,
nói một cách khác, công phu tu hành diệt ngã, loâi bỏ các thoái quen
của Thân, Khẩu, Ý
chính là một cách làm giải phóng các năng lượng giải thoát này. Một số
học giả người Âu đã đặt câu hỏi: “Nếu người Tây Tạng nhìn thấy một vị
Phật thì một người Âu, không cùng tôn giáo, sẽ thấy gì?” Sogyam
Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đã trả lời: “Đây không phải là một kinh
nghiệp hay một ảo ảnh mà là sự diễn tả bằng tỉ dụ, qua các biểu tượng về
sự biến hiện mà người ta có thể giải thích bằng các hình ảnh khác nhau.
Một người có đức tin vào thiên chúa có thể sẽ nhìn thấy Thương Đế, Đức
Chúa, Đức Mẹ hoặc các đấng thiên thần. Vấn đề chính không phải là sự
nhìn thấy gì ở chỗ ý thức rằng tất cả đều do tâm thức biến hiện. Tất cả
mọi mầm mống thiện ác, tốt xấu đều ở tâm mà ra, tất cả đều do tâm đạo”.
Theo đức Đạt Lai Lạt Ma, đối với một người bình thường, sự chết có
thể chỉ là một giấc ngủ dài mà thôi. Mặc dù diễn tiến của sự chết đã
được giải thích rất rõ rệt từ cuốn Tử Thư nhưng không ai cũng chịu tỉnh
thức để theo dõi từng giây từng phút như thế. Phần lớn con người khi
trút hơi thở cuối cùng chỉ thấy mình mê man trắng trong suốt và từ
phương đông, đứt Phật Kim Cang A Súc Bệ, tượng trưng cho trí tệ viên
mãn, xuất hiện. Toàn thân Ngài tỏa ra một thứ ánh sáng trong suốt, xuyên
qua tất cả mọi vật nhưng gần đó có các hình ảnh lạ lùng, tương trưng
cho cảnh giới địa ngục màu xám đục cũng đồng thời xuất hiện. Vị các
nghiệp lực của si mê hay kiên chấp vẫn còn chất chứa trong tàng thức nên
đa số không dám nhìn thẳng vào luồng ánh sáng trong suốt kia. Cái trí
suy luận của bản ngã bắt đầu hành động, nó không dám đối đầu với sự thật
bằng bản ngã hay ngũ uẩn vốn không có thật, mà tìm cách ẩn mình dưới
lớp khói màu xám của vô minh. Đây là giai đoạn đầu của các động lực thúc
đẩy người ta đầu thai vào cảnh giới địa ngục.
Tóm lại, chết không phải là hết vì nó là điều kiện tất yếu của một
kiếp sống sắp đến. Khi các nhân duyên của kiếp này đã hội đủ, kiếp sống
phải chấm dứt và sau đó có sự thu xếp, sắp đặt lại tùy theo các mong
cầu, ao ước, tùy theo các duyên nghiệp đã tạo, làm nhân cho kiếp sống về
sau. Đó chính là căn bản của luật luân hồi nhân quả. Sở dĩ người ta đau
khổ vì đã nhận thức sai lầm rằng sự vật vốn không thay đổi, cứ bám chặt
lấy những ảo giác của vô minh, mong kéo dài đời sống để thỏa mãn dục
vọng, tạo mãi những nghiệp lành dữ, và cứ thế trôi nổi trong luân hồi
sinh tử.
Đối với đa số người Âu, chết là hết, là chấm dứt, là vĩnh
viễn chia lìa. Sau khi cử hành tang lễ một cách long trọng, người sống
cho rằng họ không thể làm gì hơn được nữa. Đây là một sự sai lầm đáng
tiếc vì thiếu kiến thức và hiểu biết về thế giới bên kia. Đối với người Tây Tạng,
việc chân thành cầu nguyện và hiểu biết cuốn Tử Thư để hướng dẫn người
chết là một nghi thức quan trọng nhưng không phải ai cũng biết. Tuy
nhiên người ta vẫn có thể làm được nhiều điều hữu ích mà không nhất
thiết phải sử dụng đến cuốn Tử Thư.
Có nhiều cách giải thích về thời gian của giai đoạn từ khi chết cho
đến lúc đầu thai như sau: Có người cho rằng một ngày ở bên cõi âm tương
tự với bảy ngày ở cõi trần hay bảy ngày ở cõi âm tương ứng với bốn mươi
chín ngày ở cõi trần. Do đó người ta phải cầu nguyện liên tiếp trong
vòng bốn mươi chín ngày, nhất là trong ba tuần lễ đầu tiên khi thần thức
người chết còn đang phân vân chưa biết chọn nơi chốn nào để đi. Đây
cũng là giai đoạn mà sự liên hệ với thân quyến còn nặng nên thần thức
người chết vẫn quanh quẩn bên những người thân, có thể nghe được, ý thức
được lòng chân thành và sự hướng dẫn để biết đường mà đi đầu thai. Nếu
không được hướng dẫn cẩn thận, thần thức mê muội dễ bị nghiệp lực chi
phối hay bị các động lực bất hảo dẫn dắt đầu thai vào ba đường ác. Có
người lại cho rằng cõi bên này có tất cả bảy tiến trình khác nhau, mỗi
tiến trình dải bảy ngày, và tiếp theo tiến trình đầu như vừa diễn tả ở
trên còn có những tiến trình khác. Thay vì gặp năm vị Phật thì người
chết lại gặp năm vị ma vương, năm vị thiên thể,
năm đấng thần linh.v.v..Tuy nhiên, dù giải thích theo quan niệm nào,
thời gian khoảng bốn mươi chín ngày luôn luôn được coi là giai đoạn quan
trọng nhất. Dĩ nhiên người ta không chỉ giới hạn việc cầu nguyện trong
vòng bốn mươi chín ngày thôi mà còn phải tiếp tục cầu nguyện sau đó nữa.
Hòa thượng Dudjom đã viết: “Giai đoạn bốn mươi chín ngày chỉ có ý nghĩa
tương trưng thôi, có người sau khi từ trần chỉ ở cõi bên này một thời
gian rất ngắn rồi đầu thai ngay và có những người khác cứ quanh quẩn bên
cõi này cả trăm năm, có khi cả ngàn năm vẫn chưa chọn được nơi chốn đầu
thai”.
Một số họ giả người Âu cho rằng nghi thức đọc cuốn Tử Thư hướng dẫn
người chết là vô lý vì người đã chết đâu để nghe được nữa. Hòa thượng
Chogyam Trungpa đã giải thích: “Hiển nhiên người quá cố không thể nghe
bằng thính giác được nữa, nhưng họ vẫn ý thức được bằng thần thức
(consciousness). Vì đây là sự theo dõi bằng tư tưởng nên dù người ta đọc
bằng tiếng Tây Tạng hay bất cứ ngôn ngữ
gì, người chết vẫn có thể hiểu được. Sự truyền đạt bằng tư tưởng này
đòi hỏi sự chân thành. Có thành thật thì người khác mới cảm nhận được,
và có cảm thì mới có ứng, do đó các nghi lễ có tính cách nặng phần trình
diễn, thiếu thành thật, làm chỉ để cho xong, thật không có một ý nghĩa
tốt đẹp gì hết”. Một số người khác cho rằng khi chết, bản ngã đã tan ra
hết thì đâu còn gì để nghe nữa. Hòa thượng Trungpa giải thích: “Không ai
biết được người chết đang ở trong tình trạng hay giai đoạn nào. Nếu họ
đang bước vào trạng thái kinh nghiệm chân tâm thì có thể họ không ý thức
được bao nhiêu nhưng thông thường trạng thái này chỉ xảy ra trong một
chớp mắt, sau đó các năng lượng thuộc bản ngã tan rã lại được sắp xếp
theo các định luật nhân quả (thời gian ở Cõi Sáng và chuyển thần thức để
đầu thai), do đó họ vẫn có thể ý thức rõ rệt những sự kiện xảy ra chung
quanh được”. Dĩ nhiên việc đọc cuốn Tử Thư hay đọc kinh cầu nguyện cho
người chết còn có những ảnh hưởng khác thuộc vấn đề tư tưởng, thì chắc
chắn có ảnh hưởng mà sự hiểu biết giới hạn không thể nghĩ bàn.
Một trong những vấn đề được bàn cãi sôi nổi hiện nay là việc sử dụng
các máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống (Life support system). Sự tiến
bộ của khoa học kỷ thuật này đã gây ra một tình trạng nan giải trên
phương diện pháp luật, luân lý, đạo đức và gây khó khăn cho giới y sĩ
cũng như thân quyến người chết. Việc sống không ra sống mà chết cũng
không ra chết, ở trạng thái vô tri vô giác này quả thật vô cùng đáng sợ.
Liệu chúng ta có muốn cho người thân kéo dài đời sống như thế chăng? Ai
có thẩm quyền kéo dài đời sống người khác bằng máy móc hay chấm dứt đời
sống khi rút những máy móc này ra? Liệu một y sĩ có thể giúp bệnh nhân
chấm dứt sự đau đớn thân xác bằng cách giúp cho họ tìm cái chết được
không? Hiển nhiên đây là một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị và không có
câu trả lời chung nên phải tùy từng trường hợp mà giải quyết. Dĩ nhiên
việc sử dụng máy móc nhân tạo để kéo dài sự sống cho những người có hy
vọng được cứu sống, như trong trường hợp tai nạn, bệnh tật là một
chuyện, nhưng việc kéo dài đời sống cho những người không còn một hy
vọng gì có thể được cứu sống hoặc quá già yếu, không thể sống thêm được
nữa, lại là một vấn đề khác.
Theo cuốn Tử Thư, tâm trạng con người lúc từ trần hết sức quan trọng,
việc sử dụng máy móc để kéo dài thêm đời sống chắc chắn sẽ gây khó khăn
cho người chết. Dù cho người đó ở trong một tình trạng hôn mê (coma)
nhưng thần thức của họ vẫn ý thức được mọi sự xảy ra chung quanh. Sự cố
gắng kéo dài đời sống này có thể gây cho họ một sự bực bội, khó chịu,
oán hận và chắc chắn họ không thể thoải mái, tự tại khi ra đi được. Bác
sĩ Kubler Ross đã viết: “Thà để cho một người thoải mái trút hơi thở
cuối cùng còn hơn để cho họ khổ sở sống một cách vô nghĩa bằng các
phương tiện nhân tạo”. Linh mục Thomas Merton cũng đã viết: “Sự sống
không ra sống mà muốn chết cũng chẳng được vì các máy móc nhân tạo này
chính là sự giam giữ con người trong ngục tù của thể xác”. Nhưng làm sao
được khi đa số mọi người ngày nay đều chết trong bệnh viện hoặc nhà
dưỡng lão, dưới sự kiểm soát khắt khe của các y sĩ? Mà đa số y sĩ đều
được giải bảo rằng “Bổn phận của người y sĩ là cứu sống bệnh nhân bằng
bất cứ phương tiện nào và bằng mọi giá”, do đó mới có thảm trạng mà bác
sĩ Melvin Morse đã diễn tả: “Sự chết được ấn định bởi nhịp đập của tim, lượng oxygen trong máu,
sự hoạt động của bộ óc nên khi tim ngưng đập thì người ta sử dụng điện
để kích thích cho tim đập lại, khi oxygen trong máu giảm đi thì người ta
sử dụng các phương pháp hô hấp nhân tạo hay các máy bơm dưỡng khí vào phổi,
khi óc ngưng hoạt động thì người ta chích đủ các loại thuốc hóa học để
kích thích bộ óc làm việc. Đa số bệnh nhân thường bị điện giật lung
tung, toàn thân đầy những vết chích, thân thể bơm đủ tất cả các loại
thuốc cho đến khi y sĩ thấy đủ và ngừng tay thì các trò này mới chấm
dứt”.
Để tình trạng này xảy ra, ngày nay một số người đã phải làm di chúc
rằng nếu không còn hy vọng gì cứu sống nữa thì để cho họ ra đi một cách
an lành và tự nhiên. Việc làm di chúc này khá thịnh hành tại các quốc
gia phương Tây và đa số những người hiểu biết đều thông báo cho bệnh viện hay y sĩ biết về tờ di chúc này khi họ phải vào bệnh viện.
Vì chết là một điều có thể xảy ra bất ngờ, không phải ai cũng có thọ
mệnh lâu dài nên sự chuẩn bị khi trong nhà có người chết là một việc hết
sức quan trọng. Sogyal Rinpoche, một danh sư Tây Tạng, đã khuyên: “Khi
tim ngưng đập thì người đó chưa hẳn đã chết, chỉ có phần vật chất đã
ngưng hoạt động hay bắt đầu tan rã mà thôi. Vì phần tâm linh cần phải
mất thêm một thời gian nữa mới tan rã (khoảng từ 8 đến 36 giờ), nên điều
cần thiết là không nên di động đến thân thể người chết. Điều quan trọng
nhất là phải tránh sự khóc lóc, ồn ào để thần thức người chết không bị
quyến luyến hay đau khổ thêm. Hãy khởi sự tụng kinh cầu nguyện một cách
chân thành và tránh các tiếng động ồn ào, náo nhiệt. Dĩ nhiên người chết
không thể nghe được bằng các giác quan thông thường, nhưng vì phần tinh
thần còn đang hoạt động nên thần thức của họ vẫn có thể cảm nhận được
những sự ồn ào, náo nhiệt này mà sinh tâm bối rối, khó chịu hay sân hận.
Dĩ nhiên tang gia nào cũng có bối rối, nhưng đừng vì thế mà bám vào các
thói mê tín dị đoan hay lo chọn ngày giờ tốt, lo việc tùng ma chay mà
quên đi những việc khác cần làm hơn. Người ta có thể đọc cuốn Tử Thư để
hướng dẫn thần thức người chết nếu được huấn luyện về phương pháp này.
Người ta cũng có thể niệm hồng danh đức Phật A Di Đà để cầu cho người
chết được vãng sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc. Người ta cũng có thể đọc kinh cầu nguyện của các tôn giáo,
điều quan trọng nhất chính là sự chí tâm chí thành chứ không phải đọc
tụng như một cái máy. Nên nhớ người chết có thể đọc rõ tư tưởng người
sống và chắc chắn cảm được mọi sự thiếu thành thật, nếu có. Sự cầu
nguyện rất có ích vì nó có thể giúp người quá cố bình tỉnh lại và cùng
cầu nguyện theo. Khi tâm thức họ nhờ đọc kinh mà được sáng suốt, được an
lạc thì chắc chắn thì họ sẽ được siêu thoát vào những đường lành. Nên
tránh tất cả những việc sát sinh hay sử dụng các đồ ăn như thịt cá hay
rượu vì những thứ này thướng thu hút những vong linh thấp thỏi, những
loài ma quỷ đói khát tìm đến. Khi thần thức người chết còn đang dao
động, chưa bình tĩnh thì sự tiếp xúc này không có ích lợi gì cả. Nên
tránh các hình thức ma chay to lớn, linh đình hay các thủ tục phiền phức
vì các luồng tư tưởng của đám đông thường phức tạp, lộn xộn, không giúp
cho người chết được bao nhiêu. Hãy yêu cầu mọi người giữ yên lặng và
chú tâm cầu nguyện một cách giản dị là tốt đẹp nhất. Sau khi chôn cất,
hãy tiếp tục tụng kinh khuya sớm trong vòng bốn mươi chín ngày, nhất là
trong ba tuần lễ đầu vì đây là giai đoạn quan trọng hơn cả, khi các sự
sắp xếp nhân quả chưa ngã ngũ rõ rệt, khi người chết còn có thể tỉnh
thức để hòa nhập vào các luồng ánh sáng để siêu thoát.
Mặc dù đa số người Tây phương thường chôn cất nhưng việc thiêu xác có
nhiều lợi ích nhất. Thứ nhất, để người chết không còn quyến luyến thân
xác, dễ siêu thoát. Thứ hai, lửa có một tác dụng đặc biệt để chuyển hóa
các năng lực còn sót lại quanh thân xác, ngăn ngừa được sự kêu gọi của
các phù thủy, pháp sư lợi dụng các năng lực này vào những việc bất hảo.
Việc ướp xác chính là một lối sử dụng các năng lực này để lưu giữ âm
binh, hòng duy trì ảnh hưởng của tà môn. (Wikipedia)