Dalai Lama XIV
Danh từ Hoá thân được dịch từ chữ Tulkus và được hiểu như đã nói trên.
Thật sự từ Hóa thân chỉ dùng cho những vị Bồ tát còn muốn tái sanh trở
lại. Nhiều sách vở đôi khi còn dịch chữ Hóa thân qua từ “Reincarnation”.
Từ “Reincarnation” chỉ sự đầu thai lại của tất cả những chúng sanh còn
bị nghiệp quả luân hồi tác động. Trái lại từ Tulkus chỉ sự đầu thai trở
lại theo ý muốn, vì người đầu thai này thật sự đã thoát khỏi sự ràng
buộc của luân hồi. Những vị này sau khi đã đầu thai rồi, họ vẫn ý thức
được rất rõ ràng về kiếp trước của mình và biết rằng mình tái sanh trở
lại là để thực hiện một ý tưởng vị tha cao cả cho chúng sanh.
Theo các tài liệu nghiên cứu về Phật giáo Tây Tạng và nhất là những
cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng mà chúng tôi may mắn đã có được
một tài liệu giá trị của tác giả Phương Dung viết về đề tài này trên
báo Hồn Việt và báo Việt Nam (1993), thì từ năm 1419 Tây Tạng đã có
truyền thống về sự Hóa thân khi Đại sư Tsong Khapa qua đời. Vị này đã
chỉ định Gedun Truppa thay thế mình. Chính vị sư này đã nguyện rằng sau
khi chết, sẽ tái sanh trở lại để cứu độ chúng sanh và hoàn tất những gì
mình chưa làm xong, cũng như phát triển việc huấn luyện các tu sĩ phái
Gelugpas thường được gọi là phái Mũ Vàng, lúc đó đang gặp nhiều khó khăn
trở ngại.
Theo Đại sư Gedun Truppa thì khi hóa thân trở lại trần gian, ông sẽ đầu
thai trở lại qua các vị Đạt Lai Lạt Ma. Để các đệ tử biết được mình sẽ
hóa thân vào người nào, Đại sư đã chỉ rõ một vài thứ đồ dùng hàng ngày
của mình và viết một bài kệ đặc biệt. Ngày sau cứ theo đó mà suy đoán.
Sau khi Đại sư Gedun Truppa viên tịch được hai năm, các đệ tử đã thăm
dò, theo dõi, tìm kiếm khắp nơi những gì khả dĩ nói lên được sự tái sanh
của Đại sư.
Lúc bấy giờ ở một vùng kế cận thủ đô, có một bé trai mới hai tuổi,
nhưng ăn nói và hiểu biết thông thạo như người lớn. Nghe được tin này,
các đệ tử của Đại sư đã tìm đến tiếp xúc. Họ thấy đứa bé trả lời những
câu hỏi do họ đưa ra rất trôi chảy. Sau đó là cuộc thử thách, họ đặt
những di vật của Đại sư Gedun Truppa lẫn lộn với nhiều đồ vật của những
vị sư khác trong tu viện trước mặt cậu bé, rồi hỏi như sau:
- Hãy cho biết những thứ nào người đã thường dùng ngày xưa?
Cậu bé nhìn tất cả các thứ, rồi lựa những di vật của Đại sư Gedun Truppa để riêng ra một bên và nói:
- Đây là những thứ tôi thường dùng ngày trước.
Các đệ tử vô cùng kinh ngạc, một người nhớ lại bài kệ liền đưa cho cậu
bé đọc thử. Không ngờ vào tuổi nhỏ như vậy mà cậu bé lại đọc được cả bài
kệ và còn giải thích luôn những đoạn khó hiểu cho mọi người nghe.
Sau khi đã chắc chắn đó là vị Hóa thân của Đại sư Gedun Truppa. Các đệ
tử đã rước cậu bé về tu viện và tôn lên làm Sư trưởng với danh hiệu là
Gedun Gyatso. Tại tu viện, cậu bé được huấn luyện rất kỹ về giáo lý, quy
luật và mọi thứ dành cho một vị sư trưởng sau này. Gedun Gyatso rất
thông minh, học một biết mười, có lần cậu bé thấy nhiều người trong tu
viện kinh ngạc về trí thông minh của mình, nên đã nói một câu như sau:
- Thế các người không biết ta chính là Đại sư Gedun Truppa hay sao?
Về sau, cậu bé đã lớn lên trong tu viện cùng với các tài năng xuất
chúng của mình. Lúc bấy giờ ông là một Sư trưởng nổi danh về tài đức,
thông suốt mọi kinh điển Phật giáo và đã đi rao giảng, giúp đỡ mọi người
từ những làng mạc xa xôi đến những nơi heo hút, khiến mọi người dân ở
Tây Tạng đều tôn sùng kính nể. Sư trưởng có nhiều ước nguyện trong vấn
đề cứu độ chúng sanh. Nhưng chưa thực hiện được bao nhiêu thì bị bệnh
bất ngờ và qua đời. Trước khi tắt hơi, vị Sư trưởng này đã trăn trối lại
là mình sẽ tái sanh lần nữa để mong hoàn tất ý nguyện. Lần này, ông để
lại một số di vật khác trước và một bài kệ mới, để các đệ tử dùng trong
việc tìm ra người mà Sư trưởng sẽ đầu thai vào.
Không đầy một năm rưỡi sau, người ta phát hiện được ở một ngôi làng rất
xa thủ đô có một cậu bé ra đời trong một gia đình nghèo. Bé này có
những cử chỉ và lời nói rất lạ lùng, luôn luôn tỏ vẻ nôn nóng và yêu cầu
được về đến tu viện chính để gặp mặt một số vị sư ở đó. Tu viện chính
liền cử ba người đến ngôi làng ấy. Khi đi, họ đem theo các di vật của Sư
trưởng cùng bài kệ. Trước lúc phái đoàn đến nhà một ngày, cháu bé này
đã báo cho gia đình biết là: "Ngày mai sẽ có khách quí đến thăm, hãy
chuẩn bị trà nước đón khách".
Quả nhiên ngày hôm sau phái đoàn tu sĩ của tu viện chính đến, cháu bé
đã nhận ra một người trong đoàn, đó là một vị sư già thường lo việc giao
tiếp giữa các ngôi chùa, các tu viện. Cháu bé đã hỏi thăm về tình hình ở
tu viện cùng những việc mà lúc sanh tiền, Sư trưởng Gedun Gyatso đã
biết qua. Các vị sư lại bày ra các di vật của Sư trưởng chen lẩn với
những thứ khác vào và yêu cầu cháu bé chọn ra hai đồ vật mà trước đây Sư
trưởng Gedun Gyatso thường dùng. Cháu bé đã lấy ra hai vật đúng là của
vị Sư trưởng và còn chỉ vào một vật thứ ba mà bảo rằng:
- Vật này ta thường dùng hàng ngày. Nhớ giữ gìn cẩn thận kẻo sứt mẻ.
Riêng bài kệ, cháu đọc thông suốt và còn bảo rằng: "Bài kệ ngày xưa vẫn còn lưu trử tại tu viện chứ?"
Cháu bé được tôn vinh sau đó làm vị Đại sư tên là Sonaw Gyatso. Đây là
vị Đại sư tài ba lỗi lạc còn hơn cả vị Sư trưởng trước. Điều này được
các vị Trưởng lão giải thích rằng: qua nhiều lần tái sanh và học hỏi,
lần tái sanh sau bao giờ cũng đặc sắc hơn vì đây là một sự tiến hóa,
trong đó có sự tiến hóa rõ ràng về kiến thức. Hơn nữa vì sự hóa thân,
các vị này luôn luôn tu bồi thêm công quả và sự học hỏi của mình. Đại sư
Sonaw Gyatso đã là người tạo sự giác ngộ lạ lùng cho danh tướng hung dữ
Đại Hãn và cũng từ đó, tướng Mông Cổ này đã phong Đại sư làm Đạt Lai
Lạt Ma và cầu mong Đại sư bảo vệ và giáo hóa cho người Mông Cổ.
Năm 1588, Đại sư Sonaw Gyatso qua đời, lần này vị Đại sư căn dặn các đệ
tử trước khi xuôi tay là mình sẽ lại tái sanh một lần nữa để cứu độ
người Mông Cổ. Vị Đại sư đã để lại một số di vật và một bài kệ ngắn để
các đệ tử đối chiếu và tìm kiếm người hóa thân.
Đến khoảng năm 1593, các đệ tử mới tìm gặp một bé trai năm tuổi có
những điều rất phù hợp với cuộc thử nghiệm. Đứa bé này được đưa về tu
viện và phong danh hiệu là Yonsten Gyatso. Tưởng nên biết rằng bé trai
này gốc gác là cháu nội của Đại Hãn Mông Cổ. Về sau, bé trai này trở
thành vị Đạt Lai Lạt Ma và chính nhờ vị này mà nhân dân Mông Cổ trải qua
được một thời đại vững bền, an cư lạc nghiệp.
Khi Yonsten Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 này qua đời, các đệ tử lại
theo truyền thống như trình bày từ trước để tìm ra người kế vị. Đó là
Hóa thân của chính Yonsten Gyatso. Đây là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 danh
hiệu là Lobsang Gyatso. Trong đời ngài, cung điện Potala được xây dựng
cùng với nhiều tu viện và đào tạo nhiều tu sĩ có nhiều khả năng từ đạo
đức đến học vấn. Tây Tạng nhờ đó ngày càng phát triển mạnh mẽ về nhiều
mặt. Các vị Đạt Lai Lạt Ma tuần tự nối tiếp theo phương thức Hóa thân đã
cố gắng chăm sóc nhân dân và gìn giữ đất nước được độc lập lâu dài
trong suốt mấy trăm năm.
Nhưng rồi tai họa lại xảy đến cho toàn dân vì Tây Tạng nằm bên áp lực
của những nước lớn như Nga và Trung Quốc, ngoài ra còn chịu áp lực của
những nước khác nữa. Lúc bấy giờ, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 của Tây Tạng
là Thupten Gyatso đã tìm đủ mọi cách để chống đỡ đất nước, nhưng càng
ngày Tây Tạng càng bị ngoại bang dòm ngó. Ngài biết trước thế nào đất
nước ngài cũng gặp thảm họa, nhưng ngài lại không thể sống thêm để cứu
nguy dân tộc và đạo pháp. Sau khi ngài qua đời, Trung Quốc tung quân xâm
lược, đàn áp người dân Tây Tạng và tìm cách triệt hạ tôn giáo.
Tục truyền rằng, khi vị Đạt Lai Lạt Ma Thupten Gyatso qua đời, nhục
thân ngài ở vị thế ngồi tĩnh tọa và được ướp xác theo phương thức cổ
truyền. Nhưng sau đó, các vị tu sĩ thấy mặt ngài đã chuyển về hướng Đông
Bắc. Vị sư già nhiều kinh nghiệm đã suy ra rằng đức Đạt Lai Lạt Ma đã
chỉ hướng, nơi mà ngài sẽ lại tái sanh. Từ đó cuộc tìm kiếm vị Hóa thân
của ngài được tiến hành. Phái đoàn lên đường nhằm hướng Đông Bắc mà đi.
Trên đường họ thu thập thêm các sự kiện có liên hệ. Một hôm, họ nghe đồn
về một cháu trai độ ba tuổi rất thông minh và thường nhắc đến các vị sư
cũng như thích kinh điển. Phái đoàn đến ngôi nhà đó. Đây là một ngôi
nhà xây bằng đất, tọa lạc bên một cây cổ thụ xum xuê. Khi phái đoàn bước
vào thì gặp cháu bé. Cháu bé rất vui mừng khi thấy các nhà sư vào nhà
mình nên chạy vội đến và ngồi lên đùi một vị Trưởng lão hòa thượng, vì
vị này có đeo một chuỗi hạt rất đẹp. Vị sư hỏi:
- Tên người là gì?
Cháu bé đáp:
- Tôi là Lhamo.
Vị sư lại chỉ một nhà sư đứng bên cạnh và hỏi:
- Đây là ai?
Cháu bé đáp:
- Đây là Lạt Ma Scra.
Phái đoàn đã biết được phần nào kết quả khi trắc nghiệm cháu bé Lhamo,
nhưng họ còn phải tìm hiểu thêm nữa trước khi quyết định tháp tùng Lhamo
về tu viện. Lần sau, họ đưa ra một số xâu chuỗi khác nhau và yêu cầu
Lhamo phân biệt thử xâu chuỗi nào là của đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13
thường dùng. Lhamo liền bước đến dùng tay gạt những xâu chuỗi không đúng
của đức Đạt Lai Lạt Ma ra và chỉ giữ lại xâu chuỗi của ngài đã dùng
trước đây. Các vị tu sĩ đều kinh ngạc vì quả thật xâu chuỗi đó chính là
xâu chuỗi của đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Các cuộc trắc nghiệm kế tiếp
đều được Lhamo làm đúng hoàn toàn. Do đó, phái đoàn quyết định đưa Lhamo
về kinh đô. Mặc dù đường sá khó khăn, lại thêm quân đội Trung Cộng gây
cản trở, nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đưa được Lhamo về cung điện
Potala. Đến lúc gần năm tuổi, bé Lhamo chính thức được tôn vinh là đức
Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14. Trong suốt 20 năm, vị Phật sống này phải được
huấn luyện kỹ càng về mọi mặt. Tuy nhỏ tuổi nhưng ngài phải qua nhiều
cuộc thử thách cam go về giờ giấc, học hành và nhất là thực hành các
pháp môn và giáo lý Phật giáo... trong khi đó tình hình chính trị không
yên, Trung Quốc tìm đủ cách để gây hấn. Vì thế năm 1959, đức Đạt Lai Lạt
Ma thứ 14 đã phải trong đêm khuya trốn khỏi điện Potala để vượt biên
giới đến lánh nạn ở Ấn Độ.
Karmapa XVII
Trên đây là những giai đoạn Hóa thân của những đức Đạt Lai Lạt Ma Tây
Tạng. Thật sự thì việc hóa thân được xem như khởi đầu từ Đại sư Gedun
Truppa trở đi.
Khi một vị Đạt Lai Lạt Ma qua đời, vị này thường có ước nguyện hóa thân
để được tái sanh trở lại. Việc đi tìm cho đúng ai là người hóa thân của
những vị này là cả một vấn đề rất khó khăn. Đôi khi phải mất ba, bốn
năm hay hơn mới tìm ra được vị Hóa thân. Vì thế, mỗi khi một vị lãnh đạo
cao cấp của Tây Tạng qua đời thì họ sẽ đầu thai trở lại.
Mới đây, các vị sư Tây Tạng trú tại Ấn đã lưu ý đến trường hợp một cậu
bé năm tuổi tên là Simon Heh, cậu này có lời nói và cử chỉ rất lạ lùng.
Khi gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel, 62 tuổi (Viện trưởng của Trung Tâm
Phật giáo Tây Tạng ở San Diego), cậu bé đã bước tới nói một câu rất tự
nhiên:
- À! Tôi biết ông, nhưng có lẽ ông không nhận ra tôi? Chính tôi là người mà ông thường kề cận.
Lúc đầu tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel cứ tưởng cậu bé tập nói theo kiểu
người lớn, nhưng khi ông này cúi xuống nhìn vào mắt cậu bé và hỏi lại
một câu rằng: "Vừa rồi Simon
đã nói gì?" Thì bé vẫn trả lời: "Tôi biết ông!" vừa nói, Simon vừa đưa
tay mân mê chiếc càm của tu sĩ Geshe tỏ vẻ thân mật vô cùng.
Vị tu sĩ này sau đó trở lại hỏi người trong gia đình này về trường hợp
của bé Simon thì được cha mẹ Simon cho biết thêm chi tiết như sau:
- Bé Simon rất khác thường nếu so sánh với các trẻ con khác. Suốt ngày
Simon chỉ ngắm trời mây, đi dạo trong nhà hay trong sân. Ít thích chơi
đùa nghịch ngợm. Thường tư lự như một người đứng tuổi. Mới đây Simon lại
có các biểu hiệu lạ lùng như tự nhiên nói những lời tiên tri. Có lần
Simon khuyến cáo trong nhà không nên nghe lời người hàng xóm để đi xa vì
sự thật nơi đó chẳng có gì. Lần khác Simon bảo người cha nên ở nhà
trong một ngày mà Simon bảo ngày ấy là ngày xấu cho ông. Quả nhiên hôm
đó, chỗ ông định tới lại bị lụt lớn gãy cầu, nếu ông đi thì sẽ bị kẹt
lại đó một thời gian.
Cậu bé Simon sanh tại Nam California Hoa Kỳ và đã tình cờ gặp tu sĩ
Geshe Lobsang Tsepel, khi vị này đến thăm Victoville thuộc vùng sa mạc
Nam Cali. Sau khi thấy ở bé Simon những biểu hiệu lạ lùng, vị tu sĩ này
trở về và hôm sau nằm mộng thấy vị thầy của mình thuở trước. Đó là Lạt
Ma Lobsang Phakpa, người đã viên tịch tại Trung Quốc vào đầu thập niên
1950. Trong giấc mơ, vị Lạt Ma này như có điều gì nhắn gởi với tu sĩ
Geshe Lobsang Tsepel. Khi vị tu sĩ giật mình thức dậy, ông tự nhiên có ý
nghĩ rằng có lẽ bé Simon là Hóa thân của Lạt Ma Lobsang Phakpa chăng?
Vì ngày xưa tu sĩ Geshe Lobsang thường sống gần gũi bên vị Lạt Ma này
và vị này mỗi khi nói điều gì cũng thường hay lấy tay sờ hay ấn vào cằm
tu sĩ Geshe Lobsang giống như bé Simon đã làm. Sau đó, vị tu sĩ này đã
viết một bức thư đầy đủ chi tiết gởi về Ấn Độ để thỉnh ý quý vị lãnh đạo
tu viện cũ có liên hệ với Lạt Ma Lobsang Phakpa.
Sau một thời gian tìm hiểu, trắc nghiệm, quý vị trong ban lãnh đạo tu
viện đã quyết định gởi bé Simon qua Ấn Độ để tìm hiểu thêm và nếu quả
thật thì bé Simon sẽ được giáo dục theo phương pháp và chương trình giáo
dục của Tây Tạng.
Chúng ta cần biết thêm là trước đó vài năm, tại Tây Ban Nha người ta
cũng phát hiện một cháu bé được nghi ngờ là một Hóa thân của một vị Lạt
Ma. Và năm 1992 người ta cũng phát hiện được một bé trai có cử chỉ và
lời nói hoàn toàn giống đức Phó Tăng Thống Tây Tạng. Sau đó đức Đạt Lai
Lạt Ma đã đồng ý gởi bé qua Ấn Độ tìm hiểu thêm, đó có phải là một Hóa
thân của vị Tăng Thống ấy không.