13/01/2012 06:53 (GMT+7)
Số lượt xem: 138810
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Không biết Tết có từ bao giờ và bắt nguồn từ đâu, nhưng đúng là Tết có một cái hồn. Dù sống ở đâu và làm gì, người Việt trên khắp thế giới ít ai không rạo rực mỗi khi Tết về. Tết cũng là ngày hội lớn của cả nước đã có từ ngàn xưa cho nên cái hồn của Tết cũng là một phần cái hồn của đất nước. Trong Tết có mùi vị đất và nước của quê hương.


Có một truyền thuyết nói rằng, xưa kia, vào ngày Tết, vua Hùng và quần thần đưa nhau lên núi (Thiên Cầm) để nghe “cung đàn nhà trời”. Thật là một hình ảnh đẹp.

Một người ngoại quốc viết về Tết:       

“… Tôi không hiểu được Việt Nam và văn hóa Việt Nam cho đến khi tôi hiểu được Tết. Đó không phải là một việc đơn giản và dễ dàng. Khí hậu có thể lạnh và tôi có thể phải ăn nhiều, tôi có thể sợ tiếng pháo nổ. Nhưng bên sau tất cả những thứ đó là một niềm vui, ý thức về sự thay đổi và niềm hy vọng vào tương lai. Tiếng động đánh thức đêm tối dày đặc. Phổi tôi có thể khó thở vì khói, đầu tôi có thể đau vì tiếng pháo nổ, nhưng cơ thể tôi cảm thấy sinh động và khoan khoái một cách lạ lùng, và quan trọng nhất, một tâm thức cảm nhận được sức mạnh của những điều xảy ra quanh tôi. Việt Nam đã thay đổi. Ít nhất trong những phút giây ngắn ngủi, nó bình bồng giữa thực và mộng, giữa trời và đất. Là một người ngoại cuộc, có thể tôi không bao giờ hiểu trọn vẹn ý nghĩa của Tết, nhưng tôi biết rằng tôi đang tận mắt nhìn thấy một cái gì đẹp đẽ và quý giá. (Dana Sachs)

Nếu hỏi cái hồn của Tết nằm ở chỗ nào thì khó ai có thể chỉ ra, nhưng nó thấm đẫm trong lòng người, hiện ra qua phong cách sống gắn liền với Tổ tiên non nước, với đình đài chùa miếu, qua những phong tục, lễ nghi kết nối quá khứ với hiện tại, hữu hình với hữu hình, hữu hình với vô hình…

Một khía cạnh đặc biệt đẹp đễ của ngày Tết là việc biểu hiện lòng nhớ ơn. Cái nhớ ơn của người Việt bao gồm nhớ ơn Tổ quốc, đồng bào, nhớ ơn tiền nhân, cha mẹ, nhớ ơn những người đã đem đến cho cộng đồng niềm tin và sức mạnh, làm cho cuộc sống thăng hoa và có ý nghĩa. Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh. Ơn Tam bảo là ơn những cội nguồn đã đem đến cho con người một đời sống tinh thần phong phú, vượt qua sự hạn hẹp của đời sống ích kỷ, hơn thua. Người Việt chúng ta luôn luôn nhớ ơn những bậc được gọi là người hiền. Những vị thánh thiện, những vị có đời sống thăng hoa được thờ phụng khắp nơi trên đất nước. Đôi khi, những vị có công với đất nước được đồng hóa với những vị Thánh, như Thánh Gióng đuợc đồng hóa với Tỳ Sa Môn Thiên Vương là một vị Thánh giúp đời, hộ Đạo, cũng là một vị Cổ Phật trong truyền thống Phật giáo, để trở thành Phù Đổng Thiên Vương.

Tết cũng biểu hiện tính chất Lễ và Hòa trong đời sống Việt. Tình cảm tương quan giữa con người với nhau và với thế giới hữu hình cũng như vô hình của người Việt là một thứ tình cảm đậm đà và lãng mạn mà không ra ngoài Lễ và Hòa. Tết là ngày vui, ngày tỏ bày tình cảm trong Lễ và Hòa.

Không gian và thời gian Tết cũng như những tính chất của Tết được tô bồi qua nhiều ngàn năm, làm cho Tết trở nên một cơ hội cho người Việt chúng ta dừng lại để sống thật sự với đời sống. Cũng có thể nói Tết là một cơ hội để chúng ta “sống chậm”. Sống chậm là một lối sống biết soi rọi chính mình. Khi biết soi rọi chính mình, con người sẽ sống tự giác và có trách nhiệm hơn. “Sống chậm” có thể nói là một nhu cầu của thời đại, khi mà khuynh hướng vật chất và trục lợi khống chế hầu như mọi sinh hoạt của con người. Những kiêng cữ trong ngày mồng một Tết có thể được coi như một loại “kiêng cữ để sống chậm”: ý tứ trong từng ý nghĩ, hành động và lời nói để không giận hờn hay tạo sự giận hờn, không nói năng và hành động thô lậu, ồn ào, giữ tâm hồn thoải mái, vui tươi… Nói tóm lại là cố gắng giữ thân, miệng, ý không tham, sân, si hay tạo ra tham, sân, si trong ngày Tết.

Tết cũng là ngày của hoa. Hai loại hoa đặc trưng của Tết là đào và mai. Hoa là hình ảnh của cái đẹp vô thường, ngắm hoa là ngắm sự mong manh vô thường của đời sống. Và chính sự vô thường làm cho đời sống có ý nghĩa và con người có cơ hội thăng hoa.

Trong đời sống bận rộn hàng ngày, chúng ta thường không để ý nhận ra cái nền tảng hướng dẫn đời sống của chúng ta. Nó vô hình nhưng mạnh mẽ. Có thể nói đó là cái chất sống, cái nguồn sống trong mỗi chúng ta. Và Tết, cơ hội để chúng ta có những khoảnh khắc dừng lại, là dịp để chúng ta phát hiện ra “tố chất của đời sống” vốn có đó. Khi yên lặng lắng nghe hơi thở, yên lặng lắng nghe bước chân đang bước, lắng nghe thời gian đang trôi, không gian đang mở…, chúng ta nghe được sự sống, nghe được nguồn sống đang hiện diện bên trong cũng như bên ngoài chúng ta. Khi mở lòng để tiếp đãi đời sống, tiếp đãi đất trời, tiếp đãi mọi người mọi vật, chúng ta có cơ hội nghe được đời sống, nghe được nguồn sống nơi chúng ta và chung quanh chúng ta.

Ngày xưa các cụ thường khai bút đầu năm. Trong cái yên tĩnh, lắng đọng của không gian và thời gian, con người mở ngỏ mọi ngăn cách để lắng nghe. Khai bút đầu năm có thể được coi là cơ hội để dừng lại và lắng nghe với một tâm hồn mở toang trong không gian và thời gian rộng lớn của giờ phút giao thừa.

Do đó, Tết cũng có thể là cơ hội để chúng ta phát hiện ra hay tìm thấy lại chính chúng ta. Và sự phát hiện ra chính mình là bước ngoặt lớn trong đời sống của mỗi người. Đó là lúc con người nhận ra được mình thật sự là gì trong cái toàn thể để có thể sống có ý nghĩa hơn.

Mùa Xuân đất trời cho tôi sự liên tưởng đến một mùa Xuân đạo. Mùa Xuân đạo có được khi con người biết trân trọng đối với đời sống, trân trọng đối với những cơ hội để thăng hoa mà cuộc sống lúc nào cũng sẵn sàng ban cho chúng ta. Những cơ hội đó có được từ tính chất vô thường của đời sống.

Nhận biết được vô thường là nhận biết được tánh Phật, nhận biết được “không thân”, để từ đó có được thân cùng khắp và tâm cùng khắp, hay nói theo ngôn ngữ của kinh điển là có được “hiện nhứt thiết sắc thân tam muội” và “giải nhứt thiết chúng sanh ngôn ngữ đà la ni”, để có thể đồng hành với tất cả chúng sanh trong không gian và thời gian vô tận, một lý tưởng thật đẹp của đạo Phật Đại thừa.

Tôi nhớ đến một phẩm trong kinh Pháp Hoa. Một điều chúng ta để ý là trong kinh Pháp Hoa và những kinh Đại thừa khác, không gian và thời gian thường rất rộng lớn. Không gian và thời gian là hai thứ tương quan mật thiết với nhau. Một tâm thức nhỏ hẹp luôn luôn tương ứng với một loại thời gian ngắn ngủi nhưng dường như nặng nề kéo lê. Một tâm thức rộng lớn luôn đi đôi với một thời gian rộng lớn nhưng như thoáng qua nhẹ nhàng.

Phẩm Dược Vương Bồ tát Bổn Sư thứ 23 nói rằng, có một vị Bồ tát tên là Tú Vương Hoa hỏi Phật về hành trạng của Bồ tát Dược Vương hay Bồ tát Vua Thuốc. Đức Phật trả lời vị Bồ tát đó như sau:

Vào thời rất lâu về quá khứ, trong Pháp hội Pháp Hoa của Đức Phật hiệu Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức, Đức Phật có đức hạnh sáng rỡ và trong lành như mặt trời mặt trăng, có một vị Bồ tát tên là Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến, vị Bồ tát mà tất cả chúng sanh nhìn thấy đều sinh tâm vui vẻ. Vị Bồ tát đó, sau một thời gian dài tu tập kinh Pháp Hoa thì chứng được “hiện nhứt thiết sắc thân tam muội” hay khả năng “hóa hiện ra mọi hình tướng”.

Để báo đáp ân đức của Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức, Bồ tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cúng dường vô số những món trang nghiêm và thanh tịnh, sau đó tự đốt thân để cúng dường. Hành động đốt thân cúng dường được các Đức Phật trong mười phương đồng khen ngợi là việc cúng dường Pháp cao tột. Và khi nói xong lời khen ngợi đó, các Đức Phật “đều yên lặng”. (theo bản dịch của HT.Thích Trí Tịnh).

Sau khi đốt thân, Bồ tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến lại tái sanh cũng trong thế giới của Đức Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức và gặp lại Phật này, được Phật giao phó mọi thứ trước khi Ngài nhập Niết-bàn.

Một lần nữa, vị Bồ tát mà tất cả chúng sanh nhìn thấy đều sinh tâm vui vẻ, lại dùng thân để cúng dường xá lợi Phật bằng cách đốt hai cánh tay “trăm phước trang nghiêm”. Hành động đó cũng làm cho vô số người chứng được “Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội”.

Cuối cùng Đức Bổn Sư nói: Vị Bồ tát mà tất cả chúng sanh nhìn thấy sinh tâm vui vẻ đó chính là Bồ tát Dược Vương. Đức Phật cũng nói rằng, những ai nghe phẩm kinh này sẽ được tam muội “Giải nhứt thiết chúng sanh ngôn ngữ đà la ni” hay khả năng hiểu được ngôn ngữ của tất cả chúng sanh…

Phẩm kinh nói lên rằng, tánh Phật và cơ hội thăng hoa ở ngay trong tính chất vô thường của đời sống. Nhận ra tính chất vô thường, vô ngã của đời sống, con người nhận ra tính chất “không thân” của mọi sự và của chính mình. Tính chất “không thân” cũng là ánh sáng soi rọi của Pháp, là chỗ mà chư Phật “lặng yên”, là tánh Phật, là nền tảng của buông xả và tùy thuận, của kết nối và cảm thông, là thuốc chữa lành bệnh cho mình và cho người.

Trở lại với Tết. Với khả năng mở ngỏ mọi ngăn cách để tiếp xúc với nguồn sống chân thật, phải chăng trong dịp Tết, chúng ta có thể là một vị Bồ tát mà tất cả mọi người nhìn thấy đều cảm nhận được niềm vui, trở thành những vị Bồ tát chữa lành bịnh cho nhau?

Trong khung cảnh kết nối và cởi mở, chấp nhận và tương kính, con người chắc chắn sẽ đem đến cho nhau niềm vui. Một nụ cười, một lời chào hỏi, một câu xin lỗi, một chia sẻ thông cảm, một sự bỏ qua… chính là những thang thuốc chữa lành vô số chứng bịnh nan y của mình, của người.

Phải chăng sự mở lòng, xả bỏ, hòa nhập, kết nối…, nhìn thấy mối tương quan, tương thuộc giữa cá thể với toàn thể dễ nhận ra trong ngày Tết làm cho con người đến gần hơn với tính chất “không thân” của đạo Phật, hiểu rõ hơn về “ánh sáng đốt thân” của chư vị Bồ tát?

Và phải chăng mọi ánh sáng đều phát xuất từ nền tảng “không thân”?

Thời gian là một chuỗi những biến đổi qua nhiều thử thách để thoát thân thành những mùa Xuân. Chúng ta hãy như thời gian, theo gương Bồ tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến, không ngừng thay đổi theo hướng thăng hoa mà thời gian luôn cho chúng ta cơ hội, để mỗi dịp Tết về, cảm thấy gần gũi hơn với mùa Xuân chân thật, ở đó, mọi người là những vị Bồ tát của nhau.

Thị Giới


Âm lịch

Ảnh đẹp