Đông và Xuân
đã gặp nhau…Trái tim chàng từ đây đã trỗi nhịp yêu thương, thổn thức, mong chờ,
và hồi hộp…tâm hồn của chàng đã là nửa hồn của nàng Xuân ngày ấy. Và giờ đây…“thời
gian thiệt phũ phàng…!” chàng lẩm bẩm như kẻ vừa thức giấc sau một cơn mộng đẹp.
Chàng ôm đầu tựa vào gốc hoa đào và nở một nụ cười nhạt nhẽo man dại, nhìn chân
trời xanh xa xa, ký ức của chàng lui dần về quá khứ…
Đông nhớ rằng ngày ấy họ
còn trẻ lắm, chàng và nàng chỉ mới hai mươi tư, tuổi của niềm đam mê và tràn đầy
hứa hẹn…Chiều mồng hai tết Đông đi du xuân và gặp Xuân tại vườn đào kế bên nhà
nàng…Ánh nắng chiều biên biếc đã tô đẹp thêm nhan sắc của tuổi mộng mơ…họ nhìn
nhau, lưu luyến nhau, và rồi ngàn lời thề non hẹn biển để xây đắp tổ uyên ương
khi chàng đã hoàn tất công danh sự nghiệp của mình.
Nhưng nghịch cảnh đã đẩy
đưa, họ tạm gác lại lời thề ấy. Đông và Xuân mỗi người một ngả, chàng ra đi còn
nàng phải ở lại quê nhà.
Đông nhớ mồn một hôm
nao Xuân tiễn chàng lên máy bay, họ quàng vai nhau khóc sướt mướt, chàng biết rằng
Xuân yêu chàng lắm, nàng rất muốn khăn gói theo chàng nhưng ngặt một nỗi cha
nàng mất sớm, mẹ thì tật bệnh, nàng còn phải gánh buôn để nuôi mẹ và hai đứa em
nhỏ dại nên không thể theo chàng; còn chàng chỉ có hai cha con và phải vâng mệnh
cha để lên chuyến bay cuối cùng đến Mỹ vào tháng tư năm một chín bảy lăm...
Ba năm đầu định cư tại
Mỹ chàng sống như cái xác không hồn, đêm mộng ngày mơ về quá khứ. Cha chàng bảo:
“Con Xuân đã hớp hồn mày rồi!” Đúng vậy, Đông làm gì cũng thất bại không đâu ra
đâu, bởi hồn chàng chỉ còn một nửa, và một nửa là ở bên kia đại dương xa tít mù
khơi.
Đông rất mừng khi đi ra
đường gặp người Việt Nam; lúc chàng đang lái xe mà gặp một người châu Á đi bộ
bên lề đường là chàng quay xe lại, tấp vào lề và hỏi: “Are you Vietnamese?” Nếu
là người Việt Nam chàng hỏi thăm đủ thứ chuyện, đặc biệt là chàng muốn biết khi
nào Việt Nam mở cửa cho Việt kiều về thăm quê cũ.
Mùa xuân năm thứ nhất…
thứ hai… thứ ba…trôi đi, rồi đến xuân thứ tư…xuân thứ năm… từng đàn én lượn xôn
xao khi chiều đến, nhưng trong lòng chàng vẫn trĩu nặng một nỗi buồn u uẩn khi
bên kia bờ vẫn bặt vô âm tín, chàng không còn hy vọng trở về Việt Nam, chàng
không còn hy vọng xây đắp lời thề; chàng nghĩ rằng cha mình cho rằng mình
‘hoang tưởng’ là đúng… Thế rồi Đông tự vực dậy cuộc đời mình, lo làm ăn và lập
gia thất để không làm buồn khổ cha của chàng nữa.Tuy nhiên trong tâm chàng luôn
ao ước cho Xuân vạn sự an lành và hạnh phúc, và lời thề kia chàng xin hẹn lại
kiếp lai sinh tới.
Chuyện quá khứ tưởng chừng
nguôi ngoai như thuyền đã ra khơi, thời gian đã sang trang mới; nhưng đầu mùa
xuân năm thứ hai mươi mốt Đông nhận được lá thư của Xuân từ một người bạn học
cũ của Đông vừa sang nhập cư. Đọc thư Xuân, biết nàng vẫn còn mạnh khỏe, nàng
không có gì thay đổi, vẫn còn chiết bóng lẻ loi, biết nửa hồn của Xuân vẫn còn
thuộc về chàng…Đông đau đớn lắm…
Như vết thương đã lành theo
thời gian nay lại tái phát, chàng đã tiếp tục tơ tưởng về quá khứ…về một chiều
xuân bên cội hồng đào, về những tháng ngày mặn nồng hò hẹn, về những tình thư
đang còn dang dở, về những ngôn từ chan chứa ngàn lời yêu thương…chàng bị ám ảnh
với vẻ mặt ngọc mày ngà, với “dáng buồn
như cúc, điệu gầy như mai” của Xuân…ký ức chàng trỗi dậy, chàng phải tìm đến hộp
đêm và men rượu để giải sầu, và chàng không còn tha thiết đến vợ con nữa…Cuối
cùng chàng đã từ bỏ tất cả và sống với chiếc bóng quá khứ “ma quái” của mình.
Và trong căn hộ đơn chiếc
Đông đã gặp lại ngày xuân quá khứ của chàng. Hằng năm cứ mỗi mùa xuân là chàng
nhận được chiếc áo ấm chính tự tay Xuân đan cho chàng. Chiếc áo không đẹp như
những chiếc áo ấm tân thời, nhưng chàng vẫn thích chờ đợi mỗi mùa xuân đến để
có thêm chiếc áo mới. Chàng hồi hộp khi nhận món quà đúng vào ngày cuối đông,
sinh nhật của chàng. Chàng nhẹ nhàng cẩn thận mở nó, không dám nặng tay để hư bao bì bên ngoài, chàng quí trọng từng kỷ vật
“thiêng liêng” của tình yêu mà Xuân gởi tặng cho chàng….Chàng đưa tay nhẹ nhàng
vuốt ve chiếc áo nơi có thêu hai tên Đông Xuân với màu tím nhạt lấp ló sau hai
trái tim đỏ gắn liền nhau, chàng ôm chiếc áo vào lòng rồi ngửi mùi áo mới,
chàng thoảng nghe rằng hương xuân vẫn mãi còn đâu đây như chưa từng biến động.
Mỗi năm chàng mặt một chiếc áo mới, mỗi năm là một sắc màu tươi trẻ. Những chiếc
áo len cũ chàng cho vào tủ kiếng khóa chặt cẩn thận như sợ rằng ai đó vô tình đụng
vào báu vật của chàng.
Mùa xuân năm nay Đông
có thêm chiếc áo len thứ mười lăm, chàng không muốn như trẻ thơ cứ mãi hồi hộp chờ
đợi những món quà của người thương khi mùa xuân đến nữa. Chàng đã về hưu, chàng
muốn tận hưởng những giây phút hạnh phúc thực sự của tuổi xế chiều, chàng muốn
hai mảnh hồn đơn ghép lại thành ánh trăng vàng giữa bầu trời tâm mông lung
này…Chàng không thể chịu đựng được nỗi cô đơn cứ dai dẳng đeo bám chàng, chàng
phải sống với sự thực, chàng phải đem Xuân trở về với chàng để đêm sớm có nhau
cho đời thôi quạnh quẽ.
Đông say sưa nhìn vào tấm
hình mà Xuân mới gởi cho chàng, chàng ngớ ngẩn và đê mê trước nhan sắc vượt thời
gian của Xuân, nàng như một cô tiên “chim sa cá lặn”, mắt biếc mày xanh và đôi
môi chín mọng kia vẫn còn quyến rũ bao kẻ si tình như chàng. Chàng không muốn
mình là kẻ nhút nhát yếu đuối nữa, chàng phải tự quyết định tình yêu của mình,
chàng phải có tinh thần “nam nhi chi chí”…
Chàng bấm số điện thoại
gọi cho Xuân và đi thẳng vào vấn đề…và chàng chờ đợi tin vui từ câu trả lời của
Xuân…Lặng thinh một giây lâu rồi bỗng chốc Xuân sặc cười và nói: “Đông ơi là
Đông, anh đang đùa hay đang điên thế…? Chàng rưng rức van nài một lần nữa, Xuân
trả lời một cách dứt khoát: “Tốt nhất là chúng ta đừng bao giờ gặp nhau nữa nhé!”
và nàng luống cuống tắt máy.
Như một gáo nước lạnh tạt
vào mặt, chàng giận và hận nàng lắm. Suốt đêm chàng không sao ngủ được, chàng
nghĩ đúng là hoa hồng càng đẹp gai càng nhọn! Chàng không hiểu vì sao nàng lại
sợ hãi sự thực, sợ hãi tình yêu và hôn nhân trong khi Xuân cũng đã yêu chàng và
họ đã có lời thề sắc son từ thuở ban đầu lưu luyến ấy kia mà. Chàng là Việt kiều,
chàng có thể về Việt Nam hay bất cứ nơi đâu để cưới cô gái xin đẹp tuổi mười
tám đôi mươi nếu chàng muốn. Đông nghi ngờ nàng…Phải chăng nàng đã dối lừa
chàng (?) Phải chăng nửa hồn của Xuân đã cập vào một bến lạ…(?) và chàng muốn đi
tìm sự thực, chàng muốn biết sự thực. Chàng muốn gây sự bất ngờ đối với Xuân….
…Mệt mõi qua hai chuyến
bay về Việt Nam, chàng vẫn không ngủ được, có lẽ không quen khí hậu và thời giờ
khác biệt giữa Việt Nam và Hoa kỳ vì chàng từ giã nó đã ba mươi sáu năm, và điều
quan trọng nhất là những thao thức mà chàng dự tính cho ngày mai. Đông bước ra
khỏi giường rất sớm, tắm rửa sạch sẽ, gọi người lao công khách sạn mua cho
chàng một tô phở điểm tâm, xong chàng mở máy laptop để xem tin tức Hoa Kỳ qua
những trang web hải ngoại như thường lệ….đến chín giờ chàng có cuộc hẹn với những
người bạn cũ và đi ăn trưa tại một nhà hàng hải sản cùng họ, xong chàng trở về
lại khách sạn.
Đông đến trước tủ kiếng
lớn để nhìn ngắm dung nhan của mình: “mắt to, mũi thẳng, da trắng nổi bật bên
màu tóc đen lóng lánh vừa mới nhuộm và chải keo mềm, dù có không ít vết nhăn
trên khuôn mặt và những dấu chân chim tơi bời ở đuôi mắt…không sao, ta vẫn còn
bảnh bao lắm, đàn ông ở độ tuổi này có được khuôn mặt thanh lãm và vóc dáng như
ta cũng hiếm…” chàng tự nhủ. Chàng đeo kiếng nâu Ray-Ban, diện bộ com-lê France
xanh với chiếc cà vạt đỏ thẩm, mang đôi giày đen bóng láng hiệu Canali Italy và
không quên xức nước hoa Sexy Men. Chàng bước ra khỏi khách sạn và gọi taxi đưa
chàng về hướng Bình Chánh vùng ngoại ô Sài Gòn, nơi có vườn đào thơ mộng nằm cạnh
căn nhà bé nhỏ của Xuân.
“Hôm nay là ngày mồng
hai tết, ba mươi sáu năm trước cũng vào một chiều xuân ngày này ta và em gặp
nhau ở vườn đào thơ mộng, không biết cội đào già kia có còn ra hoa không? Không
biết chim trên cành có còn reo vui khi mình gặp gỡ…?” hàng trăm câu hỏi cứ lẩn
thẩn trong đầu chàng với ngày trở về “bí ẩn” này. Qua cửa kiếng xe, chàng ngước
nhìn bầu trời xanh bình lặng, những cụm mây trắng nổi trôi tạo thành dáng vẻ
thướt tha của kiều nữ ở độ tuổi xuân thì và chàng mường tượng đó là Xuân-Xuân
chưa từng phai, Xuân đẹp mãi nghìn đời.
Ô kìa đây rồi! Đông bước
xuống xe, chàng lặng người một giây lâu để ngắm vườn đào không gì thay đổi. Chàng
không biết nó là vườn đào của ba mươi sáu năm hay người ta mới trồng lại trong
những năm gần đây. Chàng tới gốc gây đào xưa và thẩn thờ ngắm những cánh hoa
đào phơi sắc trong nắng và gió, những nụ hoa hồng thắm vừa mới nở e ấp duyên
dáng như mời gọi chàng; khẽ lung linh trong gió mới, những cánh hoa đu đưa khiến
cho bóng nắng cứ vờn qua vờn lại như những bức tranh di động muôn màu. Chàng nâng
một nụ hoa rồi hôn lên nó, hít vào thật sâu để tận hưởng trọn vẹn hương hoa của
ngày xuân chớm nở; chàng nhắm mắt lặng nghe tiếng chim hót, tiếng gió thì thào
bên những cành đào xuân thì, chàng mơ màng dư âm ngày cũ đâu đây hiện về trong
phút giây thực tại…Chàng run rẩy với hạnh phúc đơn sơ mà chàng đã bị tuột mất
qua những tháng năm dài ray rức.
Chậm rãi, Đông bước tới
cuối vườn đào và đi về hướng trái, căn nhà của Xuân hiện ra với tường sơn xanh
mới tinh thay vì đó là ngôi nhà gỗ cũ kỹ; chàng móc địa chỉ trong túi áo ra và
dò lại số 5/35, ‘đúng rồi’. Chàng gõ cửa…tim chàng đánh thình thịch và chàng phải
ôm chặt bó hoa hồng vì sợ nó bung ra khỏi tay chàng; tiếng chốt sắc vừa kéo lên,
cánh cửa mở tung, một phụ nữ già run rẩy chống gậy, chân tay khô đét, đầu tóc
lưa thưa trắng phau, mặt xệ da nhăn, đôi mắt lem nhem, răng rụng gần hết, móm méo
hỏi chàng sau một cơn ho sặc sụa:
- Ông muốn tìm ai?
Đông lễ phép nói:
-Dạ thưa, cháu muốn gặp
Xuân cụ ạ.
-Tui chính là Xuân đây,
ông cần gì?
Bà ta vừa trả lời vừa
ráng nhướng to đôi mắt để nhìn chàng.
Chàng chợt nhận ra giọng
nói quen thuộc, khựng một lúc… rồi chàng lấp bấp:
-x…in…l…ỗi!
Bó hoa hồng vụt rơi xuống
đất, chàng lảo đảo bước nhanh về phía vườn đào như bị ma rượt…
Đến gốc cây đào cũ,
Đông quỵ xuống và cảm thấy toàn thân rã rịu, một lúc sau chàng như sực tỉnh một
điều gì đó rồi cười như điên dại với chính chàng. Chàng há hốc mồm nhìn lên cành
xuân, những cánh đào tơ vẫn đang phơi phới khẽ gọi nửa hồn xuân, chàng lẩm bẩm:
“Đào hoa y cựu tiếu đông phong!”
Một tiếng chuông chùa vừa
đổ ở bên kia đồi. Đông đứng dậy hướng về phía ngôi cổ tự heo hút cuối trời tây,
chàng lững thững bước trên cái bóng xiêu vẹo của chính mình khi chiều đã ngã
vàng nắng nhạt.
TN.Tịnh
Quang