Phần I - Bài đọc thêm
Bức thông điệp từ con người của Ðức Phật
Thích Trí Chơn
A- Dẫn nhập
Cuộc
đời hoằng pháp của Ðức Thích Ca được nhân loại chiêm ngưỡng, khảo
nghiệm dưới nhiều góc độ: giải thoát học, tôn giáo học, khoa học, triết
học, sử học... Song, tất cả đều có chung một mẫu số rằng: "Suốt 25 thế
kỷ qua, Ðức Phật, người sáng lập ra đạo Phật, luôn được coi là một trong
những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại" (Almanach - những nền văn minh thế giới, Nxb Văn hóa-Thông tin, 1996, tr.1410).
Bằng tuệ giác siêu
việt đạt được trong đêm thành đạo, Ðức Phật trải gót khắp xứ Ấn Ðộ, đem
hạt giác ngộ gieo khắp "đất tâm", muốn tất cả chúng sanh đều được giác
ngộ như chính Ngài. Và chẳng bao lâu, hoa trái giác ngộ rộ nở khắp nơi,
tạo thành vườn đạo lý hiện hữu sinh động giữa cuộc đời và liên tục phát
triển trên khắp năm châu cho đến ngày nay.
B- Nội dung
I- Khái quát về Ðức Phật
Sống giam mình
trong ngục thất vàng ngọc và bị ràng buộc bởi tình ái thê nhi, Thái tử
Siddhattha (Sĩ Ðạt Ta) vẫn không có được chút thảnh thơi, an lạc. Cuộc
sống luôn bị rình rập bởi già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu não; chàng
quyết định từ bỏ vinh hoa phú quý, làm vị Sa môn vô gia cư để tìm đường
giải thoát, cứu mình và nhân sinh.
Gần một năm theo
học với hai đạo sĩ Alara Kalama (A-la-ra ka-la-ma), lãnh đạo phái
Samkhya (Số Luận) ở thành Vesali (Tỳ Xá Lỵ) và với Uddaka Ramaputta (Uất
Ðâu Lam Phất), lãnh tụ phái Yoga (Du Già) tại kinh đô Rajagaha (Vương
Xá), Sa môn Gotama đã quán triệt tất cả những gì hai đạo sĩ đạt được,
nhưng Ngài không thỏa mãn; vì cho rằng chúng chưa phải là quả vị giác
ngộ tối thượng. Ngài quyết định từ bỏ hai đạo sĩ, sau đó cùng với năm đệ
tử của Uddaka là Kondanna (Kiều Trần Như), Bhaddya (Bạt Ðề), Vappa (Ðề
Bà), Mahanama (Ma Ha Nam)và Assaji (Ác Bệ) xuôi về Nam, đến Uruvela (Ưu
Lâu Tần Loa) lập cứ tu hành. Cuộc tìm kiếm chân lý trên đường khổ hạnh
kéo dài sáu năm, kết quả cũng chẳng có gì ngoài những cảm giác đớn đau,
kiệt sức, ngất xỉu... Ngài một lần nữa, chối bỏ pháp tu (khổ hạnh) vô
nghĩa và "tự mình thắp đuốc lên mà đi".
Sau 49 ngày đêm tư
duy thiền quán dưới cội cây Assatha, vào một đêm, khi sao Mai vừa ló
dạng, tuệ giác siêu việt bừng sáng nội tâm. Sa môn Gotama chứng Vô
thượng Chánh đẳng giác (Anuttara samana samboddhi), được trời người cung
kính với 10 tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Phật Thế Tôn.
Nhận lời thỉnh cầu
của Phạm Thiên Sahampati (Tự Tại Thiên), Thế Tôn rời cội boddhi (bồ đề),
bắt đầu cuộc hành trình dài 45 năm, truyền bá đạo giác ngộ.
Hình ảnh một Thái
tử sống trong nhung lụa với vợ đẹp, con xinh, nhận thức được sự thật
cuộc đời, vượt thành xuất gia làm Sa môn khổ hạnh, cuối cùng tự tu, tự
chứng ngộ, nắm được quy luật vận hành của vũ trụ - nhân sinh, đã trở
thành thiên sử kỳ diệu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử tôn giáo của
nhân loại. Thiên sử ấy là bản hùng ca, là khúc khải hoàn trác tuyệt vang
vọng trong sự sống suốt gần 3 thiên kỷ nay với những cung bậc đầy âm
điệu, vừa nhân thế, vừa siêu thế qua các điểm dưới đây.
II- Ý nghĩa thành đạo
1- Thế Tôn -
bậc Thánh khai sáng đạo Phật - là một người như bao nhiêu con người, tự
giác ngộ chân lý, rồi đem sự giác ngộ ấy dạy lại cho con người. Ngài
không phải là Thượng đế, thiên sứ hay thần linh ở một thế giới xa xăm
nào xuất hiện giữa cuộc đời. Ðức Phật dạy, nếu ai hiểu một cách chân
chính về Ngài thì hãy hiểu rằng, Ngài là vị hữu tình không có si ám,
sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người (Trung Bộ I,
kinh số 4, tr.53). Chân lý được Thế Tôn chứng ngộ, do đó, cũng ở ngay
trong thế giới (hơn 5 tỷ người) này. Chân lý đó là những quy luật vận
hành của vũ trụ-nhân sinh (định lý Duyên khởi - Paticcasamuppada). Nó
tồn tại khách quan trong sự sống; Ðức Phật dù xuất hiện hay không xuất
hiện ở đời, nó vẫn luôn vận hành như vậy (Tương Ưng Bộ kinh II,
chương I, phẩm 2, tr.51). Ðịnh lý này thật là sâu kín, khó thấy, khó
chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu; chỉ có người trí
mới hiểu thấu (kinh Pháp Hoa, phẩm Phương tiện số 2; kinh Trường Bộ I, số 13, tr.486).
2- Với ý
nghĩa đó, Ðức Phật là người "thấy" được chân lý mà không phải tạo dựng
ra chân lý. Ngài cực lực phản đối những luận điệu cho rằng Ngài là người
sáng tạo ra một học thuyết. Tỳ kheo Sunakkhatta là người mắc phải sai
lầm nghiêm trọng này khi phát biểu giáo lý của Ðức Phật được hình thành
là do quá trình suy tư, phán đoán, suy luận, mường tượng rồi sau đó kiểm
nghiệm, phổ biến và thuyết giảng. Và tất nhiên, Ðức Phật đã cải chính
sự hiểu biết sai lệch này (Trung Bộ I, kinh số 22, tr.161).
3- Sống
trong sự hưởng thụ dục lạc (khi còn ở hoàng cung) không có hạnh phúc
chân thật, nhưng ép xác khổ hạnh (lúc tu với năm anh em Kondanna) cũng
chẳng được an vui. Từ bỏ hai cực đoan này, thực hành Bát thánh đạo (xem Phật học hàm thụ, bài 3), Thế Tôn tìm được an lạc trên con đường này. Và đây cũng là Trung đạo đưa đến sự chứng ngộ tối thượng (Trung Bộ I, kinh số 9, tr.111; Tương Ưng IV, chương I, tr.518).
4- Từ bỏ hai đạo sĩ thời danh và năm người bạn đồng tu để "tự mình thắp đuốc lên mà đi", là bài pháp Thân giáo
sinh động, thể hiện sự tự tu, tự chứng ngộ của bậc Ðạo Sư, cho chúng ta
đang tiến bước trên lộ trình giải thoát giác ngộ. Ngài luôn dạy đừng
giao phó thân mạng, tư tưởng, lý tưởng, mục đích sống cho bất cứ ai, chủ
thuyết nào, ý hệ nào dù chúng đã trở thành truyền thống, tập tục; vì
chỉ có mình là chủ nhân tác nghiệp, tạo nên khổ đau hay hạnh phúc. Từ
kinh nghiệm tu chứng bản thân, Ðức Phật dạy các đệ tử hãy tự mình là
ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa nơi chính mình, chớ nương
tựa một gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ
nương tựa, chớ có nương tựa một gì khác (Trường Bộ I, kinh số 15, tr.584; kinh Tương Ưng III, chương I, phẩm 5, tr.83).
5- Mặt khác,
"tự mình thắp đuốc lên mà đi" cũng có nghĩa là tự mình khơi dậy ngọn
đèn trí tuệ, khơi dậy hạt giống Phật nằm tiềm ẩn bên trong mỗi con
người. Vì rằng, "tất cả chúng sinh đều có Phật tính" (Nhứt thiết chúng
sinh giai hữu Phật tính - kinh Pháp Hoa), tức là ai cũng có khả năng
thành Phật. Tiến trình đạt đến quả vị Phật là tiến trình chiến đấu với
tự thân, chiến đấu với vô minh (àvijjà) và ái dục (tanhà). Ðức Phật
tuyên bố: "Biển có thể cạn, núi có thể sụp đổ, quả đất có thể băng hoại,
nhưng khổ đau không bao giờ chấm dứt đối với người còn vô minh và ái
dục (Tương Ưng III, chương I, phẩm 5, tr.267). Ngài đã đoạn trừ
được vô minh và ái dục, nên Ngài là bậc tối tôn ở đời; Ngài thân dù ở
trong muôn loài, tâm đã cao thượng trên tất cả muôn loài.
6- Một yếu
tố tối trọng ảnh hưởng đến việc thành đạo của Thế Tôn: Chánh tinh tấn.
Bốn mươi chín ngày đêm ròng rã tĩnh tọa dưới cội boddhi là biểu hiện của
sự kiên trì, tinh tấn. Nhờ tinh tấn mà Thế Tôn chứng được đạo quả. Cảnh
giới Niết bàn không có bóng dáng của kẻ biếng lười, cánh cửa giải thoát
cũng không hé mở cho người không có sức mạnh tinh tấn.
7- Từ góc độ
lịch sử, sự kiện thành đạo của Thế Tôn là điểm son trong lịch sử tôn
giáo của nhân loại, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của nhân bản, bình đẳng, vô ngã và từ bi (xem Phật học hàm thụ,
bài 1). Bậc thầy vĩ đại của nhân loại xuất hiện từ đây, đạo Phật - đạo
giải thoát vì hạnh phúc cho muôn loài - cũng bắt đầu từ đây.
III- Thánh hạnh vĩ đại của Ðức Phật
Với thánh cách vô
thượng và thánh hạnh vô song, Thế Tôn đã du hành qua nhiều quốc gia, cảm
hóa được nhiều thành phần trong xã hội. Từ vua, quan, quý tộc, thức
giả, tỷ phú đến giới thương gia, nông gia, nô lệ, tướng cướp, kỹ nữ cho
đến ngoại đạo, tất cả đều được Ngài thâu nhận làm đệ tử tu hành thanh
tịnh trong hội chúng của Ngài. Sự tổng hợp đa thành phần trong xã hội
hỗn tạp thành đoàn thể hòa hợp thanh tịnh là điều kỳ diệu, nếu không
phải Thế Tôn, sẽ không thực hiện được điều này. Kết quả kỳ diệu này là
do đức chiêu cảm của bậc giác ngộ, nhưng phần lớn nhờ vào những lời dạy
nhiệm mầu cùng với những phương thức giáo hóa vi diệu của Thế Tôn. Trong
phần này, ta không lật lại những trang giáo lý, mà chỉ tìm hiểu những
thánh hạnh, thánh cách và một vài con đường hoằng pháp của Ngài.
1- Sau khi
thành đạo, Thế Tôn nghĩ ngay đến việc giác ngộ cho hai vị đạo sĩ Alara
Kalama và Uddaka Ramaputta. Tuy không phải là hai vị thầy tối thượng,
hai vị này đã là những vị thầy đầu tiên hướng dẫn Thế Tôn tu tập và Ngài
đã đạt được những quả vị nhất định. Không độ được vì họ đã qua đời,
nhưng lòng tưởng nhớ của Thế Tôn vẫn gợi lên trong ta tinh thần đại
nghĩa của Ngài. Sau đó, Ngài nghĩ ngay đến năm anh em Kondanna và khởi
hành đến Benares (Ba La Nại), cảm hóa họ thành những đệ tử đầu tiên.
Ngài cũng không quên cảm hóa những thân chủ năm xưa: Sujata (Su Dà Ta) -
cô thôn nữ cúng Ngài bát sữa, đánh dấu sự từ bỏ khổ hạnh vô nghĩa;
Svastika - cậu thiếu niên cúng 8 bó cỏ mịn để lót nơi ngồi thiền mà sau
đó Ngài chứng Vô thượng Chánh đẳng giác. Hình ảnh bậc Ðạo Sư nhớ đến
những vị thầy đã theo học lúc chưa thành đạo, những người bạn đồng tu,
những thân chủ năm xưa, cho ta một cái nhìn đầy lạc quan, tin tưởng vào
tình người của Ngài.
2- Tín - một
ý nghĩa vô cùng quan trọng trong mọi lĩnh vực giữa con người với con
người. Ðức Phật, dù đối với vua chúa, quý tộc hay thứ dân, đều trân
trọng chữ tín. Vua Bimbisara (Tần bà Sa La), lúc Thế Tôn chưa thành đạo,
có đề nghị nếu tìm được đạo thì hãy nhớ hóa độ vua; vì vua vừa muốn có
bậc Ðạo sư nương tựa tinh thần, vừa muốn giao hảo với Thế Tôn để cho xứ
Magadha (Ma Kiệt Ðà) có mối quan hệ tốt với Kapilavatthu (Ca Tỳ la Vệ) .
Ðồng thời, nếu Thế Tôn trở thành bậc thầy vĩ đại thì Vua Bimbisara sẽ
ảnh hưởng được Ngài về mặt quần chúng. Ðức Thế Tôn thừa hiểu việc này,
vẫn giữ lời hứa năm nào, đến Magadha cảm hóa Vua Bimbisara, cuối cùng
vua đã trở thành vị đệ tử nhiệt thành.
Một lần khác, trong
lúc đang ở Vesali, Ðức Phật nhận lời mời của kỹ nữ Ambapàli (Liên Hoa
Sắc), đến thọ thực tại nhà cô vào ngày hôm sau. Cùng lúc ấy, nhóm quý
tộc Licchavi cũng thỉnh Ngài thọ thực tại nhà của họ, đúng vào ngày
Ambapàli mời. Ðức Phật từ chối trong sự thật rằng, Ngài đã nhận lời mời
của Ambapàli trước rồi nên phải giữ chữ tín (Trường Bộ I, kinh số 15, tr.579).
Khi ở tuổi 80, sắp
vào Niết bàn, Ðức Phật giảng bài pháp về 4 thần túc của bậc giác ngộ, có
khả năng kéo dài tuổi thọ. Tôn giả A Nan nghe nhưng không thỉnh Thế Tôn
trụ thân ở đời một thời gian, trong khi ác ma thỉnh Ngài nên sớm vào
Niết bàn. Ðến khi Thế Tôn sắp nhập diệt, A Nan khẩn nài Ngài trụ thêm
một thời gian, Ngài đã từ chối vì đã "hứa" với ác ma.
3- Không ít
người đã dùng lăng kính " nhân giới" để tìm chữ hiếu trong "Phật giới"
nên đã không tìm thấy, rồi vội kết luận Ðức Phật bỏ gia đình, trốn cha
mẹ xuất gia là bất hiếu. Cái hiếu của bậc hiền trí không phải là "quạt
nồng ấp lạnh" hay "sửa gối dâng trà", mà là cảm hóa phụ mẫu về với chánh
đạo. Muốn vậy, phải tu theo chánh đạo và đạt được chánh đạo. Tinh thần
hiếu của Ðức Phật là cái đại hiếu của người đi phương xa để tìm "món
thuốc" trường sinh bất tử về để cứu cha mẹ, mà không chịu ở quanh cha mẹ
để lo bát cơm, tách nước. Do đó, ta thấy sau khi thành đạo và đã có
được một số đông đệ tử, Ðức Phật trở về quê hương Kapilavatthu để hóa độ
thân phụ và các thân tộc họ Thích (Sakya). Kinh còn kể, Ðức Phật đã vận
thần thông lên cõi trời Tusita (Ðao Lợi) để giáo hóa thân mẫu Maya (Ma
Da) chứng quả A La Hán.
Như thế, rõ ràng
Ðức Phật là bậc đại hiếu. Lòng hiếu của Ngài thoát khỏi chữ hiếu thường
tình, không nhuốm màu ái dục. Ðó là tinh thần hiếu đạo xuất thế của bậc
giác ngộ.
IV- Một vài đặc tính hoằng pháp của Ðức Phật
Với trí tuệ siêu
phàm, Ðức Phật đã hóa độ vô số thành phần trong xã hội với vô số phương
thức khác nhau. Những phương thức này tùy vào bối cảnh, đối tượng mà
Ngài tùy cơ giáo hóa. Ngài không bao giờ đặt ra những bài học hay công
thức cho việc truyền pháp. Ở đây có thể rút ra một vài phương thức được
tìm thấy trong cuộc đời hoằng pháp của Ngài.
1)- Tính nhất quán:
Nước trong bốn bể vô lượng, nhưng chỉ có một vị duy nhất - vị mặn. Cũng
vậy, giáo lý của Ðức Phật nhiều vô số, nhưng chỉ có một vị duy nhất -
vị giải thoát. Bốn mươi lăm năm truyền đạo của Ngài là 45 năm khai mở
đạo mạch giải thoát để tưới nhuần cho muôn loài, giải thoát khỏi tham,
sân, si; giải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu não.
Dưới cặp mắt của bậc Ðại Giác, thế giới này là vô thường, cuộc sống này
là vui ít khổ nhiều, con người này là vô ngã. Ðây là ba dấu ấn để thẩm
định lời dạy của Ðức Phật. Một bản kinh, một bài kệ thiếu những dấu ấn
này được xem là không phải lời Phật thuyết. Những ai chấp nhận rằng thế
giới này là thường còn, cuộc sống này là hạnh phúc, con người này là
thật ngã, thì không bao giờ đặt được chân lên bờ giải thoát. Cho nên, dù
kinh điển có nhiều, pháp môn tu có nhiều, nhưng chỉ có một mục đích duy
nhất là đưa ta đến sự giải thoát tối thượng.
2)- Tính ảnh dụ thực tiễn:
Có lẽ đây là phương thức phổ biến nhất trên đường hoằng pháp của Ðức
Phật. Hầu như các bộ kinh Ðức Phật thuyết đều ít nhiều mang đặc tính
này. Cho đến ngay cả các tên kinh đều là biểu hiện của tính ảnh dụ,
chẳng hạn như: kinh Ví dụ tấm vải, kinh Mật hoàn, kinh Gò mối, kinh Ví
dụ cái cưa, kinh Dụ dấu chân voi, kinh Ví dụ lõi cây... Những bộ kinh
này, Ngài đưa ra những ảnh dụ thực tiễn, cụ thể để làm sáng tỏ lời dạy
của Ngài. Chẳng hạn như kinh Ví dụ con rắn số 22 trong Trung Bộ I, Ngài
dạy các dục ví như đầu rắn; người học giáo lý áp dụng cho việc tu hành
mà không nắm được những pháp môn căn bản, cũng như bắt rắn mà không biết
cách bắt sẽ bị rắn cắn.
3- Tính bất biến - tùy duyên:
Tính bất biến - tùy duyên dạy ta có thể uyển chuyển trong mọi tình
huống để làm việc đạo, nhưng không đánh mất tính chất thật của mình. Nhờ
phương thức này mà giáo lý của Ðức Phật dễ dàng có mặt ở mọi nơi, mọi
chốn, mọi hoàn cảnh, đi đến đâu cũng dễ thích nghi, phù hợp với nơi đó.
Ðức Phật, với tinh thần này, rất linh hoạt trong mọi hoàn cảnh để thực
hiện việc truyền bá chánh pháp. Nhờ vào tinh thần này mà Phật giáo mang
nhiều màu, nhiều vẻ nhưng không đánh mất chất Phật - bản thể của đạo.
Phật giáo Việt Nam không giống Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Trung Hoa
không giống Phật giáo Thái Lan (tùy duyên), nhưng tất cả các hình thức
Phật giáo đều thể hiện tinh thần từ bi, bình đẳng, giải thoát của Ðức
Thích Ca (bất biến).
4- Tính khế lý - khế cơ:
Ðây là một trong những yếu tố quan trọng mà Ðức Phật thường ứng dụng
trong việc hoằng pháp độ sinh. Tính khế lý dạy ta phải nắm vững chân lý,
quy luật vận hành của thế giới nhân sinh. Tính khế cơ dạy ta phải biết
áp dụng chân lý sống đúng thời, đúng lúc, đúng đối tượng; đặc biệt hiểu
được căn cơ, trình độ và tư tưởng của đối tượng để theo đó sử dụng những
"khế cơ" thích hợp áp dụng cho đối tượng. Tính khế lý - khế cơ khi mới
khảo sát, nó gần giống với tính bất biến - tùy duyên, nhưng nghiên cứu
kỹ thì hai phương thức này khác nhau. Tính tùy duyên - bất biến dùng để
áp dụng cho bối cảnh không gian - thời gian; trong khi đó, tính khế lý -
khế cơ dùng ứng dụng cho đối tượng là con người. Cùng là giáo lý vô
thường (bất biến), nhưng có lúc Ðức Phật xem nó như một dòng chảy, có
khi Ngài nhìn nó như sự bốc cháy (tùy duyên). Vô thường là chân lý tồn
tại khách quan trong cuộc sống (khế lý). Ðức Phật xét thấy căn cơ, trình
độ của ba anh em ông Uruvela Kassapa (Ưu Lâu Tần Loa ca Diếp) - những
Bà La Môn thờ lửa - có thể thích hợp với giáo lý này, Ngài đã thuyết
giảng cho họ một bài pháp rất vô thường, rất tâm lý (khế cơ): tất cả đều
đang bốc cháy, đang thiêu hủy. Sau bài pháp này, ba anh em Kassapa và
1.000 đệ tử của họ đều quy y Phật. Như vậy, áp dụng tính khế lý - khế cơ
đòi hỏi hành giả phải có tuệ nhãn sâu sắc hơn để tùy đối tượng trí, ngu
mà ứng dụng giáo lý cao thấp để hóa độ.
C- Kết luận
Ðức Phật, một con
người hùng vĩ xuất hiện trong thế giới thường nhân, với trí tuệ siêu
xuất thể hiện qua ngôn ngữ, văn tự thường tình đã gây âm vang chấn động
trong lịch sử tôn giáo và triết học.
Gần ba thiên niên
kỷ trôi qua, tiến trình phát triển của con người đã bao lần thay da đổi
thịt, vô số bài diễn văn được chép vào trang đại sử; trong đó, cuộc đời
hoằng pháp của Ðức Phật là bức thông điệp muôn thuở cho con người khảo
nghiệm, nghiên cứu, thực hành. Ðức Phật chỉ là một con người, nhưng là
con người kết tinh của vô vàn tinh hoa tuyệt mỹ của nhân loại. Vì thế,
đứng ở góc độ nào, người ta vẫn thấy được hiện thân của Ngài. Ðó là hiện
thân của chân lý, của trí tuệ và từ bi. Thật vậy, không phải thấy được
xác thân bốn đại của hơn 2.000 năm trước mới gọi là thấy Phật. Ngài dạy,
những ai thấy được lý Duyên khởi - luật vận hành của nhân sinh-vũ trụ,
người ấy thấy được pháp; những ai thấy được pháp, người ấy thấy được Như
Lai (Trung Bộ I, kinh số 28).
Vâng, tất cả nhân loại đang tìm về chân lý, hướng về chân lý, đang mơ ước được diện kiến Như Lai./.
* Chú thích:
(1) Assatha: Tên khoa học là Ficus religiosa; sau khi Ngài thành đạo, người ta gọi nó là cây boddhi - bồ đề.