Phần II - Bài đọc thêm
Phật giáo, Triết lý sống thời đại
HT Thích Trí Quảng
Ngày
nay, nói đến Phật giáo, người ta thường xem như một tôn giáo nặng phần
cúng bái, cầu nguyện. Thiết nghĩ việc cúng lễ, cầu nguyện là điều đương
nhiên không thể thiếu đối với tôn giáo.
Tuy nhiên, thực
chất của đạo Phật đặt nặng vấn đề tu hành hơn; vì vậy cầu nguyện, lễ bái
cũng là một trong những phương pháp tu hành, không phải là cứu cánh.
Thật vậy, Ðức Phật khẳng định Ngài đưa ra vô số phương tiện, thường được
tiêu biểu bằng con số 84.000 pháp tu, để giúp mọi người đạt đến cứu
cánh giác ngộ, giải thoát.
Pháp phương tiện
Ðức Phật chỉ dạy nhiều như vậy, vì tùy hoàn cảnh, khả năng của từng
người khác nhau; tùy phong tục, tập quán, luật lệ thay đổi theo từng địa
phương và tùy thời điểm mà Ngài hướng dẫn pháp tương ưng thích hợp cho
người chấp nhận được.
Một cách khách
quan, chúng ta thấy rõ nhu cầu tín ngưỡng là đòi hỏi thiết yếu, không
thể thiếu được trong cuộc sống con người ở thời Ðức Phật. Vì vậy, với
trí tuệ của bậc Chánh Biến Tri, Ngài chấp nhận thực tại khách quan ấy;
nhưng thực sự, Ðức Phật ít nói đến việc cầu nguyện, mà thường đề cập đến
vấn đề tu tập để làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên :
đó là mục tiêu chính trong việc giáo hóa của Ðức Phật.
Ðiều này thể hiện
rõ nét trong hầu hết các kinh điển, Ðức Phật thường hướng dẫn người thực
hiện 3 việc: làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và làm chủ thiên nhiên;
nói khác, Ngài khẳng định con người không lệ thuộc thần linh, nhưng buộc
thần linh phải phục vụ cho người.
Trước nhất, Ðức
Phật dạy rằng mọi người đều có khả năng thành Phật, tức đạt đỉnh cao của
tri thức và việc làm siêu việt, nhưng chúng ta tự đánh mất khả năng cao
quý ấy, kinh gọi là đánh mất bản tâm. Tự mình đánh mất khả năng làm chủ
bản thân và tự van xin cầu nguyện, đem trao vận mạng cho thế lực thần
quyền quyết định giùm, mà không hề biết họ là ai. Từ đó, con người tưởng
tượng ra đủ các thứ thần có quyền năng chi phối cuộc sống họ, cần phải
cầu nguyện: từ thần sông, thần núi, thần cây..., thậm chí đến thần vôi,
thần bếp. Vì không thấy được khả năng vô tận của mình, nên cảm thấy nhỏ
bé trước thiên nhiên bao la, sợ hãi thế lực siêu nhiên đè bẹp, nên tự hạ
thấp mình, cầu nguyện các thế lực khác. Và thực tế cho thấy các thế lực
đó chẳng giúp được gì cho con người, nên không mấy người cầu nguyện
được kết quả.
Phải chăng người
cầu nguyện có kết quả là nhờ họ biết kết hợp việc cầu nguyện với sự phát
huy khả năng mình. Trên tinh thần ấy, Phật giáo chủ trương có vấn đề
tha lực chi phối ta, nhưng bản thân ta cũng cần hướng về đối tượng để tự
phát huy khả năng. Ðiển hình như người tu pháp môn Tịnh độ, nương vào
Ðức Phật Di Ðà ở cảnh giới Tây phương. Phật A Di Ðà tiêu biểu cho vị đã
thành đạt vô lượng quang, vô lượng thọ, vô lượng công đức; nói khác,
Ngài có đầy đủ trí tuệ, sức khỏe và phương tiện.
Khi Ðức Phật Thích
Ca dạy chúng ta tu nương với Phật Di Ðà hay mười phương Phật, Ngài đều
đưa ra những đức tánh tốt của những vị đó, nhằm gợi ý cho chúng ta phát
huy những đức tánh ấy ở chính cuộc sống chúng ta. Nương Phật Di Ðà tu
cũng có nghĩa là đánh thức khả năng hiểu biết, khả năng sống lâu, khả
năng sử dụng phương cách độ sanh, giúp người. Nhờ nương với vị sáng
suốt, tuổi thọ cao, nhiều phước đức như Phật Di Ðà, từng bước mình cũng
khắc phục được mặt yếu và phát huy được bản thân.
Khi kết hợp tha lực
với tự lực, tạo được sức mạnh cho bản thân, lúc ấy, chủ động được cuộc
sống, nên không cần phải nhờ đến sự giúp đỡ bên ngoài nữa, và giảm thiểu
việc cầu nguyện để tự giải quyết. Quá trình tiến tu này đạt kết quả nhờ
khéo kết hợp cầu nguyện và tu hành. Trái lại, chỉ cầu nguyện mà không
tu, giao phó toàn bộ cho Phật làm giùm ta, chắc chắn không thể được và
cũng không phải là điều Phật muốn.
Ngày nay, chúng ta
nương theo Ðức Phật A Di Ðà tu, suy nghĩ về vô lượng thọ của Ngài, tức
vấn đề sức khỏe, tại sao Ngài sống đạm bạc mà lại khỏe mạnh, trường thọ.
Từ đó, chúng ta tu, làm chủ bản thân hay làm thế nào để xây dựng cuộc
sống mình không bị khổ sở vì bịnh tật thể xác lẫn tinh thần hành hạ.
Kinh nghiệm cho
thấy ốm đau sanh ra vì sống không hợp lý, như người tu khổ hạnh ép xác,
không đủ dinh dưỡng, tất phải bịnh. Ngược lại, các vị Thiền sư sống rất
đơn giản nhưng lại rất khỏe, tuổi thọ cao. Quan sát thấy rõ các Ngài
thường sống ở môi trường không khí trong lành, yên tĩnh, lượng thực thực
phẩm đủ dinh dưỡng dùng cho cơ thể và sống không tổn hại cho các loài,
không tranh chấp tính toán vơ vét lợi cho mình. Phương cách sống như vậy
hoàn toàn phù hợp với tinh thần khoa học ngày nay. Thật vậy, qua các
kiểm nghiệm khoa học cho biết không khí ô nhiễm, ăn uống quá độ, ăn
nhiều thứ độc tố, cùng với đủ thứ stress vì lo toan, thủ lợi cho cá nhân
một cách quá tham lam, mù quáng, cộng với vô số tiếng động đinh tai
nhức óc, hoặc chạy theo biết bao bận rộn không cần thiết trong cuộc
sống..., tất cả đã tác hại rất nhiều cho sức khỏe, gây ra đủ thứ bịnh
tật, làm giảm tuổi thọ con người.
Vì vậy, trên bước
đường tu theo Phật giáo, làm chủ lấy mình, tự lành mạnh hóa thân tâm, cố
làm sao bớt lệ thuộc vật chất, ăn mặc, giảm tiêu hao năng lượng, tránh
gây ồn náo, bớt tác hại ô nhiễm môi sinh, hạn chế tranh giành hơn thua,
đừng quá tham lam ích kỷ. Thực hiện được phần nào những điều ấy, tinh
thần chúng ta chắc chắn có được phần nào sảng khoái, cơ thể tươi vui,
khỏe mạnh.
Bước thứ hai của
người tu phát tâm Ðại thừa, giáo hóa chúng sanh, thường nghĩ chúng ta
không thể nào sống một mình và không thể tốt với xã hội không tốt. Chúng
ta ý thức sự tác hại lớn lao của ô nhiễm môi sinh, không dám làm gì tổn
hại, nhưng người khác không nhận thức như vậy hoặc quá tham lam cứ gây ô
nhiễm, tất nhiên cuộc sống ta cũng bị vạ lây. Hoặc chúng ta đạo đức
trong một xã hội tuột dốc, sa đọa, nhiều tệ nạn nhiễu nhương, thì cũng
khó lòng an ổn.
Vì vậy, Bồ Tát hành
đạo không tìm chỗ trong lành, yên tĩnh, an nhàn như giai đoạn một, mà
tiến một bước xa hơn nhằm tịnh hóa xã hội và thiên nhiên, tức con người
và thế giới con người. Bấy giờ, Bồ Tát lo giải quyết việc cho người, làm
sao giúp họ hiểu được gây ô nhiễm tác hại cho sự sống của họ, của tất
cả mọi người, mọi vật trên hành tinh này. Bồ Tát đã lo xong phần tự giác
và đến giai đoạn giác tha, dùng vô số phương tiện để nâng hiểu biết của
người, khiến họ ý thức được tốt xấu, lợi hại, điều đáng làm và điều
không nên làm.
Trên tinh thần ấy,
bước thứ hai, Bồ Tát đã thực hiện công việc giáo dục người, vì theo Phật
dạy, tất cả thành bại đều do con người quyết định. Hướng dẫn cho người
đồng tình với mình trong việc bảo vệ thiên nhiên, làm cho xã hội lành
mạnh, đó chính là xây dựng Tịnh độ ở Ta bà.
Với ý thức như vậy,
Bồ Tát dấn thân không biết mệt mỏi, giúp người an lành là giúp mình an
lành, cứu người thoát khổ là cứu mình khỏi khổ. Mang tinh thần giáo dục
rộng lớn vô cùng ấy mà Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi cho biết tất cả chúng sanh
thành Phật, thì Ngài mới thành, hoặc Ðịa Tạng Bồ Tát phát nguyện nếu còn
chúng sanh trong địa ngục thì Ngài không thành Phật.
Tóm lại, Phật giáo
hướng dẫn triết lý sống hiểu biết đúng đắn, lành mạnh, đạo đức cho riêng
bản thân mỗi người, được hàng Thanh Văn tu tập, ứng dụng ở giai đoạn
một. Sau khi đạt được thành quả tốt đẹp ở bước đường tự giác xong, Thanh
Văn tiến tu Bồ Tát đạo, giáo dưỡng cho người hướng thiện, xây dựng xã
hội tốt đẹp, thế giới hòa bình, an lạc. Triết lý sống tròn đủ chân thiện
mỹ của Phật giáo đã trường tồn hơn 25 thế kỷ và cũng sẽ là mô hình lý
tưởng hiện đại và trong tương lai cho nhân loại nương theo để kiến tạo
ngôi nhà chung xanh sạch, đầy cảm thông, hiểu biết, đầy tình thương,
hạnh phúc, ấm no./.
-oOo-