Phần II - Bài đọc thêm
Truyền bá Chánh Pháp
HT Thích Trí Quảng
Quan
sát lịch sử truyền bá Phật giáo trên khắp năm châu trải qua hơn 25 thế
kỷ, không bao giờ chúng ta thấy có một nhà truyền giáo nào dùng sức mạnh
vật chất để cám dỗ, mua chuộc hay đe dọa người nhằm kéo họ đến với đạo
Phật.
Trái lại, với
phương cách hết sức hiền hòa, tùy thuận, Phật giáo đã từng bước nhẹ
nhàng hội nhập vào những nơi có đủ duyên lành, không vì một ý đồ đen tối
hay mưu cầu một tư lợi nào, mà chỉ nhằm mang lại lợi ích, an lạc cho
nhiều người.
Thật vậy, Ðức Phật
đã khẳng định sự hiện hữu của Ngài trên cuộc đời này vì lòng thương
tưởng cho đời, vì hạnh phúc cho mọi người. Với bản chất của một đấng cứu
đời, vô ngã vị tha, Ngài hoằng hóa độ sanh một cách thanh thản. Không
một tấc sắt trong tay, không phô trương những lời hoa mỹ, Ðức Phật chỉ
trải lòng từ, mang tri thức vô thượng đến cho người. Qua hình bóng giải
thoát và tâm hồn thánh thiện của Ðức Phật đã tạo thành sức thuyết phục,
cảm hóa người đến với Ngài từ bỏ việc ác, sống với việc lành.
Chỉ một thí dụ điển
hình như vua Ba Tư Nặc nhìn thấy thân tướng Phật từ bi, giải thoát,
khiến ông thay đổi tâm lý một cách đột ngột, không còn tin theo hủ tục
lâu đời ăn sâu vào nếp nghĩ của mọi người thời đó. Vua đã quyết định bãi
bỏ việc giết hại 500 dê, bò để cúng tế và xin Phật có dịp trở lại để
cứu độ ông.
Hàng đệ tử Phật tu
tập theo Ngài, như Mã Thắng cũng tỏa sáng phạm hạnh giải thoát. Trên
đường hành đạo, bước đi trong yên lặng tỉnh giác mà Mã Thắng đã tác động
sâu xa tâm hồn nhà đại hùng biện Xá Lợi Phất, khiến ông đột nhiên từ bỏ
địa vị giáo chủ đạo thần lửa, phát tâm quy ngưỡng Phật.
Ðức Phật tại thế,
hình bóng giải thoát và tâm từ bi của Ngài cùng hàng Thánh chúng đệ tử
đã tạo thành sức sống an bình, lợi lạc cho xã hội đương thời.
Ðến khi Phật Niết
bàn, tinh thần giải thoát, lợi lạc quần sanh vẫn là ngọn đuốc chỉ đạo
cho đời sống của các vị chân tu thật học ở khắp chân trời góc bể. Thậm
chí có những nơi mà đạo hạnh từ bi, giải thoát soi sáng bởi trí tuệ vô
lậu của các bậc tu hành đã một thời tác động những kẻ chiến thắng phải
hướng tâm tìm hiểu Phật pháp.
Lịch sử đã từng cho
thấy khi quân Mông Cổ hoặc Mãn Thanh sang chiếm Trung Quốc, họ phải cho
dịch kinh Phật sang tiếng Mông Cổ hay tiếng Mãn Thanh để nghiên cứu. Vì
mặc dù là kẻ chiến thắng, nắm quyền bính trong tay, nhưng họ vẫn cảm
thấy e dè trước sức mạnh văn hóa của Trung Quốc, mà tư tưởng Phật giáo
bấy giờ là chỉ đạo chính yếu.
Hoặc trường hợp
người Mỹ có mặt ở Nhật Bản với tư cách kẻ chiến thắng trong trận Thế
chiến thứ hai. Họ nhận thấy tướng lãnh Nhật tuy bại trận, nhưng nhờ ảnh
hưởng Phật giáo nên đã có thái độ điềm tĩnh lạ thường. Ðiều này khiến
một số người Mỹ phải kính nể và gợi cho họ ý thức muốn tìm hiểu Phật
giáo.
Chúng tôi xin đơn
cử một thí dụ về Thiền sư Philip Kapleau, là một trong những Thiền sư
người Mỹ đầu tiên. Ông nổi tiếng ở Mỹ và các nước châu Âu. Năm 1947, ông
đến làm việc tại Tokyo. Theo ông nhận xét, tinh thần Phật giáo thẩm
thấu sâu sắc vào dân Nhật, nên đối trước hậu quả khốc liệt của chiến
tranh giáng lên cuộc sống, họ chấp nhận với một thái độ bình tĩnh và ứng
xử sáng suốt. Ðiều này khiến ông ngạc nhiên và khâm phục, quyết định
tìm hiểu Phật giáo. Tại Kamakura, ông gặp Ðại sư Suzuki giảng giải về
thiền Ðại thừa. Ông rất vui mừng, từ đó tìm hiểu Phật giáo sâu hơn, cho
đến năm 1953 thì xuất gia.
Có thể nói, từ giai
đoạn khởi đầu ở Tây phương, phần lớn văn minh Âu-Mỹ đã tiếp xúc với
thiền học Nhật Bản và biết kết hợp hài hòa để tạo thành nếp sống văn
minh vật chất kèm theo hương vị giải thoát của đạo Phật.
Thật vậy, các Thiền
sư Nhật Bản nổi tiếng như Takakutsu, Suzuki, Kimura, họ truyền bá Phật
giáo sang Tây phương với tư cách vừa là du học tăng, vừa là giáo sư
giảng dạy Phật học tại các đại học ở Âu-Mỹ. Họ quan sát xem sự suy nghĩ
của người Tây phương như thế nào, để từ đó truyền tải Phật giáo sao cho
người Tây phương chấp nhận được.
Với hướng truyền bá
như vậy, đạo Phật đã thu hút được các học giả Tây phương và đi thẳng
vào đại học, trực tiếp truyền thông đến những nhà trí thức, tạo cho họ
có cuộc sống đẹp; chứ không phải tìm đến nước chậm tiến truyền bá để
trục lợi.
Ðiều quan trọng
chúng ta cần quan tâm là chiều hướng phát triển của Phật giáo phương Tây
ngày nay không cần xây dựng chùa chiền. Ðiểm chính yếu là làm thế nào
để tạo được tâm lý cao cả và đời sống tốt đẹp.
Trên tinh thần ấy, ở
Âu-Mỹ, Phật giáo không phát triển mạnh về mặt số lượng tín đồ như các
nước Á châu. Tuy nhiên, người trí thức Tây phương tiếp thu Phật giáo với
tinh thần ứng dụng thực tiễn, họ rút ra được những tinh ba và thường có
khuynh hướng viết sách ghi lại hiểu biết, sở đắc của họ. Nhờ vậy, người
phương Tây hình thành được những tác phẩm Phật giáo rất có giá trị về
triết học, tư duy, đạo đức, hướng người đến đời sống tỉnh thức, an lạc.
Vì vậy mà người phương Ðông muốn nghiên cứu Phật giáo một cách rốt ráo,
họ phải tìm đọc sách phương Tây.
Chúng ta có thể sơ lược vài tác phẩm nổi tiếng về Phật giáo, ở Mỹ có quyển Three Pillars of Zen của Philip Kapleau, đã dược dịch ra nhiều thứ tiếng, The Awakening of the West của Stephen Batchelor, Brief History of Buddhist in Europe and America
của De Jong... Ở Pháp có dịch phẩm nổi tiếng về kinh Pháp Hoa của Hàn
lâm học sĩ E. Burnouf, dịch ra từ Phạn ngữ Népal năm 1925 còn lưu truyền
đến ngày nay. Ðặc biệt là quyển chú giải kinh Duy Ma giúp chúng ta hiểu
Phật giáo chính xác và sâu sắc của tác giả A. Bareau v.v... Ở Anh, có
bản dịch kinh Duy Ma The Teaching of Vimalakirti của Sara Boin...
Ngày nay, cùng với
làn sóng mới trong việc truyền bá Phật giáo sang các nước phương Tây,
Phật giáo Nhật Bản, ngoài sự hoằng truyền ở trường đại học và phổ biến
các tác phẩm hướng dẫn tu tập, họ còn truyền bá đạo pháp dưới nhiều hình
thức kinh tế, xã hội, văn hóa. Sở dĩ Phật giáo Nhật phổ cập tư tưởng
Phật Ðà qua các dạng thức đó vì người Nhật sớm chịu ảnh hưởng tinh thần
kinh Hoa Nghiêm, theo đó không giới hạn nhà truyền giáo trong hình thức
tu sĩ.
Hành đạo theo Hoa
Nghiêm, Thiền sư có thể là thương buôn theo mẫu Di Già hay Giải Thoát
trưởng giả, hoặc người lái thuyền Bà Thi La. Với phương cách hành đạo
ấy, hầu hết Phật giáo Nhật sinh hoạt ở châu Âu thường không phải ở chùa,
mà ở các tiệm buôn, các nhà máy sản xuất hay siêu thị. Ở những nơi đó,
từ công nhân đến giám đốc đều là thiền giả, nhưng đặc biệt tu hành của
họ tạo ra của cải, đóng góp lợi ích cho xã hội mà vẫn giữ được nếp sống
bình dị, tâm hồn thanh thản. Kết quả thiết thực của mẫu tu như vậy được
người Tây phương chấp nhận dễ dàng hơn là cách sống trong các thiền
đường quy củ, khắc khổ như ở Nhật thời xưa.
Ngoài ra, người
Nhật còn đầu tư hàng tỷ đô-la vào việc tạo lập công viên ở Pháp, Mỹ. Họ
được chính phủ các nước này cho phép xây dựng các công viên thật rộng
lớn mang dáng dấp thiền. Ở Paris và Toulouse đều có công viên giống như
các đình viên của các chùa ở Nhật, rộng cả trăm mẫu. Ở California cũng
có vườn Nhật Bản nổi tiếng. Khách tham quan đến các công viên này có thể
hít thở không khí trong lành, có thể thư giãn tâm hồn bên dòng suối
trong vắt, phong cảnh nên thơ với những bãi cỏ xanh mướt trải dài, đây
đó hoa nở xinh tươi, chim hót ríu rít. Vào đó, bao âu lo phiền trược dứt
bỏ dễ dàng và hướng tâm người hòa nhập vào dòng sống đại tự nhiên của
vũ trụ, đó là mục tiêu mà các nhà truyền giáo tạo lập vườn thiền này
mong mỏi khách thập phương đạt được.
Xưa kia, Ðức Phật
và Thánh chúng đã thể hiện mô hình tiêu biểu sống như thế nào để trở về
bản tâm thanh tịnh, hòa nhập cùng pháp giới, vĩnh hằng bất tử.
Chúng ta hy vọng,
trên đà phát triển Phật giáo ở phương Tây với chiều hướng phục hưng theo
những mô hình nói trên sẽ giải tỏa những bế tắc của thời đại, mang lại
nhiều lợi ích cho mọi loài trên trái đất này ở thế kỷ 21./.
-oOo-