Phần II - Bài 2
Tám phần Thánh đạo (Bát-Chánh Ðạo)
Thích Tâm Khanh
A- Dẫn nhập
Thánh
đạo (Noble path) hay chánh đạo (Right path) đều biểu thị con đường chân
chánh, đưa đến thánh thiện, thánh quả, giải thoát. Ðạo (Pàli: magga) là
con đường chuyển hóa, là phương thức, pháp môn tu tập đưa đến hạnh
phúc, an lạc. Trong Phật giáo, chữ "Thánh" không mang ý nghĩa siêu hình
hay siêu thế. Nó diễn tả tất cả giáo lý đạo Phật đều do chính Ðức Thế
Tôn tuyên thuyết và vì mục đích thoát ly mọi ràng buộc của vô minh, tham
ái, nguyên nhân của khổ đau. Vì thế, cũng như các phương pháp tu tập
khác thuộc 37 phẩm trợ đạo, như 4 đề mục quán niệm (tứ niệm xứ), 4 phạm
trù về tinh cần và như ý (Iddhi; Tứ chánh cần - Tứ như ý túc), 7 con
đường đưa đến giác ngộ (Thất bồ đề phần)..., tám phần thánh đạo (Bát
chánh đạo) là tám con đường hành trì của một người quyết tâm đi tìm sự
thật và hạnh phúc chân thiện ở đời. Người tu tập Bát thánh đạo là người
hạnh phúc. Gia đình được xây dựng theo Bát Thánh đạo là gia đình hạnh
phúc và tương tự, một xã hội quốc gia sống theo bát chánh đạo hẳn nhiên
sẽ là một xã hội an lạc. Có thể khẳng định tám phần thánh đạo là tám
điều kiện cần và đủ để được hạnh phúc, an lạc ngay tại cõi đời này gồm:
Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh
tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.
B- Nội dung
I- Nội dung Bát thánh đạo:
1)- Chánh tri kiến (Sammà ditthi): Trong
Pàli ngữ, ditthi là biến từ của dittha. Dittha, nếu là động từ sẽ mang
nghĩa "thấy, trông thấy"; khi là danh từ lại có nghĩa: "người được giác
ngộ đến mục tiêu cuối cùng". Trong khi Sammà mang ý nghĩa: "chánh trực,
chơn chánh". Sammà ditthi do vậy có nguyên nghĩa là: sự thấy, hiểu biết
chân chánh, chánh trực hay nhận thức đúng, rõ ràng như thật. Các kinh
Thánh Ðạo (Trung A Hàm 189), kinh Maha Cattarisanka (Trung Bộ III - số 114), kinh Chánh tri kiến (Trung Bộ I - số 9) đã đề cập đến Chánh tri kiến như sau:
- Hiểu rõ về 4 sự
thật (tứ đế), duyên khởi - vô ngã, mối liên hệ nhân quả trong sự vận
hành, từ nguồn gốc sanh tạo đến đoạn diệt và phương thức tu tập để đoạn
diệt các thức ăn nuôi dưỡng ái dục là chánh tri kiến.
- Biết được thiện và bất thiện, các tính chất căn bản của chúng là chánh tri kiến.
- Sự am tường về 5 uẩn của tự thân và thế giới là chánh tri kiến.
2)- Chánh tư duy (Sammà samkappa): Chánh
tư duy là chi phần thứ hai trong bát chánh đạo sau chánh tri kiến. Do
sự hiểu biết, cái nhìn chân chánh mà sự suy niệm hay ý nghĩ đúng đắn
phát sinh. Quá trình suy niệm liên tục sẽ hình thành các tư tưởng
(thoughts). Chánh tư duy vì vậy là kết quả của quá trình trầm tư lâu
dài, định hình các tư tưởng hay hệ tư tưởng chánh trực. Tương tự như
chánh tri kiến, các tư duy được gọi là chân chánh khi chúng được tạo ra
từ sự chuyên chú khảo sát về tứ đế, duyên khởi - vô ngã, 5 uẩn... Những
tư tưởng nào không phản ánh được nội dung của 4 sự thật, duyên khởi - vô
ngã là tư tưởng sai lầm hay còn gọi là tà tư duy như đức Phật đã tuyên
bố: "Ai thấy duyên khởi là thấy pháp. Ai thấy pháp là thấy Như Lai" (Tương Ưng III, tr.144).
3)- Chánh ngữ (Sammà vàcà): Do
có hiểu biết và tư tưởng đúng đắn, lời nói và ngôn hạnh của hành giả
cũng nhu hòa, chánh trực. Luận Thanh Tịnh Ðạo (Visudhi Magga) viết: "Khi
hành giả thấy và tư duy như vậy (tức trên cơ sở 4 sự thật và duyên khởi
- vô ngã), sự từ bỏ tà ngữ của vị ấy, một sự từ bỏ tương ưng với chánh
kiến, từ bỏ ác ngữ nghiệp gọi là chánh ngữ" (trang 40 - tập III).
Tà ngữ là những lời
nói - ngôn hạnh sai lạc gồm 4 biểu hiện: nói dối (vọng ngữ), nói lời ác
(ác khẩu), nói hai lưỡi (lưỡng thiệt) và ỷ ngữ. Trong kinh ví dụ cái
cưa (Trung Bộ kinh I - số 21), đức Phật dạy về 5 loại ngữ hành mà một người tu tập chánh ngữ cần thực hành:
- Nói đúng thời, không nói phi thời;
- Nói lời chân thật, không nói lời hư ngụy;
- Nói lời nhu hòa, không nói lời thô bạo;
- Nói điều lợi ích, không nói điều vô ích;
- Nói lời xuất phát từ lòng từ, không nói lời xuất phát từ lòng sân.
4)- Chánh nghiệp (Samma kammanta): Nghiệp
(Kamma) là hành vi có tác ý. Một hành động hay hành vi xuất phát từ
nhận thức và tư duy chân chánh được gọi là chánh nghiệp. Ngược với chánh
nghiệp là tà nghiệp. Sự từ bỏ các hành vi bất thiện thuộc tà nghiệp -
như giết hại, chiếm đoạt tài sảãn của người khác (bao gồm cả hối lộ,
nhận hối lộ, thâm lạm công quỹ...), tà hạnh trong các dục (như nam nữ
quan hệ bất chính, tự thủ dục...) - là những hành vi chân chánh hay
chánh nghiệp.
Nguồn gốc của mọi
hành vi thuộc tà nghiệp đều dẫn khởi từ ba yếu tố: lòng tham lam, sự sân
hận và sự ái luyến si mê. Với nhận thức và tư duy thanh tịnh không uế
nhiễm, người tu tập nỗ lực loại trừ tất cả mọi tư tưởng luyến ái, lòng
thù hận. Tâm thức trở nên thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì đời sống cũng
trong sạch. Chánh nghiệp do vậy cũng là đời sống trong sạch, gương mẫu,
chánh trực.
5)- Chánh mạng (Sammà àjìva): Yếu
tố hay chi phần thứ năm trong Bát thánh đạo là Chánh mạng. Trong tự
điển Pàli, Ajìva có nghĩa là sự nuôi sống, sự sanh sống, hàm nghĩa các
hoạt động lao động chân tay hay trí não để nuôi sống sinh mạng. Mọi hoạt
động nghề nghiệp sinh nhai được hiểu là chân chánh khi chúng không được
thực hiện bằng sự xảo trá, lừa lọc, làm hại đến bản thân, gia đình, xã
hội và quốc gia (dù của người hay của mình) như buôn bán độc dược,
heroin, vũ khí,... Luận Thanh Tịnh Ðạo giải thích: "Chánh mạng có đặc
tính là làm sạch. Nhiệm vụ của nó là đem lại sự phát sinh một nghề sinh
nhai thích đáng. Nó được biểu hiện bằng sự từ bỏ tà mạng" (sđd, tr.41).
6)- Chánh tinh tấn (Sammà vàyàma): Tinh
tấn (Vàyàma) là sự nỗ lực, siêng năng chuyên cần, cố gắng hết sức bằng
tất cả nghị lực bản thân. Chánh tinh tấn là năng lực thúc đẩy tiến trình
tu tập của một hành giả khi vị này quyết tâm cắt đứt mọi bất thiện pháp
trong cuộc sống tự thân. Nó được biểu hiện qua 4 phạm vi:
- Nỗ lực làm tiêu trừ các bất thiện pháp đã phát sanh như các tật xấu, khiếm khuyết của bản thân.
- Nỗ lực ngăn ngừa, dập tắt các ác pháp đang hoặc chưa phát sanh.
- Nỗ lực làm phát sanh các thiện pháp như các tư tưởng, hành vi, ngôn ngữ có chất liệu từ bi, vô ngã, hy sinh, phụng sự...
- Nỗ lực trau dồi và làm tăng trưởng các thiện pháp đã phát sanh.
Các phạm trù thiện,
ác thuộc đạo đức, luân lý được thể hiện qua hành vi của thân, lời nói
của miệng và tư tưởng của ý. Do đó, chánh tinh tấn còn là năng lực kiểm
soát chuyên chú các hoạt động của thân, khẩu và ý.
7)- Chánh niệm (Sammà sati): Sati
theo Pàli ngữ mang nghĩa: sự ghi nhớ, sự chú tâm, thường được dịch là
Niệm. Chánh niệm là sự chú tâm quán tưởng 4 đề mục: thân thể, cảm thọ,
tâm thức và các pháp. Sự chú tâm và ghi nhớ, suy nghĩ thường trực về 4
đề mục trên đưa đến sự loại trừ 4 tà niệm:
- Thân thể là một hợp thể bất tịnh mà cho là đẹp đẽ, thanh tịnh, đáng ưa thích.
- Các cảm thọ (bao gồm tất cả các trạng thái, thái độ tâm lý của các
quan năng 6 căn khi tiếp xúc 6 trần) dù là đau khổ, vui sướng hay vô kí
(1) đều do nhân duyên sanh, có khuynh hướng đưa đến khổ (dukkha) mà cố
chấp là hạnh phúc, an lạc.
- Tâm lý, tâm thức con người luôn thay đổi, vô thường mà bảo thủ cho là trường tồn.
- Mọi sự vật, hiện tượng trên đời luôn chuyển biến theo vô ngã mà chấp là có ngã, không phải do nhân duyên sanh.
Luận Thanh Tịnh Ðạo
viết: "Khi hành giả nỗ lực như thế (tức luôn chú tâm trên 4 đề mục) sự
không quên lãng trong tâm tương ưng chánh kiến, rũ bỏ tà niệm, thì gọi
là chánh niệm. Nó có đặc tính là an lập. Nhiệm vụ của nó là không quên"
(sđd, tr.41).
8)- Chánh định (Sammà samàdhi): Ðịnh (Samàdhi) là trạng thái tâm tập trung thuần nhất, an tịnh, không dao động. Kinh Ðại Tứ Thập (Trung Bộ III,
số 117) định nghĩa về chánh định: "Thế nào là chánh định với các cận
duyên và tư trợ ? Chính là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm. Này các Tỷ kheo, phàm có
sự nhất tâm nào được tư trợ với bảy chi phần này, như vậy, gọi là chánh
định cùng với các cận duyên và tư trợ" (tr.205).
Theo lời dạy trên,
Chánh định là sự nhất tâm có mặt của 7 chi phần trước mà đặc biệt là
Chánh kiến. Như vậy, định hay sự nhất tâm, an định nào không có mặt của
chánh kiến được gọi là tà định.
II- Liên hệ giữa Bát thánh đạo và Giới, Ðịnh, Tuệ
Con đường đưa đến
giác ngộ theo 8 chi phần thánh đạo tuy không mô tả đầy đủ về 3 nhóm Giới
luật, Thiền định và Trí tuệ nhưng về đặc tính thực nghiệm, chúng luôn
được bao gồm trong ba môn học vô lậu: Giới, Ðịnh, Tuệ. Ðức Phật đã giảng
rõ: "Hiền giả Visakha, tám thánh đạo không bao gồm trong ba uẩn, nhưng
ba uẩn bao gồm được cả tám thánh đạo. Bất cứ chánh ngữ nào, chánh hành
nghiệp nào, chánh mạng nào, đều thuộc Giới uẩn. Bất cứ chánh tinh tấn
nào, chánh niệm nào, chánh định nào, đều thuộc về Ðịnh uẩn. Bất cứ chánh
kiến nào, chánh tư duy nào đều thuộc về Tuệ uẩn" (Tiểu kinh Phương Quảng - Trung Bộ I, số 44).
Sự liên hệ giữa các
chi phần trong bát chánh đạo với ba nhóm giới luật, thiền định và trí
tuệ không phải là mối liên hệ khách quan, máy móc, chúng biểu thị tính
nhất quán trong học tập giáo lý và thực nghiệm. Có thể giải thích theo
hai hướng: Sự liên hệ giữa các chi phần trong nhóm và sự liên hệ giữa ba
nhóm Giới, Ðịnh và Tuệ.
1)- Liên hệ về tính chất thực nghiệm giữa các chi phần trong nhóm:
- Các chi phần
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng được xếp chung vì có tính chất chung
loại. Lời nói, hành vi cuộc sống và nghề nghiệp đều biểu hiện ở thân và
khẩu. Vì vậy chúng được xếp vào nhóm Giới.
- Niệm, nhất tâm và
tinh tấn là ba yếu tố hỗ tương đưa đến Ðịnh. Luận Thanh Tịnh Ðạo giải
thích: "Ðịnh không thể tự bản chất làm phát sinh an chỉ, nhưng với tinh
tấn hoàn tất nhiệm vụ nỗ lực, niệm làm nhiệm vụ ngăn ngừa dao động, thì
Ðịnh có thể đạt đến an chỉ" (sđd, tr.42).
- Tuệ gồm chánh
kiến và chánh tư duy. Ngoài sự nhận thức, hiểu biết là biểu hiện cụ thể
của trí tuệ, tư duy hay tư tưởng cũng được xếp vào Tuệ uẩn. Vì sao ?
Ngài Buddha Ghosa Thera (Phật Âm) giải thích: "Tuệ (tức chánh kiến) tự
nó không thể định rõ một vật là vô thường, khổ, vô ngã. Nhưng với tầm -
tư duy trợ lực, bằng cách liên tục đánh vào đối tượng, thì có thể... Bởi
thế, trong Tuệ uẩn chỉ có chánh kiến là đồng loại, nhưng chánh tư duy
cũng được hàm trong đó, vì chánh tư duy trợ lực cho chánh kiến" (sđd,
tr.43).
2)- Sự liên hệ giữa các nhóm Giới, Ðịnh, Tuệ: Thông
thường, con đường giải thoát được giới thiệu theo thứ tự tiệm tiến
Giới, Ðịnh, Tuệ như Luật tạng viết: "Do Giới sanh Ðịnh, do Ðịnh sanh
Tuệ". Tuy nhiên, do quan hệ duyên khởi và thực tiễn tu tập theo căn
tánh, tam vô lậu học được trình bày khởi từ nhóm Tuệ. Các kinh Chánh Tri
Kiến, kinh Ðại Tứ Thập xác định chánh kiến là chi phần chủ yếu của Bát
thánh đạo. Tất cả các chi phần còn lại đều phải có mặt của chánh kiến
hay quá trình tu tập Giới và Ðịnh luôn phải song hành với Tuệ.
III- Hai con đường
Như đã nêu, đạo là
con đường tu tập chuyển hóa đưa đến thánh quả. Trong kinh Ðại Tứ Thập,
Ðức Phật đã dạy về hai con đường của các bậc hữu học và vô học (2): "Do
có chánh kiến, chánh tư duy khởi lên; do có chánh tư duy, chánh ngữ khởi
lên; do có chánh ngữ, chánh nghiệp khởi lên;..., do có chánh định,
chánh trí khởi lên; do có chánh trí, chánh giải thoát khởi lên. Như vậy,
này các Tỳ kheo, con đường của vị hữu học gồm có tám chi phần và con
đường của vị A La Hán gồm có mười chi phần" (tr.191).
Do đó, Bát chánh
đạo cũng có hai loại: hữu lậu và vô lậu. Dù được trình bày dưới hình
thức 8 chi phần hay 10 chi phần, trọng điểm của việc tu tập Bát thánh
đạo vẫn là đoạn trừ lậu hoặc, tham ái, chấp thủ. Sự phân loại trên chỉ
nhằm mục đích nhấn mạnh đến vai trò của trí tuệ (Chánh trí) trong việc
giải thoát (Chánh giải thoát) mọi lậu hoặc khỏi tâm thức. Ðiều này khẳng
định tầm quan trọng của trí tuệ. Ðạo Phật là đạo của trí tuệ như kinh
Bát Ðại Nhân Giác đã viết: "Duy tuệ thị nghiệp".
IV- Tu tập Bát thánh đạo
Cũng như tất cả
giáo lý khác, Bát thánh đạo là giáo lý hướng đến và phục vụ cho cuộc
sống. Vì vậy, học tập Bát thánh đạo không thể dừng lại ở mức độ khảo
sát, tìm hiểu. Chúng cần được thể nghiệm trong cuộc sống.
Con người là một
tập hợp hai thành phần thân thể vật lý và đời sống tinh thần. Tu tập Bát
thánh đạo vì vậy được đặt trên nền tảng của hai phương diện: tu tập
thân và tu tập tâm.
1)- Tu tập thân: Thân
thể vật lý (tức nội sắc uẩn) luôn có liên hệ với thế giới môi sinh
(ngoại sắc uẩn). Một cơn gió thoảng qua đem lại cho cơ thể cảm giác mát
mẻ nhưng cũng có thể đem lại những chứng bệnh cảm mạo, phong hàn. Sống
trong hoàn cảnh bất như ý, điều kiện cư trú ẩm thấp hay khô hạn, không
vệ sinh hay thiếu môi cảnh cây xanh... đều đem lại những biến chứng bệnh
tật. Tu tập chánh kiến, chánh tư duy là thấy và tự nhận thức mối liên
hệ duyên khởi của các nội phần cơ thể và ngoại phần cơ thể hay tương
quan của thân thể và môi sinh. Tu tập chánh nghiệp - chánh mạng - chánh
ngữ là tự điều chỉnh khả năng đề kháng của cơ thể phù hợp với môi trường
học tập, lao động, làm việc; góp ý và thực hiện công tác cải tạo môi
trường sinh thái và tăng cường rèn luyện cơ thể qua tập thể thao, sinh
hoạt điều độ. Tu tập chánh niệm - chánh định về thân là biết rõ và làm
chủ các hoạt động của cơ thể, giữ trạng thái quân bình không để các dục
làm kích động hay ức chế. Trong kinh Thân Hành Niệm (Trung Bộ kinh - số
119), Ðức Phật dạy: "Này các thầy, khi bước tới, bước lui biết rõ việc
mình làm; khi ngó tới ngó lui biết rõ việc mình làm; khi ăn, uống, nhai,
nếm...; khi đi, đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng biết rõ việc mình
làm. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm
và tư duy thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được
an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh".
Tu tập Bát thánh
đạo dù bất cứ chi phần nào cũng đều phải có mặt của chánh kiến. Do vậy,
tự nhận thức và theo dõi, làm chủ bản thân luôn là hai yếu tố không thể
thiếu trong quá trình tu tập thân.
2)- Tu tập tâm: Tâm
thức luôn trôi nổi, biến động theo các điều kiện bên trong hay bên
ngoài cơ thể. Tu tập thân không thể đặt ngoài phạm vi tu tập tâm và
ngược lại. Khi tâm bị dao động hay ức chế bởi phiền não (kilesa), hoạt
động thân thể sẽ rối loạn ngay cả cái nhìn về cuộc đời cũng trở nên buồn
thảm. Thơ ca vẫn để lại bao lời than oán, ngậm ngùi:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" -- (Kiều, câu 1243-1244)
Do vậy, tu tập tâm
có tầm quan trọng đặc biệt trong việc ổn định cuộc sống. Toàn bộ kinh
điển, luật, luận Phật giáo không đi ra ngoài định hướng ấy. Nhận thức
hay có chánh kiến, suy nghĩ tìm ra mối liên hệ nhân duyên trong liên hệ
nội tại của các trạng thái tâm lý và thái độ tâm lý ứng xử là bước khởi
đầu để điều chỉnh, sửa đổi các hành vi thân khẩu (thuộc chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng) và cuối cùng là gột rửa khỏi tâm những bất thiện
pháp, phiền não, ganh ghét, oán hận có nguồn cội từ tham, sân, si. Nỗ
lực tu tập thiền định (chánh định - chánh niệm) là con đường đặc biệt
quan trọng, giải quyết tất cả các rối loạn tâm lý của nhân sinh. Ðồng
thời nó xác định tính chất đặc thù của Phật giáo, khác hẳn các tôn giáo
khác.
"Chúng ta có thể
rút ra một kết luận rõ ràng về những gì phải làm của một người tu tập
giải thoát. Hành giả chỉ có hai việc phải làm, như Thế tôn đã dạy, học
hỏi Phật pháp và tu tập thiền định. Ðây là ngõ đường chúng ta đến với
đạo Phật, đi vào đạo Phật" (Phật học khái luận, tr.283).
C- Kết luận
Thế giới hiện nay
đang từng bước phát triển, đi vào đa phương hóa toàn diện. Nhiều học
thuyết, lý thuyết triết học, đạo học đang được tái thẩm định để tìm ra
những giá trị ứng dụng cho nền văn minh hiện đại. Các nguyên lý, quy tắc
đạo đức cổ lệ cũng được thay đổi. Tuy nhiên, nếu phải tìm ra những phạm
trù đạo đức chung để xây dựng và góp phần ổn định mọi rối loạn trong
cuộc sống nhân sinh thì Bát thánh đạo chính là định hướng cho đời sống
cá nhân, gia đình và xã hội ở mọi quốc gia trên thế giới. Chừng nào con
người còn đau khổ, Bát thánh đạo vẫn còn là kim chỉ nam hướng dẫn mọi
hành vi, lời nói và tư tưởng thuộc tam nghiệp; chừng nào xã hội còn có
nhu cầu phát triển tốt đẹp, bát thánh đạo vẫn còn là định hướng tu chính
chính sách, đường hướng tổ chức hoạt động xã hội; và chừng nào mọi quốc
gia trên thế giới còn mong muốn đem lại an lạc cho nhân loại, chừng đó
bát chánh đạo vẫn là đóng góp của Phật giáo vào tiếng nói chung của nhân
loại trong tiến trình hòa bình thế giới. Có thể khẳng định giá trị của
tám phần thánh đạo như một bản đồ tu tập cho mọi người ở mọi thời đại.
Ðây cũng là ý kiến được rút ra từâ kinh nghiệm tu tập của Giáo sư Rhys
Davids, chủ tịch hội Pàli Text Society:
"Dầu là Phật tử hay
không phải Phật tử, tôi nghiên cứu từng hệ thống tôn giáo lớn trên thế
giới, và trong tất cả, tôi không tìm thấy trong tôn giáo nào có cái gì
tốt, cao đẹp và toàn vẹn hơn Bát thánh đạo của đức Phật. Tôi chỉ còn có
một việc làm là thu xếp nếp sống tôi cho phù hợp với con đường ấy". (Ðức Phật và Phật pháp, 1989, tr.295,bd)./.
* Chú thích:
(1) Vô kí: các cảm thọ không thuộc về thiện, ác cũng không thuộc về bất thiện hay khổ.
(2) Hữu học, vô
học: ba quả đầu trong 4 thánh quả Thanh văn được gọi là Hữu học (còn
phải học) còn quả thứ tư (A La Hán) được gọi là Vô học.
* Thư mục sách tham khảo:
1. Ðức Phật và Phật pháp (bd), HT. Nàrada, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, 1989, (dịch giả: Phạm Kim Khánh)
2. Phật học khái luận, TT. Thích Chơn Thiện, Ban giáo dục Tăng Ni, 1993
3. Thanh tịnh đạo luận (bd), Buddhaghosa, tập III, 1993 (dịch giả: Trí Hải)
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1- Trình bày nội dung Bát thánh đạo và liên hệ với Giới - Ðịnh - Tuệ.
2- Rút ra các giá trị thực nghiệm qua ứng dụng giáo lý Bát thánh đạo trong cuộc sống tự thân. |