Nhận thức cơ bản về Phật giáo
Thích Tố Huân
A. Dẫn nhập
Phật
giáo (PG) được khai sinh từ chiếc nôi thành Ca Tỳ La Vệ (thuộc nước Ấn
Ðộ bây giờ), trải qua hơn 2.500 năm lịch sử, đầy những thăng trầm, có
lúc tưởng chừng như đã biến mất hẳn ngay trên bản địa, Phật giáo vẫn tồn
tại và phát triển rộng rãi khắp năm châu. Hiện nay, sự thành tựu vượt
bậc của khoa học cùng với tư tưởng tiến hóa của nhân loại đòi hỏi thẩm
định lại giá trị của nhiều tư tưởng triết học xưa nay; và đương nhiên,
những tư tưởng mang tính phi lý, lạc hậu, phản khoa học đều phải tự đào
thải trước những văn minh tiến bộ của loài người. Thế mà tòa nhà cổ 25
thế kỷ của PG vẫn tồn tại cùâng với năm tháng thời gian, sừng sững như
cây đại thọ giữa núi rừng trùng điệp. Ðiều này chứng minh rằng Phật giáo
đã toát ra một sức sống mãnh liệt bắt nguồn từ một giá trị tinh thần
phong phú. Tinh thần ấy chính là sự thể hiện giáo pháp trong mỗi đời
sống con người. Ðể có thể khái niệm được ý nghĩa về tinh thần Phật giáo,
chúng ta có thể liên hệ mấy đặc tính sau đây:
B. Nội dung
* Nhân bản
* Bình đẳng
* Từ bi
* Vô ngã
I- Nhân bản
Ðiểm căn bản nhất
mà chúng ta nhận thấy được ở Phật giáo, vị giáo chủ không phải là một
thần linh, không phải là một Thượng đế đầy quyền uy thưởng phạt, mà là
một con người thật sự như bao người khác. Tên Ngài là Sĩ Ðạt Ta (Tất Ðạt
Ða), tiếng Phạn là Siddhàrtha. Ngài thuộc giai cấp Sát Ðế Lợi, dòng dõi
vua chúa, con của Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da. Ngài sinh ra, lớn
lên, đi học; vợ Ngài là Công chúa Da Du Ðà La, con Ngài là La Hầu La.
Thấu rõ những nỗi thống khổ sinh, già, bệnh, chết..., chứng kiến những
lầm than cơ cực của dân chúng trước những bất công của xã hội Ấn thời
bấy giờ, Ngài đã từ bỏ gia đình, vợ con, một mình ra đi tìm phương giải
quyết. Sau những tháng năm học đạo cùng với những đạo sĩ nổi tiếng bấy
giờ, kết quả ấy cũng không giúp được cho vị đạo sĩ trẻ tuổi thông minh
Sĩ Ðạt Ta giải quyết những vấn đề bức xúc trong lòng. Cuối cùng, Ngài đã
tự quyết định tự mình tham cứu. Suốt 49 ngày tham thiền nhập định dưới
cội bồ đề, khi sao Mai vừa mọc, Ngài đã thấu đạt được chân lý, rõ được
chân tướng của vạn pháp, Ngài đã giác ngộ thành đạo, hiệu là Thích Ca
Mâu Ni.
Sự kiện trên đây đã
hình thành một khái niệm về tính nhân bản của Phật giáo, con người là
trung tâm điểm của Phật giáo, hay nói một cách khác, không có nhân loại
thì Phật giáo không hiện hữu trên cuộc đời này.
Trong thế giới quan
Phật giáo, chủng loại được chia thành 6: Thiên, Nhơn, A tu la, Ðịa
ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Trong sáu cõi ấy, con người được ca ngợi là hội
dủ điều kiện tốt nhất để đạt đến cái quả vị tu chứng trong Phật giáo.
Phật giáo giải thích rằng chúng sanh ở cõi Thiên khó nhận thức được chân
tướng khổ đau, vì cuộc sống của họ quá ư sung sướng. Trái lại, ở các
cõi A tu la, Ðịa ngục, Súc sanh, Ngạ quỷ, chúng sanh quá si mê ngu dốt
trong hoàn cảnh tối tăm đọa đày nên cũng không dễ gì nắm bắt được giáo
nghĩa Phật Ðà. Duy chỉ có ở cõi Nhân, bản thân con người cùng hoàn cảnh
(là điều kiện thích ứng dễ dàng khơi sáng) nhận thức được những khổ đau
của cuộc đời và có khả năng khơi sáng ngọn đèn trí tuệ nơi chính tấm
thân nhỏ bé này.
Trong quan niệm
Phật giáo, con người là chủ nhân của mọi hành vi của chính bản thân mình
ở cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, là vị Thượng đế duy nhất toàn
quyền thưởng phạt cho chính cuộc đời mình; ngoài mình ra, không bất cứ
ai hoặc thần linh nào khác có khả năng đưa mình lên thiên đàng hay vất
mình xuống địa ngục. Kinh Pháp Cú, câu 345, Ðức Phật dạy rằng: "Chỉ
có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm, chỉ có ta tránh
điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi
ta, không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch".
Lại nữa, Phật giáo
luôn luôn đề cao nỗ lực và ý chí của con người. Tinh tấn là một trong
những đức tính quyết định việc thành tựu đạo quả Bồ đề, bến bờ giác ngộ
chẳng bao giờ có dấu chân của biếng lười và bạc nhược. Với những tâm hồn
khát khao tự do tuyệt đối, dốc hết sức bình sinh cùng với sự hiểu biết
chánh pháp một cách chân chính, mỗi chúng ta chắc chắn sẽ đạt được kết
quả tốt đẹp trên bước đường tu tập. Bằng ngược lại, cho dù ngàn vị Phật
dang tay tế độ cũng không làm sao đưa ta thoát khỏi biển trần lao đầy
thống khổ này.
Ngoài ra, Phật giáo
còn đề cập đến những trường hợp của những thời kỳ không có Ðức Phật ra
đời, có những con người tự lực, tự vận dụng triệt để ý chí và khả năng
của chính mình trong quá trình tư duy, chiêm nghiệm và tu tập đúng đắn,
quán tưởng và thấu rõ lý vô thường của vạn pháp, vẫn có thể bừng sáng
được chân lý. Ðức Phật công nhận những người này là Bích Chi Phật. Tính
nhân bản được thể hiện mạnh mẽ ở điểm này. Ðây là một đặc điểm ưu việt
của đạo Phật mà chúng ta khó tìm thấy ở một giáo lý của bất cứ tôn giáo
nào khác, một đấng giáo chủ lại đề cao khả năng của con người một cách
khách quan như vậy. Xuất phát từ tính nhân bản này, nhân cách con người
được tôn trọng triệt để trong Phật giáo: quyền sống, quyền tự do, quyền
bình đẳng... đều có một giá trị đích thực. Phần này, chúng ta sẽ bàn
thêm ở sau.
Ðiều đáng nói nhất
về khả năng của con người mà Phật giáo luôn nhấn mạnh chính là trí tuệ.
Ðó là khả năng tối cao của nhân loại, là di sản vô cùng quý báu mà bất
kỳ ai nếu biết vận dụng và phát huy đúng đắn đều có thể tận diệt mọi khổ
đau, đạt đến bến bờ hạnh phúc. Ðiều này đã được minh chứng cụ thể qua
đời sống của Ðức Phật cùng những vị tiền nhân kế thừa trong lịch sử đạo
Phật. Ðồng thời, Ðức Phật đã tuyên bố: "Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật".
Trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, từ cuộc sống thô sơ lạc hậu của
thời xa xưa cho đến hôm nay, những phát minh khoa học cùng những thành
quả vinh quang của nó đã đưa nhân loại đến thời kỳ vàng son của tối tân
hiện đại. Kết quả ấy có được là do từ khả năng khối óc của con người. Dù
vậy, theo phân tích của Phật giáo, khả năng đó chỉ mới là giới hạn của
một phần trí tuệ, hay nói một cách khác, con người của khoa học chỉ mới
vận dụng được cái trí sáng thế gian của mình, chưa phải là trí tuệ của
mỗi con người như Ðức Phật đã chỉ rõ trong giáo điển, thuật ngữ đó tạm
gọi là Trí tuệ Bát nhã, và chính trí tuệ ấy là chiếc chìa khóa vàng duy
nhất để mở cánh cửa vô sanh của Niết bàn tịch tĩnh.
Tóm lại, đối với
Phật giáo, con người vốn là một chúng sanh ưu việt, có rất nhiều tiềm
năng phi thường; nếu chúng ta khéo triển khai thì không gì không thực
hiện được trên cõi đời này. Như vậy, ta có thể nói rằng Phật giáo là
Phật giáo của con người, xuất phát từ Ðức Phật Thích Ca, Ngài là đấng
Giác Ngộ nhưng Ngài là một con người; Ngài đã cất tiếng nói và có một
đời sống rất người, và vì con người mà khai thị chân lý, hướng dẫn con
người đến đời sống thực sự an vui.
II- Bình đẳng
Chúng ta biết rằng
Phật giáo đã ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng phức tạp của một đất
nước mà trong đó, đời sống con người phải chịu nhiều bất công trong chế
độ phân chia giai cấp lâu đời của xã hội Ấn thời bấy giờ. Giai cấp Bà La
Môn tập trung số người tu của 62 đạo phái khác nhau, chủ trương công
việc lễ nghi, tế tự; giai cấp này chiếm vị trí tối cao. Kế đến là giai
cấp Sát Ðế Lợi, tập trung dòng dõi vua chúa, là giai cấp nắm quyền điều
hành xã hội. Giai cấp thứ ba là Tỳ Xá, bao gồm những người bình dân. Ða
phần còn lại thuộc giai cấp Thủ Ðà La, họ làm những nghề hạ tiện, cũng
gọi là dân nô lệ. Hai giai cấp Bà La Môn và Sát Ðế Lợi thuộc giai cấp
thống trị, Thủ Ðà La và Tỳ Xá thuộc giai cấp bị trị. Bốn giai cấp này
theo chế độ thế tập, cha truyền con nối. Vì vậy, người dân nô lệ thì cứ
đời đời làm nô lệ, tạo thành một xã hội bất công.
Ngay trong buổi
hoàng hôn tăm tối của một thực trạng như vậy, một hiền nhân thuộc dòng
dõi vua chúa đã dũng mãnh gióng tiếng chuông tiên phong phá tan bóng đêm
của xích xiềng nô lệ và bức tường phi lý của phân chia giai cấp bằng
một châm ngôn vĩ đại: "Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và dòng nước mắt cùng mặn".
Lời tuyên bố hùng hồn ấy của Ðức Phật là nền tảng để hình thành một hệ
thống giáo lý, mà trong đó tính bình đẳng được thể hiện trọn vẹn cả về
phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn.
Theo Phật giáo, mọi
sai biệt trên thế giới này đều tùy thuộc vào các nhân duyên mà sinh
khởi; cũng vậy, sự khác nhau về địa vị, hoàn cảnh giàu sang hay nghèo
khổ, ngu dốt hoặc thông minh... tất cả đều hoàn toàn do hành vi tạo tác
của mỗi con người chứ không phải do tự nhiên hay được sắp đặt theo bất
kỳ một thông lệ hoặc quy định nào. Trên tinh thần này, sự phân chia giai
cấp trở thành phi lý và vô nghĩa. Việc Thái tử Sĩ Ðạt Ta từ bỏ ngôi vị
đế vương, quay lưng với tất cả vinh hoa phú quý, khước từ mọi đặc ân cao
tột dành cho giai cấp vua chúa, một thân độc hành với chiếc áo thô sơ,
đầu trần chân đất, vân du đây đó... đã thể hiện tinh thần bình đẳng
tuyệt vời của Ngài. Và cũng chính Ðức Phật, con người với đời sống giản
dị khiêm tốn ấy, đã thể hiện lòng bình đẳng trong suốt cuộc đời giáo hóa
chúng sinh. Ngài rải tình thương vô biên xuống tất cả muôn loài một
cách công bằng vô phân biệt. Từ hạng người cùng đinh như gã gánh phân,
thợ cạo tóc cho đến những người giàu sang phú quý, từ những hạng người
thấp hèn ti tiện như gái giang hồ cho đến các bậc vua chúa quyền uy, Ðức
Phật luôn thương yêu, chân tình giúp đỡ, khuyên dạy để họ nhận thức
được chân giá trị của cuộc sống và tự thăng hoa tâm hồn, đạt đến an lạc
hạnh phúc. Lòng bình đẳng ấy không phải dừng lại ở nhân loại mà lan tỏa
đến muôn loài vạn vật. Ngài luôn dạy rằng tất cả sinh vật đều có cùng
tâm lý tham sống sợ chết, vì vậy không vì lý do gì mà ta nỡ cướp đi mạng
sống của kẻ khác, như vậy nghĩa là không bình đẳng. Tâm trạng buồn nhớ
mẹ của một chú cừu non lạc đàn chẳng khác gì sự đau buồn của một người
mẹ phải chia lìa với con thơ bởi một nguyên nhân nào đó. Và vì vậy, sinh
mạng của một con vật cũng quý như bất kỳ sinh mạng của một ai. Với quan
điểm này, trên bước đường du hóa, có lần Ðức Phật đã tự tay bế một chú
cừu non lạc đàn tìm về với mẹ. Và cũng chính Ngài đã lên tiếng giải
thích và vạch rõ những ngu xuẩn của bọn người vì mê tín dị đoan, làm lễ
tế thần bằng cách hiến dâng những con thú sống, để cứu lấy con vật vô
tội thoát khỏi cái chết hỏa thiêu đau đớn chỉ vì một sự tin tưởng mù
quáng.
Trong giáo điển,
Phật giáo quan niệm rằng tất cả mọi loài chúng sanh, từ con người cho
đến các sinh vật nhỏ bé côn trùng đều tiềm ẩn một khả năng phi thường
như nhau, đó là khả năng thành Phật (Phật tính). Nhưng do các đặc tính
cố hữu ở mỗi loài, việc triển khai khả năng ấy tùy đó mà khó dễ, nhanh
chậm khác nhau. Ðiều này có thể tóm ý trong một câu kinh: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành". Ðây là nền tảng để hình thành tính bình đẳng triệt để trong đạo đức luân lý Phật giáo.
III- Từ bi
Từ bi là chất liệu
không thể không có trong Phật giáo. Từ thường cho vui, Bi thường cứu
khổ. Ðó là trọng trách thiêng liêng mà Phật giáo đã mang trên mình đi
suốt 25 thế kỷ qua, bằng mọi cách để thực hiện ở bất cứ nơi nào. Và
chính vì sứ mệnh cao cả này mà đạo Phật đã tồn tại trên một lịch sử lâu
dài của loài người, và phát triển cũng chỉ bằng chất liệu yêu thương mà
hoàn toàn không sử dụng một bạo lực bạo quyền, không dính dáng đến lưỡi
gươm mũi súng. Chất liệu yêu thương của Phật giáo như dòng suối mát lịm
ngọt ngào đã làm cho vạn vật xanh tươi, cỏ cây đâm chồi nẩy lộc. Cũng
vậy, Từ bi đã hiện hữu giữa cuộc đời, là thần dược xoa dịu những niềm
đau nhân thế, hàn gắn những rạn vỡ tình người, xua tan những oán hờn thù
hận; và hơn thế nữa, giải quyết những căn bản khổ đau của kiếp phù
sinh, đưa ta đến an vui trọn vẹn.
Theo nghĩa căn bản, "Từ" nói cho đủ là Từ năng dữ nhất thiết chúng sanh chi lạc, Bi năng bạt nhất thiết chúng sanh chi khổ, vắn tắt "Từ năng dữ lạc, Bi năng bạt khổ",
có nghĩa là lòng Từ thường mang niềm vui cho tất cả chúng sanh, lòng Bi
diệt mọi khổ đau cho tất cả chúng sanh. Ở lãnh vực tình cảm, lòng
thương yêu của Phật giáo có thể sánh với lòng mẹ thương con bao la rộng
rãi. Tuy vậy, khi đi sâu vào ý nghĩa của nó, chúng ta thấy rằng lòng Từ
bi là một tình thương vượt qua mọi ranh giới, mọi quan hệ và bao trùm
lên trên tất cả muôn loài. Trong thế gian, thương yêu bao giờ cũng đi
đôi với hạnh phúc; tuy nhiên, những loại tình cảm ở đời chỉ hạn cuộc
trong một quan hệ, một đẳng cấp, một chủng loại, một phạm trù nào đó.
Khi vượt ra ngoài phạm trù ấy, lắm khi chúng ta lại đối xử xa lạ, hững
hờ, kỳ thị với nhau, thậm chí còn dẫn đến chống đối, tàn sát lẫn nhau
một cách khủng khiếp.
Trong khi đó, Từ bi
vượt lên tất cả mọi tình thương hẹp hòi của thế gian, không bến bờ,
không biên cương, không hạn định. Lòng thương yêu ấy tuyệt nhiên không
chứa đựng bất kỳ ý niệm kỳ thị nào, dù cho đó là một tín đồ Phật giáo
hay không phải. Ðối với Phật giáo, tất cả chúng sanh đều là bạn hữu, và
mọi nơi chốn trên thế gian này đều là nơi chôn nhau cắt rốn, là quê
hương xứ sở của mình. Lòng thương vô cùng ấy tựa như ánh mặt trời tỏa
sáng khắp không gian, bao trùm muôn loài vạn vật, chẳng phân biệt đây
hay kia, thân hay sơ, bạn hay thù, giàu hay nghèo, sang hay hèn, người
hay vật.
Từ ý nghĩa này,
Phật giáo đã có một tinh thần khoan dung, cảm thông và tha thứ. Chúng ta
đang sống giữa một thời đại mà quyền lực và danh vọng đang khống chế
con người, tham vọng nhân loại bùng vỡ một cách cùng cực, chiến tranh
liên tục xảy ra, những cuộc chạy đua kinh tế, chính trị, quân sự đang
phô bày khắp nơi trên thế giới, lửa hận thù tràn ngập khắp hành tinh.
Thảm trạng này đang là cơ hội đưa nhân loại đến vực thẳm của diệt vong.
Chính ngay lúc này, Từ bi là chất liệu rất cần thiết cho cuộc đời; và
chỉ có vận dụng lòng thương yêu ấy của Phật giáo, chúng ta mới thật sự
có đủ năng lực dập tắt ngọn lửa chiến tranh và hận thù đang ngút ngàn
giữa buổi hoàng hôn của thế kỷ 20 này.
Ðức Phật dạy: "Hận thù không dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương yêu mới dập tắt được hận thù, đó là định luật của ngàn xưa".
IV- Vô ngã
Nhận xét về thế
giới sự vật hiện tượng, Phật giáo khẳng định rằng mọi sự vật trên đời
đều không có một tướng trạng cố định, tất cả đều luôn luôn biến đổi,
chuyển động không ngừng; hay nói cách khác, vạn pháp luôn luôn đang trôi
chảy. Trong khi đó, nhận thức thông thường của chúng ta tưởng chừng như
mọi sự vật đang thực sự hiện hữu và cố định; kỳ thực, tất cả đều đang
chuyển động một cách vi tế mà ta khó nhận rõ được. Nhưng nếu bình tâm và
chịu khó quan sát, ta có thể hiểu được điều này; chỉ cần nhìn vào các
sự vật quen thuộc nhất trong đời sống thường nhật như cái bàn, căn nhà
v.v..., ta sẽ nhận thức được ý nghĩa ấy. Cái bàn khi mới được đóng
thành, nó rất mới; nhưng qua một thời gian, nó đã trở thành cũ. Và cứ
thế, theo thời gian, nó cũ dần và cuối cùng có thể chỉ còn lại những
mảnh vụn. Tất cả các sự vật cũng đều cùng tuân thủ theo một cách như
vậy, ta có thể nói rằng tất cả tướng trạng của sự vật đều là tạm thời;
và vì luôn chuyển đổi, nên sự vật mà ta nhận biết được chẳng qua cũng
chỉ là một chuỗi thay đổi liên tục của vô số tướng trạng từ mới đến cũ,
từ trẻ đến già, từ sanh đến diệt... Phật giáo tạm phân quá trình vận
động ấy thành 4 giai đoạn "sanh, trụ, dị, diệt" hoặc "thành, trụ, hoại, không".
Như vậy, theo Phật giáo, tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới
này đều hoàn toàn không có một cái chủ tể nhất định, luôn luôn chuyển
động. Và vì vậy, tất cả đều vô ngã, nghĩa là không thật có một tướng
trạng nhất định, bất di bất dịch. Ðây gọi là Vô ngã tính.
Liên hệ đến bản
thân của mỗi người, vì không thấy rõ được sự thật của tướng trạng này,
không nhận biết được sự giả hợp của ngũ uẩn tạo thành tấm thân này; nên
ngay từ lúc lọt lòng mẹ, một cái tên gọi cùng với nhận thức sai lầm về
cái Tôi đã tạo thành một ngộ nhận căn bản về sự hiện hữu và giá trị của
một con người. Từ đó, tính chấp thật và sự ích kỷ hình thành; đây chính
là giềng mối của bao nỗi thống khổ mà chúng ta đã cưu mang suốt cả kiếp
người. Chính ảo mộng về một cái Tôi và những cái Của Tôi đã đưa đến thảm
trạng chiến tranh, hận thù cấu xé lẫn nhau.
Phật giáo đã soi
sáng chân tướng của vạn pháp bằng ánh sáng của chân lý vô ngã. Sự soi
sáng ấy không nhằm mục đích thỏa mãn tri thức của nhân loại, mà nó mang ý
nghĩa trình bày một sự thật về tướng trạng của con người và thế giới,
nhằm mục đích xây dựng cho nhân loại một nhận thức đúng đắn hướng đến
một nếp sống cao đẹp, đầy tình người. Thật vậy, một khi chúng ta nhận
thức được bản chất thực của tấm thân ta đang mang giữ giữa cuộc đời này,
thấu rõ được cái ta gọi là Ta, là Tôi, là Của Tôi, chỉ là những gì rất
mong manh, không bền chắc, luôn biến chuyển. Khi ấy, bức tường thành của
ích kỷ hẹp hòi mới thực sự sụp đổ, ranh giới của chủ nghĩa cá nhân mới
bị xóa nhòa, thành trì của bảo thủ mới thực sự bị phá vỡ, lòng bao dung
vị tha sẽ bừng sáng trong tâm hồn mỗi con người, nhân loại xích lại gần
nhau để mỉm cười, thương yêu và cùng sống hòa ái với nhau trong tinh
thần khoan dung và tha thứ, sẵn sàng quên đi những lầm lỗi mà chúng ta
đã từng gây tạo cho nhau. Hạnh phúc thực sự hiện hữu ngay trên quả đất
này.
Tóm lại, tinh thần
Vô ngã vị tha là một trong những điểm quan trọng khiến Phật giáo phát
huy và tồn tại khi đi đến bất cứ một quốc gia nào. Chính điểm này là một
trong những căn bản tạo nên mạch sống cho Phật giáo tồn tại cùng với
lịch sử tiến hóa của nhân loại, và bao giờ Phật giáo cũng luôn hiện hữu
chỉ vì hạnh phúc và an sinh của loài người. Với tình trạng hiện thời của
thế giới, tiếng chuông báo động của các nhà khoa học về các mối nguy cơ
của trái đất thân yêu đang gióng lên liên tục, sinh mệnh của nhân loại
đang bị đe dọa bởi quá nhiều nguyên nhân cũng do chính mình gây tạo.
Ngồi lại với nhau trong tình thương yêu, đoàn kết liên hiệp trong cùng
một chí hướng là điều quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề trên.
Tinh thần vô ngã vị tha, lòng từ bi, sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau
là nhân tố cần thiết để thực hiện được điều ấy.
C. Kết luận
Những điều vừa
trình bày trên đây: Nhân bản, Bình đẳng, Từ bi, Vô ngã là những trọng
điểm được đề cập trong Phật giáo, nhưng đó chính là những yếu tố cần
thiết của con người nếu muốn tạo hạnh phúc thật sự cho chính mình và
thiết lập một nền hòa bình thực sự cho nhân loại. Như vậy, chúng ta có
thể nói rằng, Phật giáo là Phật giáo của con người, nhằm giải quyết
những vấn đề cơ bản nhất của con người. Mặc dù đối tượng của Phật giáo
là tất cả chúng sanh, nhưng con người là trung tâm điểm, là đối tượng
duy nhất để mang bức thông điệp trao cho cuộc đời, là loại chúng sanh có
khả năng tốt nhất để thực hiện bức thông điệp ấy. Thực hiện bức thông
điệp ấy có nghĩa là phải thực sự vận dụng được những tinh hoa Phật giáo
vào trong đời sống và tâm hồn của chính mình.
Mặc dù đời sống
luôn biến đổi theo dòng chảy của thời gian, nhưng trong sự mong manh phù
du ấy của cuộc đời, ta vẫn luôn nhìn thấy được một điều gì thật dễ
thương, thật ý nghĩa, thật thú vị giữa trần gian mộng mị. Và chỉ khi nào
thực sự sống trọn vẹn trong tinh thần cao đẹp ấy của Phật giáo, chúng
ta mới trọn hưởng niềm hạnh phúc vô biên./.
* Sách tham khảo
1. Ðức Phật và Phật pháp - Nàrada, Phạm Kim Khánh dịch, Nxb Thuận Hóa và Thành hội PG TP HCM, 1994
2. Phật học khái luận, Thích Chơn Thiện, Viện NCPHVN, TP HCM, 1997
-oOo-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1)- Những đặc tính cơ bản của Phật giáo là gì?
2)- Sự khác biệt giữa tinh thần nhân bản và vô ngã như thế nào?
3)- Hãy phân tích tinh thần từ bi của đạo Phật thông qua cuộc đời hành đạo của Ðức Phật.
4)- Phật giáo quan niệm về bình đẳng như thế nào? |