Phần II - Bài đọc thêm
Thuyết Nghiệp
Minh Chi
Dàn bài và những ý chính
1)- Ðịnh nghĩa nghiệp là gì?
- Nghiệp là mọi hành động có dụng tâm.
- Thân thọ nghiệp và tâm thọ nghiệp.
2)- Nghiệp của người sắp chết
- Vai trò của hộ niệm.
3)- Tầm quan trọng lớn lao của thuyết nghiệp đối với cá nhân và xã hội
-oOo-
Mỗi
cá nhân đều tin rằng mình là chủ nhân cuộc sống của mình, mỗi cá nhân
đều thấy mình có trách nhiệm đầy đủ về mọi hành vi của mình, lời nói và ý
nghĩ hàng ngày, hàng giờ, phút của mình. Mọi người đều tin sống thiện
là sống hạnh phúc ngay trong hiện tại, và cả sau này. Và sống ác là sống
đau khổ và bất hạnh, ngay trong hiện tại và cả về sau nữa. Do đó mà
không ai bảo ai, mọi người đều lo làm điều thiện, sống thiện, không
những không làm hại ai, mà còn sẵn sàng giúp người. Giúp người là giúp
mình, hại người là hại mình. Ðó là bài học thiết thực và đơn giản của
thuyết nghiệp. Với thuyết nghiệp được phổ biến và áp dụng rộng rãi, đạo
đức xã hội sẽ có bước cải thiện đáng kể, tệ mê tín dị đoan giảm bớt, số
tiền trước đây dành cho các chuyện cúng sao, giải oan, giải nghiệp, giải
hạn sẽ được đem bố thí cho kẻ nghèo đói, đem giúp cho quỹ xóa đói giảm
nghèo. Thuyết nghiệp của đạo Phật tạo ra một xã hội, trong đó, người
người làm thiện, nói thiện và nghĩ thiện. Các tệ nạn xã hội sẽ dần dần
bị loại trừ. Mọi người sẽ được sống yên ổn và hạnh phúc.
1)- Ðịnh nghĩa về Nghiệp
Sách Phật định
nghĩa nghiệp là hành động có dụng tâm. Ðạo Phật có một quan niệm rộng về
hành động. Hành động ở nơi thân, thường được gọi là việc làm, và một
việc làm có dụng tâm được gọi là thân nghiệp. Nhân ngày Tết,
chúng ta tổ chức phóng sanh, với lòng thương yêu loài vật, thì đó là một
thân nghiệp lành. Lời nói có dụng tâm thì gọi là khẩu nghiệp.
Người bình thường hay nói: "Lời nói rồi bay mất". Câu ấy không đúng. Mọi
lời nói ác, khi có đủ nhân duyên và đúng thời gian đều sẽ đem lại quả
báo xấu cho người nói. Lời nói thiện lành cũng có tác dụng như vậy, theo
hướng thiện lành. Thí dụ, tôi không có tiền. Nhưng gặp người nghèo đói,
bất hạnh, tôi có lời an ủi, thông cảm. Lời an ủi đó, bắt nguồn từ tình
thương chân thật là một nghiệp miệng lành, tương lai sẽ đem lại cho tôi
quả báo lành. Có dụng tâm thiện hay ác là ý nghiệp, mặc dù ý nghĩ
đó chưa thành lời nói hay hành động. Một người tuy cả ngày ngồi nhà,
nhưng đầu óc anh ta luôn bày mưu tính kế làm giàu bằng những thủ đoạn
như buôn gian, bán lận, đút lót cán bộ v.v... thì những mưu gian, kế độc
của anh ta, tuy chưa đem ra thi hành, nhưng cũng đều là những ý nghiệp
xấu, tương lai sẽ mang lại quả báo xấu cho anh ta.
Tuy nhiên, mọi hành động, dù là thân làm, miệng nói, hay ý suy nghĩ, không phải là nghiệp tất cả, mà chỉ có những hành động có dụng tâm hay dụng ý mới gọi là nghiệp.
Những điều nói trên đây đưa tới hai kết luận quan trọng: thứ nhất,
chúng ta hàng giờ, hàng phút có thể tạo nghiệp mà không biết, bởi vì,
chỉ trừ khi chúng ta ngủ, còn thì chúng ta thường xuyên hoạt động, nói
năng và suy nghĩ; và mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm , cử chỉ, hành động
của chúng ta đều có thể tạo nghiệp, làm thay đổi cuộc sống của chúng ta
hiện nay và mai sau. Kết luận quan trọng thứ hai là một nghiệp thiện
hay ác, lành hay dữ, nặng hay nhẹ, đều do ở chỗ dụng tâm.
Dụng tâm thiện đưa
tới quả báo thiện, dụng tâm ác đưa tới quả báo đau khổ. Cũng như người
trồng dưa thì sẽ có cây dưa và quả dưa để ăn. Không thể trồng dưa mà lại
mọc ra cây đậu. Tất nhiên, trồng dưa vẫn có thể không có dưa ăn, nếu
không biết trồng. Hơn nữa, dù cho có biết trồng thì cũng phải có thời
gian nhất định, cây dưa mới mọc và lớn lên và cho quả. Tạo nghiệp ác hay
nghiệp thiện cũng như vậy, nghĩa là phải có đủ nhân duyên và thời gian
thích hợp thì mới có quả báo thiện hay ác. Có người tuy hiện nay tạo ra
nhiều nghiệp ác, nhưng vẫn sống sung sướng trong hoàn cảnh giàu sang, là
vì người ấy trong một kiếp trước đã tạo ra nhiều nghiệp thiện, đến đời
này vừa đúng thời gian lại có điều kiện thích hợp cho nên được quả báo
lành, được hưởng giàu sang phú quý. Còn những nghiệp ác anh ta tạo ra
trong đời sống hiện tại, thì chưa đến thời gian chín muồi, lại chưa có
nhân duyên thích hợp, cho nên quả báo ác chưa đến (chứ không phải không
đến!).
Hơn nữa, chúng ta cần phân biệt thân thọ nghiệp, tức là nghiệp mà thân cảm thọ, với tâm thọ nghiệp,
là nghiệp mà tâm cảm thọ. Một người đã làm điều ác, thì tâm thọ nghiệp
bao giờ cũng khổ, anh ta ray rứt không yên. Hay là, trong khi làm điều
ác, anh ta có thể thản nhiên, nhưng sau đó, nhất là về đêm, anh ta sẽ
hối hận, bức xúc, không ngủ được.
Ngược lại, có người
hiện nay có nếp sống rất thiện lành, nhưng đời sống lại nghèo khổ, cơ
cực, lại thường gặp nhiều rủi ro, bất hạnh. Ðó là do những nghiệp ác mà
người ấy làm trong một đời sống trước, đến đời này đã chín muồi, lại gặp
nhân duyên đầy đủ, cho nên quả báo đau khổ hiện tiền, không thể tránh
được. Nhưng vì anh ta có duyên lành được nghe giảng Phật pháp, hiểu được
thuyết nghiệp, cho nên quyết tâm bỏ mọi điều ác, làm mọi điều lành.
Người đó tuy sống nghèo khổ, có thể gặp phải nhiều điều bất hạnh ở đời
này, do nghiệp ác đã làm trong đời trước nay đã chín muồi, nhưng do hiện
tại anh thường xuyên làm điều thiện, cho nên trong tâm vẫn được an
vui... Nói tóm lại, nếu đứng về tâm thọ nghiệp thì có thể nói là
quả báo xảy ra tức thời, như bóng theo hình, hay là như bánh xe lăn theo
chân con bò, đúng như trong kinh Pháp Cú, bài kệ I và II viết:
"Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe chân vật kéo"
"Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình".
-- (Kinh Pháp Cú, bản dịch Th. Minh Châu, tr. 11 và 12)
Hai bài kệ trên còn
cho thấy vai trò làm chủ của ý, tức là của dụng tâm đối với thân nghiệp
và khẩu nghiệp, tức là nghiệp nơi thân (thân nghiệp) và nghiệp nơi lời
nói (khẩu nghiệp). Cũng do vậy mà đạo Phật luôn luôn nhấn mạnh trong
thuyết nghiệp là dụng tâm, chế ngự tâm, làm sao cho tâm mình luôn luôn
nghĩ thiện, nghĩ lành, tâm luôn luôn được thanh tịnh, trong sáng thì tự
khắc mọi nghiệp nơi thân và lời nói cũng sẽ tự khắc trong sáng và thanh
tịnh, đời này và đời sau sẽ được an lạc, hạnh phúc.
Không có hành động nhỏ, tầm thường; chỉ có dụng tâm nhỏ, tầm thường
Khi thuyết nghiệp
của đạo Phật nhấn mạnh ý nghĩa quyết định của dụng tâm, nó còn cảnh tỉnh
chúng ta không nên xem thường những hành động nhỏ nhặt. Vì những hành
động nhỏ nhặt và bình thường đó có thể đem lại những hậu quả rất lớn,
tích cực hay tiêu cực, thiện hay ác. "Một đốm lửa có thể đốt cháy cả
cánh đồng", câu nói này trong dân gian rất đáng suy ngẫm, nếu chúng ta
muốn tiến bộ tâm linh và đến gần đích giác ngộ và giải thoát tối hậu.
Thế gian là vô
thường, biến đổi trong từng giây phút. Ai có chú ý quan sát đều có thể
cảm nhận tánh vô thường đó. Yếu tố quyết định sự thay đổi chính là hành
vi của từng cá nhân con người và cộng đồng loài người. Và, nội dung
chính của hành vi là cái dụng tâm của chúng ta. Ðạo Phật cho rằng không
có kẻ thù nào hại mình hơn là cái tâm nghĩ bậy làm hại mình. Cũng không
có người nào giúp ích được mình hơn là cái tâm của mình nghĩ thiện, nghĩ
lành. Vì vậy mà kinh Phật khuyên phải luôn chánh niệm tỉnh giác. Hai
bài kệ 42 và 43 của kinh Pháp Cú viết như sau:
"Kẻ thù hại kẻ thù
Oan gia hại oan gia
Không bằng tâm hướng tà
Gây ác cho tự thân"
"Ðiều mẹ cha, bà con
Không có thể làm được
Tâm hướng chánh làm được
Làm được còn tốt hơn"
-- (Kinh Pháp Cú, bản dịch Th. Minh Châu, tr. 32-33)
Trong đạo Phật, Bồ Tát tiêu biểu cho những người phát tâm rộng lớn, thường được gọi là vô lượng tâm. Sách Phật thường nói tới Bốn tâm vô lượng là từ, bi, hỷ, xả.
Kinh Từ Bi định nghĩa lòng từ vô lượng như là lòng thương của người mẹ
đối với đứa con một của mình. Lòng bi vô lượng là lòng thông cảm sâu sắc
với nỗi khổ của tất cả mọi loài. Lòng hỷ vô lượng là lòng sẵn sàng chia
sẻ niềm vui với tất cả mọi loài. Và cuối cùng, lòng xả vô lượng là tâm
của vị Bồ Tát rộng lớn như hư không, như biển cả không còn bợn chút vị
kỷ, không còn vướng mắc dù là một chút hệ lụy thế tục, cho nên vị Bồ Tát
có thể dũng mãnh hy sinh để cứu độ tất cả chúng sanh ra khỏi biển khổ.
Vì có dụng tâm lớn
như vậy, cho nên việc làm của vị Bồ Tát thật khó mà đánh giá được theo
bậc thang giá trị bình thường. Công đức của họ là vô lượng vô biên. Vì
họ làm bất cứ công việc gì, nhỏ cũng như lớn, với Bốn tâm vô lượng như
vậy, cho nên công đức của họ cũng là vô lượng.
Chúng ta có thể có một khái niệm về tâm vô lượng của Bồ Tát, qua bốn lời nguyện:
"Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành"
Một truyền thống
rất đẹp và cũng rất có ích về mặt giáo dục nhân cách của Tăng chúng Phật
giáo trong các chùa, tu viện là làm bất cứ việc gì cũng đề cao ý nghĩa
biểu trưng của việc đó đối với sự nghiệp độ thoát chúng sanh, tẩy sạch
mọi phiền nào, thành tựu đạo giải thoát và giác ngộ vô thượng, cả những
việc hàng ngày như quét sân, bửa củi, phóng uế v.v..., họ cũng nghĩ tới
sự nghiệp độ sanh, nhiệm vụ giữ gìn tâm mình luôn luôn trong sạch, thanh
tịnh v.v...
Thực ra, sự phân
biệt giữa tâm thọ nghiệp và thân thọ nghiệp rất là tương đối. Khi chúng
ta nhìn một người ở nhà lầu, đi ô-tô, có một địa vị xã hội cao thì chúng
ta nói người ấy có một thân thọ nghiệp sung sướng, để phân biệt với một
loại cảm thọ khác mà cũng người ấy đang chịu đựng. thí dụ, anh ta có
một người vợ ngoại tình, không chung thủy, có một đứa con trai lêu lổng,
không chịu học hành, một đứa con gái mất nết, bị bệnh AIDS v.v..., và
chúng ta nói, anh ta đang có một tâm thọ nghiệp khổ sở, vì những chuyện
gia đình bất hạnh. Chúng ta hãy đi sâu thêm một bước nữa và hỏi: Với một
tâm trạng đau khổ như vậy, con người này có cảm thấy sung sướng được ở
nhà lầu, đi ô-tô và có địa vị xã hội cao hay không? Chắc chắn là không.
Chỉ nhìn bộ mặt thiểu não của ông ngồi trên ô-tô thì biết ngay.
Trên thực tế, tâm dao động hay ức chế thì sẽ không có cảm thọ gì hết. Ðúng như Khổng Tử nói: "Tâm bất tại yên, thị nhi bất kiến, thính nhi bất văn, thực nhi bất tri kỳ vị" (Tâm mà không hiện hữu, thì nhìn mà không thấy, nghe mà không biết, ăn mà không biết mùi vị).
Nói tâm không hiện hữu cũng như nói "tâm nghĩ đâu đâu".
Chúng ta một lần
nữa, trở về với một chân lý của đạo Phật: Ở trong con người tâm là cái
quyết định, cái làm chủ. Hãy tu tập tâm để cho tâm bao giờ cũng trong
sáng, thuần thiện, không nhỏ nhen vị kỷ, mà có tình thương rộng rãi đối
với mọi người, mọi loài. Tự khắc, mọi nghiệp chúng ta tạo ra đều thiện
lành, và chúng ta sẽ có một đời này và đời sau hạnh phúc.
2)- Nghiệp của người sắp chết: một vấn đề phức tạp
Trên đây đã trình
bày thuyết nghiệp của Phật giáo trên những nét đại cương. Một thuyết dễ
được chấp nhận, vì nó công bằng, và đề cao trách nhiệm của con người đối
với cuộc sống, của bản thân cũng như đối với cuộc sống xã hội. Cuộc
sống đó hạnh phúc hay bất hạnh không phải là do thần thánh xếp đặt, mà
là do tự bản thân chúng ta. Cuộc sống xã hội cũng vậy, nó do nỗ lực tập
thể của cộng đồng người trong xã hội đó quyết định, chứ không phải do
thần thánh nào an bài.
Tuy nhiên, trong thuyết nghiệp cũng có một vài vấn đề phức tạp, cần làm sáng tỏ. Thí dụ, vấn đề nghiệp của người khi lâm chung.
Theo thuyết nghiệp
của đạo Phật, tâm trạng của người sắp chết có ảnh hưởng rất lớn đến
hướng tái sanh của người đó ở kiếp sau. Nếu đó là tâm trạng thiện lành,
vui vẻ, tỉnh táo thì có thể đoan chắc người đó sẽ được tái sanh vào các
cõi lành, cõi sung sướng, tức là cõi người và cõi trời. Trái lại, nếu
người đó bị hôn mê, vật vã, la hét như là cảnh khổ đang hiện tiền, thì
có thể đoan chắc người đó sẽ tái sanh vào các cõi khổ, như địa ngục, quỷ
đói và súc sanh. Cuộc sống của chúng ta như thế nào, thì chúng ta sẽ có
một cái chết và một đời sống kiếp sau tương xứng với cuộc sống đó.
Người sống với lòng tốt, có đạo đức, với tâm hồn luôn trong sáng và bình
thản, thì sẽ được hưởng một cái chết tỉnh táo, nhẹ nhàng, như lá rụng
mùa Thu, và một đời sống kiếp sau an lạc, sung sướng. Ðó là một quy luật
hết sức công bằng và hợp lý.
Vì vậy, cái được gọi là nghiệp gần chết (sách Hán gọi là cận tử nghiệp)
thực ra là kết quả hợp thành của tất cả các nghiệp mà con người đó đã
tạo ra trong cả một đời. Ðây không phải là một vấn đề lý thuyết, mà là
một vấn đề rất thực tiễn. Mọi người sắp chết đều nhớ lại, thấy lại mọi
nghiệp thiện hay ác mà mình đã tạo ra trong suốt cuộc đời, kể cả những
ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực, mà những nghiệp đó đã gây ra cho những
người khác. Nếu đa số những nghiệp đó là thiện, thì tâm trạng của người
sắp chết sẽ an vui. Anh ta sẽ chết một cách thanh thản, đời sống kiếp
sau của anh ta sẽ được sung sướng. Trái lại, nếu sống nghiệp ác nhiều
hơn sống nghiệp thiện, nhất là có những nghiệp ác lớn, nặng nề thì anh
ta sẽ cảm thấy đau khổ, hối hận, ray rứt trong tâm. Anh ta có một cái
chết bức xúc, vật vã, đời sống kiếp sau của anh ta sẽ bất hạnh. Thậm
chí, anh ta có thể bị mất thân phận làm người, sẽ phải đọa xuống những
cõi sống cực khổ hơn cõi người rất nhiều.
Tác dụng của việc tổ chức hộ niệm cho người sắp chết
Có người tin rằng
nếu mời chư Tăng tụng kinh hộ niệm cho người sắp chết, thì sẽ giúp cho
người chết tái sanh vào cõi lành. Niềm tin đó có đúng hay không?
Hộ niệm là tụng
niệm để gia hộ hay hỗ trợ. Vai trò quyết định vẫn là nghiệp của người
đương sự, người sắp chết. Nếu nghiệp của người sắp chết nặng như tảng
đá, thì dù có đông đảo chư Tăng hộ niệm, người đó cũng không thể tránh
phải đọa vào các cõi ác, cũng như tảng đá nặng không thể nổi lên được,
mà phải chìm. Trái lại, một người sống thiện, nghĩ thiện, nói và làm đều
thiện lành, thì dù có bao nhiêu kẻ thù lập đàn cầu đảo cho anh ta phải
xuống địa ngục, anh ta cũng vẫn được sanh vào cõi lành, cũng như một
chiếc ghe chứa đầy bơ sữa, dù ai muốn nhận chìm cũng không được.
Nói tóm lại, chúng
ta phải chuẩn bị cái chết của chúng ta, ngay khi chúng ta còn sống khỏe
mạnh, còn đầy đủ tinh thần tỉnh táo. Chúng ta chuẩn bị bằng cách ngày
ngày tạo ra các nghiệp lành nơi ý nghĩ, lời nói và việc làm, bằng cách
tu tập tâm, khiến cho tâm bao giờ cũng trong sáng, thuần thiện. Sống như
vậy thì chết sẽ thanh thản, an vui, đời sống kiếp sau sẽ hạnh phúc,
sung sướng, không còn phải lo âu sợ hãi gì nữa.
3)- Kết luận: Tầm quan trọng lớn lao của thuyết nghiệp đối với cá nhân và xã hội
Thuyết nghiệp, nếu
được giảng giải rõ, phân tích kỹ và phổ biến rộng rãi thì sẽ có tác dụng
to lớn cải thiện cuộc sống đạo đức của cá nhân và xã hội.
Mỗi cá nhân đều có ý
thức đầy đủ trách nhiệm của mình đối với mỗi hành vi, lời nói và ý nghĩ
của mình. Mỗi cá nhân đều lo lắng làm sao cho mỗi hành động của mình,
mỗi lời nói và ý nghĩ của mình đều thiện lành, có ích đối với bản thân,
đối với người khác và đối với toàn xã hội. Mỗi cá nhân đều có nhận thức
sâu sắc gây thiệt hại cho người, cho xã hội tức là gây thiệt hại cho bản
thân mình trước, và giúp đỡ người tức là giúp đỡ mình. Nhờ có nhận thức
đúng đắn về thuyết nghiệp, cho nên mọi người đều sống lạc quan, không
còn lo âu sợ hãi, cũng không cần mất tiền và mất thời giờ đi xem tướng,
xem bói, không nhờ thầy cúng sao hay là xem nhà, xem đất v.v... Chính
phủ không cần hô hào bài trừ mê tín dị đoan, mà mọi biểu hiện mê tín dị
đoan sẽ dần dần bị loại trừ ra khỏi xã hội, nếu thuyết nghiệp được phổ
biến rộng rãi.
Nhờ sống đạo đức và
hay giúp đỡ mọi người, cho nên tâm của người Phật tử hiểu thấu thuyết
nghiệp bao giờ cũng yên vui, thanh thản. Niềm vui sâu lắng đó hơn hẳn
những niềm vui giả tạo do những trò giải trí không lành mạnh đem lại,
như cờ bạc, ma túy, rượu chè nhậu nhẹt, quan hệ tình dục bừa bãi v.v...
Do đó, nếu tất cả mọi người trong xã hội đều sống như thế, thì các tệ
nạn xã hội sẽ dần dần bị loại trừ.
Sống khỏe mạnh,
không bệnh tật là điều ai cũng muốn, nhưng không phải ai cũng được khỏe
mạnh, sống lâu. Có những người trông bề ngoài khỏe mạnh, nhưng lại chết
sớm. Lại có người tuy gầy yếu mà không mang bệnh tật gì, lại sống rất
thọ. Thuyết nghiệp dạy rằng, lý do sâu xa khiến cho người ta sống mạnh
khỏe, không bệnh tật và sống thọ là do người ấy, trong một kiếp trước,
biết tôn trọng sự sống của người khác và của muôn loài, không gây thiệt
hại cho sự sống của người khác và muôn loài.
Sống ở đời, ai cũng
muốn được giàu có, dư dật. Có người làm ăn vất vả suốt ngày vẫn không
đủ ăn, trái lại có người không làm việc gì nhiều, nhưng lại không thiếu
thốn một thứ gì. Thuyết nghiệp dạy rằng người bây giờ nghèo, là do ở đời
sống trước, anh ta keo kiệt, không biết bố thí giúp đỡ người khác. Còn
người sống ngày nay giàu có, dư dật là vì ở đời sống trước, anh ta có
tấm lòng tốt thương người, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ người khác về
tiền của và cơm ăn, áo mặc. Trong một xã hội mà ai ai cũng hiểu rõ
thuyết nghiệp, họ luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác.
Sống ở đời không ai
muốn mình làm người xấu xí, mà đều muốn làm người có dung sắc đẹp đẽ,
nhất là chị em phụ nữ. Muốn có sắc đẹp và trẻ lâu, chị em thường đi mỹ
viện và tập thể dục thẩm mỹ. Thế nhưng, điều khó khăn là có người sinh
ra là đã rất đẹp rồi, chỉ cần sửa sang thêm là có thể thành một tuyệt
sắc giai nhân. Trái lại, có người sinh ra đã có một thân hình mất cân
đối, mặt bủng da chì, và khuôn mặt xấu xí, răng vẩu, mắt xếch. Thuyết
nghiệp dạy rằng muốn có dung sắc đẹp, thì đừng có giận dữ, phải biết
nhẫn nhục, và sống hiền lành, có từ tâm.
Ở đời, ai cũng muốn
có nhiều bạn bè tốt để giúp đỡ mình, đều muốn được có nhiều người tin
mình, quý trọng mình. Và cũng có những người được như vậy thật. Họ đi
đâu, làm gì cũng được nhiều người mến chuộng; nói gì, làm gì cũng được
nhiều người tin theo. Trái lại, cũng không ít người sống cô đơn, không
bạn bè, làm gì cũng không được người khác giúp đỡ, nói gì cũng không ai
tin theo. Ðó là do một người từ đời trước cũng như đời này, biết sống
trung thực, không dối trá, sống đoàn kết với mọi người, không bao giờ
gây chia rẽ. Còn người kia thì trái lại, trong đời sống trước và cả đời
này cũng vậy, sống không trung thực, hay nói dối, lại hay gây chia rẽ
v.v...
Như chúng ta thấy,
nếu thuyết nghiệp của đạo Phật được giảng giải rõ ràng và phổ biến rộng
rãi trong xã hội, thì xã hội này sẽ tốt đẹp biết bao! Từng mỗi con người
sẽ có cuộc sống tốt đẹp biết bao!
-oOo-
Phụ lục: Mười nghiệp ác và mười nghiệp thiện
Ðạo Phật phân biệt
có ba nghiệp ác về thân là: 1- Sát sanh; 2- Lấy của không cho; 3- Tà dâm
hay là quan hệ tình dục không chính đáng.
Ba nghiệp trên, nếu
không làm, mà trái lại biết tôn trọng sự sống của muôn loài, hay bố thí
và giúp đỡ người khác, sống cuộc sống tình cảm chân chính, trong sáng,
không xâm phạm hạnh phúc gia đình người khác; nếu sống được như vậy tức
là đã có ba nghiệp thiện về thân.
Sách Phật phân biệt có bốn nghiệp ác về lời nói, tức là:
1- Nói dối; 2- Nói lời ác; 3- Nói lời chia rẽ; 4- Nói lời vô nghĩa, nói không đúng thời, đúng chỗ.
Bốn điều ác trên mà
không làm, trái lại đã không nói dối mà nói lời chân thật, đã không nói
ác mà nói lời dịu hiền, đã không nói chia rẽ mà nói lời đoàn kết, đã
không nói lời vô nghĩa mà nói toàn những lời có giá trị, đúng thời và
đúng chỗ, thì đó là bốn nghiệp thiện về lời nói.
Cuối cùng, đạo Phật phân biệt có ba nghiệp ác về ý nghĩ là: 1- Tham lam; 2- Sân giận; 3- Tà kiến.
Nếu ngược lại, đã
không tham lại hay bố thí và giúp đỡ người khác, đã không giận dữ lại
còn biết lấy ơn báo oán, đã không có và tuyên truyền những tà kiến, như
không tin có luật nhân quả, không tin là có các bậc Thánh đã giác ngộ và
giải thoát v.v..., đã không có tà kiến lại còn thường xuyên giảng giải,
tuyên truyền về luật nhân quả - nghiệp báo, khuyến khích mọi người bỏ
ác, làm thiện, đó là mười thiện nghiệp./.
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
1)- Ðịnh nghĩa nghiệp là gì?
2)- Vì sao không nên coi thường những việc làm bình thường, gọi là "nhỏ nhặt"?
3)- Vì
sao nói thân thọ nghiệp, về thực chất cũng là tâm thọ nghiệp; mặc dù
vẫn có sự phân biệt giữa thân thọ nghiệp và tâm thọ nghiệp?
4)- Cận tử nghiệp là gì? Vì sao nói cuộc sống đạo đức hàng ngày ảnh hưởng lớn tới cận tử nghiệp lúc lâm chung? |
-oOo-