Phần I - Bài đọc thêm
Quan niệm về Ðạo Phật
sau khi Phật Thích Ca nhập diệt
HT Thích Trí Quảng
Ðức
Phật Thích Ca hiện thân trên cuộc đời, mang thân tứ đại như chúng ta.
Tuy nhiên, qua cuộc đời giáo hóa độ sanh của Ngài, chúng ta thấy thể
hiện rõ nét ba đặc tính: Trí tuệ, Từ bi, Bình đẳng, hàm chứa đầy đủ
trong con người siêu phàm ấy.
Thật vậy, Ðức Phật
tiêu biểu cho một bậc thánh nhân toàn giác, toàn thiện, toàn mỹ, vì mọi
việc làm của Ngài trong suốt 49 năm cứu nhân độ thế đã tỏa sáng trí tuệ
tuyệt vời, tình thương bao la và tinh thần bình đẳng tuyệt đối.
Trên bước đường vân
du hóa độ, tinh thần bình đẳng, từ bi và trí tuệ của Ðức Phật đã là
chất liệu thu hút đông đảo quần chúng thuộc mọi tầng lớp xã hội theo
Ngài, sống gắn bó với Ngài. Nhìn vào giáo đoàn của Ðức Phật, thấy rõ một
sự kết hợp hài hòa từ vương tôn công tử, các nhà quyền quý, trưởng giả
cho đến hạng người trí thức, thương gia hay thường dân và kể cả những
người nghèo khổ, cùng đinh.
Ðặc biệt có nhiều
giáo chủ của các tôn giáo khác quy phục Ðức Phật. Ðiển hình như Xá Lợi
Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp là giáo chủ những ngoại đạo nổi tiếng đương
thời trở thành đệ tử Phật, vì họ cảm nhận được lòng từ bi sâu xa, vô
lượng của Ngài bao phủ trọn vẹn tâm hồn họ. Thật vậy, sống với ngoại đạo
thì họ luôn tranh cãi, chống báng nhau; nhưng về với Phật, mọi bất hòa,
hiềm khích tự tan biến như mây khói, không có ý thức chống đối nào có
thể khởi lên trước ánh sáng từ bi cao cả của Ðức Phật.
Thực tế cuộc đời
giáo hóa của Ðức Phật thể hiện lòng từ ái bao dung của Ngài, đã từng làm
dịu mát tâm ác độc của Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp đang sôi sục sân hận,
ghét ganh, trở thành người biết ăn năn và xin từ bỏ những việc làm tội
lỗi, bỏ cả quyền lợi của một giáo chủ lãnh đạo tu viện với 500 đệ tử, để
theo Phật tu hành. Ðiều đó thật không phải chuyện đơn giản, thiết nghĩ
ngoài tấm lòng từ bi vô lượng của Ðức Phật ra, không ai có khả năng cảm
hóa như vậy.
Trí tuệ Phật, hay
hiểu biết của Ngài về cuộc đời, về mọi việc trong vũ trụ giúp cho người
thấy vấn đề sáng ra, trong kinh điển thường gọi là khai ngộ. Chưa gặp
Phật, chấp đủ thứ, bị mọi định kiến ràng buộc, nhưng không giải quyết
được gì. Về với Phật, trí tuệ Ngài chỉ đạo cho họ tháo gỡ mọi gút mắc,
thoát khỏi những sai lầm trói buộc một cách nhẹ nhàng. Nói khác, nương
theo Phật tu, trí sáng ra, nên họ tự vượt khó khăn dễ dàng, tự giải
quyết được đúng đắn, lợi ích.
Chúng ta còn nhớ Xá
Lợi Phất hạnh ngộ Ðức Phật, trí tuệ Ngài đã tác động vị thánh đệ tử
này, giải tỏa được mọi thắc mắc, khổ đau cho ông. Bao nhiêu ẩn số về
cuộc đời tồn đọng, làm đau đầu, nhức óc đại luận gia Xá Lợi Phất bỗng
chốc được khai thông. Quả là kỳ diệu, ông đã thấy rõ đáp số cho mọi vấn
đề khi vừa nhìn thấy hình bóng giải thoát của Ðức Phật. Phần lớn những
nhà trí thức theo Phật, thoát khỏi hố sâu của lý luận, thắc mắc tự tiêu
tan, nhẹ nhàng thanh thản trước cuộc đời, thường được diễn tả là giải
thoát tri kiến.
Mặc dù Ðức Phật
được tôn là đấng Vô Thượng Sư, nhưng trong cuộc sống, Ngài đối xử với
mọi người rất bình đẳng. Sinh hoạt của giáo đoàn dưới sự hướng dẫn của
Ngài, thể hiện tinh thần phá bỏ giai cấp một cách triệt để. Ðức Phật
sống hài hòa với tất cả đệ tử, tâm bình đẳng của Ngài bao phủ trọn vẹn
đại chúng, khiến họ tự quên mình thuộc giai cấp nào. Vì vậy, người quyền
quý, giàu có, trí thức tu chung với người nghèo khổ, bình dân mà vẫn
hòa hợp, thanh tịnh, không chướng ngại.
Ba đức tính cao
quý: Trí tuệ, Từ bi, Bình đẳng của Ðức Phật được các thánh đệ tử tiếp
nhận và tiếp tục thắp sáng trên bước đường truyền giáo. Các vị A La Hán
hành đạo khắp nơi trên thế giới, đến nơi nào cũng thể hiện ba điều cao
quý ấy, tạo thành nếp sống hài hòa với mọi người, mọi nơi, mọi hoàn
cảnh, mà kinh thường gọi là tùy duyên.
Thí dụ khi đặt chân
đến Trung Hoa, các nhà sư truyền giáo đã kết hợp hài hòa tinh ba của
Phật pháp với văn hóa truyền thống sẵn có là Lão-Trang, Khổng-Mạnh. Hài
hòa đến độ dân chúng nơi ấy thấy các nhà sư Phật giáo là người của
Lão-Trang hơn cả Lão-Trang.
Trong lịch sử, cũng
thể hiện rõ nét tinh thần ấy. Như Ðạo Dung, Ðạo Sanh, Tăng Triệu, Tăng
Duệ là học trò nổi tiếng của hai đạo Lão-Trang và Khổng-Mạnh, sau này
trở thành đệ tử của ngài Cưu Ma La Thập, đóng vai trò trợ thủ đắc lực
nhất cho Ngài trong việc phiên dịch kinh điển.
Thiết nghĩ, nối gót
theo tinh thần bình đẳng, vô ngã hoàn toàn, các nhà sư truyền đạo không
mang định kiến đạo Phật phải là thế này, không thể thế kia. Nhưng đối
với họ, tinh ba của con người là một phần của đạo Phật, nên thường lựa
chọn những gì tốt nhất của con người thì phát huy cái đó. Theo tinh thần
ấy, các nhà truyền giáo đã lấy những điểm hay, đẹp của Lão-Trang,
Khổng-Mạnh để kết hợp với áo nghĩa của đạo Phật, dùng phương tiện hài
hòa ấy mà chuyển hướng họ dần theo chánh pháp. Có thể khẳng định bản
chất của người tu sĩ vô ngã vị tha, lấy văn minh của xã hội, những điều
hay đẹp của quần chúng trang nghiêm cho đời, nên họ và người hài hòa
được với nhau.
Cũng trên tinh thần
vô ngã, Phù Vân Quốc sư khuyên Vua Trần Thái Tông không nên bỏ ngai
vàng để vô núi tu. Con đường thăng hoa cuộc sống tâm linh đối với vua là
phải lấy tâm người làm tâm mình, lấy yêu cầu của quần chúng làm yêu cầu
của mình, trở về triều lo việc trị nước an dân. Phật giáo trên con
đường phát triển, truyền sang Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam,
Thái Lan v.v..., đến nơi nào, đạo Phật đều thích hợp với văn hóa dân tộc
bản địa và trở thành lẽ sống cho người thăng hoa, tạo thành thế Phật
giáo tồn tại vững chắc, lâu dài, hiền hòa. Sống tách biệt, chống đối,
thù hiềm, mưu cầu lợi ích riêng tư... chưa bao giờ là hành trang của
người đệ tử chân chính nối gót chân Phật.
Ðức Phật đã thể
hiện trọn vẹn tinh thần vì lợi ích cho số đông trên bước đường giáo hóa,
tạo thành nét đẹp tuyệt vời của một giáo đoàn thanh tịnh, hòa hợp với
xã hội.
Tinh thần hài hòa
của Ðức Phật là chất liệu quý báu đưa Phật giáo phát triển khắp năm
châu, tồn tại hơn 25 thế kỷ. Ðặc biệt ngày nay, Phật giáo đang lần bước
mở rộng ở các nước Tây phương. Và những vị Thiền sư cũng theo tinh thần
phục vụ vô ngã, đã nhẹ nhàng ảnh hưởng cho người phát triển tâm linh,
khai thông được những bức bách của xã hội văn minh.
Tóm lại, hàng đệ tử
Phật đời sau nối tiếp hạnh nguyện của Ngài, thể hiện được chân tinh
thần trí tuệ, từ bi, bình đẳng, vô ngã vị tha, thì hành đạo ở nơi nào
cũng được mọi người kính mến, quý trọng, thành tựu mọi việc lợi cho đời,
tốt cho đạo.
Theo dòng thời
gian, Phật giáo nhẹ nhàng lặng lẽ đi vào lòng người ở khắp mọi nơi trên
thế giới. Không đâu không có hình bóng những người nối chí Phật, được
kinh Hoa Nghiêm diễn tả là Pháp thân Phật.
Thiết nghĩ, lòng từ
bi bao la, vì người, lo cho người được soi sáng bởi trí tuệ toàn giác
theo Phật dạy chắc chắn có giá trị muôn đời, ở bất cứ nơi nào trên trái
đất này.
Cảm nhận sâu sắc những đức tính cao thượng tuyệt vời ấy của Ðức Từ Phụ, chúng ta sung sướng hướng về Ngài, ca ngợi, đảnh lễ:
Phật thân thanh tịnh tợ lưu ly
Phật diện du như mãn nguyệt huy
Phật tại thế gian thường cứu khổ
Phật tâm vô xứ bất từ bi.ỡ