Phần II - Bài đọc thêm
Phật giáo, đạo Giác ngộ
HT Thích Trí Quảng
Phật
giáo có phải là một tôn giáo không? Có rất nhiều câu trả lời khẳng định
cũng như phủ định, nhưng tựu trung, đó vẫn là một vấn đề khó khăn đối
với các học giả nghiên cứu Phật giáo.
Khi Ðức Phật tại
thế, trong 5 năm tìm đạo, Ngài quan sát thấy các tôn giáo đương thời bày
ra nhiều phương cách tu có tính cách mê tín, huyễn hoặc như tự hành hạ
thân xác hay chủ trương hưởng thụ khoái lạc cùng cực, hoặc giết hại súc
vật v.v... để cúng tế, cầu khẩn Thượng đế che chở, ban phước, và sau khi
chết, mong được trở về làm con dân phục vụ cho Thượng đế.
Tất cả hiểu biết và
hành xử sai lầm của hàng ngoại đạo bấy giờ là một đề tài lớn cho Ðức
Phật suy gẫm. Ngài suy tư đến cao độ, gọi là nhập thiền định, thấy được
đáp số của vấn đề sanh tử, hiện hữu, chuyển biến đổi thay của muôn loài
trong vũ trụ. Nói khác, Ðức Phật đắc đạo, đạt đến đỉnh cao giác ngộ,
thấy biết muôn sự muôn vật đúng như thật.
Từ đó, Ngài bắt đầu
giáo hóa độ sanh, dạy người tu tập thiền quán để đạt hiểu biết đúng
đắn, sống tự tại, an vui trong hiện đời và trong kiếp tương lai. ng dụng
lời Phật dạy, phần lớn đệ tử Ngài đắc A La Hán, giải thoát được phần
vật chất và thức uẩn.
Quan sát người tu ở
dạng thể nghiệm lời Phật dạy trong cuộc sống, được thành quả giác ngộ
như vậy, chúng ta thấy rõ đạo Phật chưa hề có chút biểu hiện nào của tôn
giáo.
Tuy nhiên, vì có
giáo chủ là Ðức Thích Ca và tổ chức giáo đoàn gồm những vị đức hạnh,
vượt trội hơn các tôn giáo khác, cũng như Ngài có truyền bá tư tưởng,
người nghe theo được lợi lạc, sanh niềm tôn kính Phật và Thánh chúng. Vì
vậy, Phật giáo được coi như một tôn giáo, mặc dù Ðức Phật chưa bao giờ
xác định lời Ngài dạy là một tôn giáo cần phải tuân thủ; và cũng chưa
bao giờ Phật chủ trương thờ phụng, cúng bái Ngài hay bất cứ cái gì.
Nhưng sau khi Ðức
Phật nhập diệt, các vị Tổ sư tiếp nối, thể hiện những tư tưởng và việc
làm cao quý trong cuộc sống. Ðiều này tác động cho người tu ở thời kỳ
Phật giáo phát triển hình dung ra mối quan hệ mật thiết, vô hình giữa
Phật và chư vị thừa kế. Với lòng hoài vọng kính ngưỡng, họ bắt đầu tạc
tượng Phật và Thánh chúng để tôn thờ, lễ lạy. Khởi điểm từ đây, Phật
giáo mang màu sắc tôn giáo.
Trong thời kỳ này,
các sư tụng niệm, lễ bái, cầu nguyện, tức thể hiện hình thức tín ngưỡng
giống như các tôn giáo khác. Tuy nhiên, điều khác biệt chính yếu của
Phật giáo là hành giả không hề phó thác vận mạng cho đấng sáng tạo hay
thần linh, nhưng biết kết hợp việc cầu nguyện, lễ bái với công phu tu
hành.
Thể nghiệm pháp
này, tu sĩ Phật giáo Mật tông chuyên trì chú, cầu nguyện, nhờ lực siêu
nhiên tác động qua con người thực. Khi kết hợp được với lực siêu nhiên,
tức giữa hành giả và thiên nhiên hòa nhập thành một, tạo thành lực bất
tư nghì, mà Mật tông tiêu biểu bằng đồ hình tổng thể Mạn Ðà La. Mặc dù
cầu nương vào lực tam mật gia trì, nhưng hành giả Mật tông cũng phải tự
tịnh hóa bản thân, đạt đến chứng đắc vô ngã vị tha, mới có thể sử dụng
được toàn lực của tổng thể Mạn Ðà La. Thực tế cho thấy các tu sĩ Mật
tông ở Tây Tạng thành tựu pháp, tạo được khả năng vượt hơn con người
bình thường như đi trong hư không, đi trên nước dễ như đi trên đất liền
hoặc nằm trên tuyết vẫn khỏe mạnh v.v... Ðó là sự phát triển của Phật
giáo Mật tông thể hiện rõ nét tính thần bí của tôn giáo.
Bên cạnh sự phát
triển pháp tu mang đậm màu sắc thần bí của Mật tông, lại nảy sanh ý
tưởng của những người kém cỏi hơn, không có khả năng kết hợp lực cá nhân
và tổng thể. Họ cảm thấy thân phận bé nhỏ, cần nương tựa vào một lực
khác để tồn tại, thăng hoa. Từ đó, hình thành pháp môn Tịnh độ, hành giả
hướng tâm cầu nguyện Ðức Phật A Di Ðà ở thế giới Tây phương Cực lạc,
cũng cảm nhận an lành, quên đi oi bức của cuộc đời. Tất nhiên, gá tâm
đến thế giới khác để cầu nguyện như vậy đã đi khá xa giáo lý chính thống
của Ðức Phật.
Khi tư tưởng của
Tịnh độ tông không được chấp nhận nữa, chúng ta thấy phát sanh chủ
trương quan sát ngược lại thời nguyên thủy, xem Ðức Phật làm gì. Hiển
nhiên, ai cũng biết Ðức Phật do tu tập thiền định, khai mở tâm trí, thấy
rõ chân lý và sử dụng phương tiện đưa người đến chân lý một cách toàn
bích. Nhận thức sâu sắc điều đó dẫn đến sự ra đời của tông phái Thiền.
Thiền tông không
trì chú hay sử dụng lực siêu nhiên như Mật tông và cũng không cầu tha
lực như Tịnh độ tông. Hành giả cố tìm lại thời Phật tại thế tu tập và
hành đạo như thế nào, đạt kết quả ra sao, để rồi suy tư và ứng dụng giáo
lý nguyên thủy vào cuộc sống, ngõ hầu minh tâm, kiến tánh, trở thành
thánh thiện, minh triết ngay trên cuộc đời này. Trên nền tảng ấy, hành
giả không quan tâm đến cúng kính, lễ bái, nhưng đặt nặng vấn đề tham
khảo công án hay thể nghiệm cuộc sống như Phật.
Tóm lại, kết hợp ba
dạng thức tu của Mật tông, Tịnh độ tông và Thiền tông, chúng ta thấy
được Thường Tịch Quang chơn cảnh. Nói khác, chúng ta hành thiền, lắng
yên suy nghĩ xem thế giới mầu nhiệm Tịnh độ như thế nào, thế giới do lực
siêu nhiên tác động như thế nào, và mang đối chiếu với cuộc sống của
Phật cùng Thánh chúng để tự vạch cho mình cách hành xử trên lộ trình tu
Bồ Tát đạo. Dần dần, chúng ta cũng đắc đạo, nhận ra được chân lý mà Phật
và Thánh chúng đã chứng ngộ.
Trên bước đường tu,
đối với chúng ta, Thường Tịch Quang chơn cảnh là thế giới quan lý tưởng
với hiện hữu của Phật, Bồ Tát và Thánh chúng. Vì vậy, chúng ta không
bao giờ rời bỏ thế giới đó. Làm thế nào để trực nhận bản tâm thanh tịnh
của chính mình và hài hòa được với thế giới lý tưởng ấy, để trở lại thực
tế hàng phục được mọi chướng ngại của thế giới Ta bà, khai tri kiến
Phật cho chúng hữu tình ngay trên cuộc đời này.
Phật giáo là tôn
giáo hay không phải là tôn giáo, thiết nghĩ chẳng có gì quan trọng. Làm
sống dậy hình ảnh cao quý của Ðức Từ Tôn, thể hiện cuộc sống thánh thiện
như Ngài, mang tình thương, hiểu biết, an lạc, giải thoát cho mọi loài.
Ðó mới chính là những gì Ðức Phật truyền trao cho hàng đệ tử và là chất
liệu vô giá nối kết mạng mạch Phật giáo trường tồn hơn 25 thế kỷ./.
-oOo-