(Moringa Oleifera)
I. TÊN VÀ NGUỒN GỐC:
• Tên thông dụng: Chùm ngây (VN), Moringa (international) , Drumstick
tree (US), Horseradish tree, Behen, Drumstick Tree, Indian Horseradish, Noix
de Bahen.
• Tên Khoa học: Moringa oleifera hay M. pterygosperma thuộc họ Moringaceae
• Nhà Phật gọi là cây Độ Sinh
(Tree of Life )
Các nhà dược học, các nhà khoa học nghiên cứu thực vật học, dựa vào hàm
lượng dinh dưỡng và nguồn dược liệu quí hiếm được kiểm nghiệm, đã không ngần
ngại đặt tên cho nó là cây Thần Diệu
( Miracle Tree) .
Nguồn gốc : Cây xuất xứ từ vùng Nam Á, có lịch sử hơn 4 ngàn năm ,nhưng phổ
biến rất nhiều ở cả Châu Á và Châu Phi. Cây Chùm Ngây rất phổ thông ở Ấn Độ
và được dân tộc Ấn trân trọng đặt tên là cây Độ Sinh
II. LỢI ÍCH , CÔNG DỤNG VÀ GIÁ TRỊ:
Lợi ích và công dụng :
Cây Chùm Ngây Moringa Oleifera hiện được 80 quốc gia trên thế giới , những
quốc gia tiên tiến sử dụng rộng rãi và đa dạng trong công nghệ dược phẩm, mỹ
phẩm, nước giải khát dinh dưỡng và thực phẩm chức năng. Các quốc gia đang
phát triển sử dụng Moringa như dược liệu kỳ diệu kết hợp chữa những bịnh
hiểm nghèo, bệnh thông thường và thực phẩm dinh dưỡng.
Các bộ phận của cây chứa nhiều khoáng chất quan trọng, và là một nguồn
cung cấp chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và nhiều hợp chất
phenolics. Cây Chùm Ngây cung cấp một hỗn hợp pha trộn nhiều hợp chất như
zeatin, quercetin, beta-sitosterol caffeoylquinic acid và kaempferol, rất
hiếm gặp tại các loài cây khác.
Điều Trị :. Các bộ phận của cây như lá, rễ, hạt, vỏ cây,
quả và hoa.. có những hoạt tính như kích thích hoạt động của tim và hệ tuần
hoàn, hoạt tính chống u-bướu, hạ nhiệt, chống kinh phong, chống sưng viêm,
trị ung loét, chống co giật, lợi tiểu, hạ huyết áp, hạ cholesterol, chống
oxy-hóa, trị tiểu đường, bảo vệ gan, kháng sinh và chống nấm.. Cây đã được
dùng để trị nhiều bệnh trong Y-học dân gian tại nhiều nước trong vùng Nam Á.
(Phytotherapy Research Số 21-2007).
Dinh Dưỡng: Lá moringa giàu dinh dưỡng hiện được hai tổ
chức thế giới WHO và FAO xem như là giải pháp ưu việt cho các bà mẹ thiếu
sữa và trẻ em suy dinh dưỡng, và là giải pháp lương thực cho thế giới thứ ba.
• Đối với trẻ em từ 1-3 tuổi, cứ ăn 20gr lá tươi moringa là cung ứng 90%
Calcium , 100% Vitamin C, Vitamin A, 15% chat sat, 10% chất đạm cần thiết và
hàm luợng Potassium , Đồng, …vàVitamin B bổ sung cần thiết cho trẻ .
• Đối với các bà mẹ đang mang thai và cho con bú, chi cần dùng 100gr lá tươi
mỗi ngày là đủ bổ sung Calcium , Vitamin C, VitaminA ,Sắt , Đồng, Magnesium,
Sulfur, các vitamin B cần thiết trong ngày. :
(nguồn : http://www.moringatree.co.za/analysis.html)
Cách dùng : Rau sống: lá tươi dùng trộn ăn
sống như rau xà lách_ Nước sinh tố : xay 20gr lá chung với 2 muỗng cafe sữa,
2 muỗng café đường sữa uống như uống sinh tố_Nấu canh : 100gr lá moringa nấu
chung với 50gr thịt bò hoặc heo , hoặc nấu chay với 100gr nấm.
Dưỡng da : tại Mỹ và các nước Âu châu, cây
Moringa được sử dụng rộng rãi trong công nghê dưỡng da , mỹ phẩm cao cấp.
Cách dùng đơn giản: các bà các cô có thể áp dụng ngay: giã
nhuyễn 20gr lá, để không hoăc trộn với dầu lấy từ hat Moringa thoa đắp 2 lần,
mỗi lần 7 phút, trong một ngày , trong một tuần sẽ thấy hiệu nghiệm. (kinh
nghiệm)
( lưu ý : không nên ủ đắp trên da mặt quá lâu trên 10 phút )
Lọc nước : Hạt Chùm Ngây có chứa một số hợp
chất “đa điện giải” (polyelectrolytes) tự nhiên có thể dùng làm chất kết tủa
để làm trong nước.Kết quả thử nghiệm lọc nước : Nước đục (độ đục 15-25 NTU,
chứa các vi khuẩn tạp 280-500 cfu ml(-1), khuẩn coli từ phân 280-500 MPN 100
ml(-1). Dùng hạt Chùm Ngây làm chất tạo trầm lắng và kết tụ, đưa đến kết quả
rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU; vi khuẩn tạp còn 5-20 cfu; và khuẩn coli
còn 5-10 MPN..) Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của
các nước nghèo..và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and
Health Số 3-2005).
III. GIAI ĐOẠN ƯƠM TRỒNG CỦA MORINGA TỪ HẠT GIỐNG:
IV. ĐẶC TÍNH
THỰC VẬT:
Cây thuộc loại đại mộc, có thể mọc cao 5 đến10m. Lá kép (có
thể đến 3 lần= triple-pinnate) dài 30 - 60 cm, hình lông chim, màu xanh mốc;
lá chét dài 12 - 20 mm hình trứng, mọc đối có 6 - 9 đôi. Hoa trắng, có cuống,
hình dạng giống hoa đậu, mọc thành chùy ở nách lá, có lông tơ. Quả dạng nang
treo, dài 25 - 30cm, ngang 2 cm, có 3 cạnh, chỗ có hạt hơi gồ lên, dọc theo
quả có khía rãnh. Hạt màu đen, tròn có 3 cạnh, lớn cỡ hạt đậu Hòa Lan. Cây
trổ hoa vào các tháng 1 – 2.
• Thành phần hóa học: Rễ chứa:
Glucosinolates như 4-(alpha-L-rhamnosyloxy)benzyl glucosinolate (chừng 1%)
sau khi chịu tác động của myrosinase, sẽ cho 4-(alpha-L-rhamnosyloxy)benzyl
isothiocyanate. Glucotropaeolin (chừng 0.05%) sẽ cho benzylisothiocyanate.
Hạt chứa: Glucosinolates ( như trong rễ) :
có thể lên đến 9% sau khi hạt đã được khử chất béo.Các acid loại phenol
carboxylic như 1-beta-D-glucosyl-2,6-dimethyl benzoate.Dầu béo (20-50%) :
phần chính gồm các acid béo như oleic acid (60-70%), palmitic acid (3-12%),
stearic acid (3-12%) và các acid béo khác như behenic acid, eicosanoic và
lignoceric acid..
Lá chứa: Các hợp chất loại flanonoids và
phenolic như kaempferol 3-O-alpha-rhamnoside, kaempferol, syringic acid,
gallic acid, rutin, quercetin 3-O-beta-glucoside. Các flavonol glycosides
được xác định đều thuộc nhóm kaempferide nối kết với các rhamnoside hay
glucoside.
V. THÀNH
PHẦN DINH DƯỠNG:
Bảng phân tích hàm lượng dinh dưỡng của quả, lá tươi và bột
khô của lá cây Chùm Ngây theo báo cáo ngày 17/7/1998 của Campden and
Chorleywood Food Research Association in Conjunction.
BẢNG PHÂN TÍCH HÀM
LƯỢNG DINH DƯỠNG CỦA MORINGA |
STT |
THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG/100gr |
TRÁI TƯƠI |
LÁ TƯƠI |
BỘT LÁ KHÔ |
01 |
Water ( nước ) % |
86,9 % |
75,0 % |
7,5 % |
02 |
calories |
26 |
92 |
205 |
03 |
Protein ( g ) |
2,5 |
6,7 |
27,1 |
04 |
Fat ( g ) ( chất béo ) |
0,1 |
1,7 |
2,3 |
05 |
Carbohydrate ( g ) |
3,7 |
13,4 |
38,2 |
06 |
Fiber ( g ) ( chất xơ ) |
4,8 |
0,9 |
19,2 |
07 |
Minerals ( g ) ( chất khoáng ) |
2,0 |
2,3 |
_ |
08 |
Ca ( mg ) |
30 |
440 |
2003 |
09 |
Mg ( mg ) |
24 |
25 |
368 |
10 |
P ( mg ) |
110 |
70 |
204 |
11 |
K ( mg ) |
259 |
259 |
1324 |
12 |
Cu ( mg ) |
3,1 |
1,1 |
0,054 |
13 |
Fe ( mg ) |
5,3 |
7,0 |
28,2 |
14 |
S ( g ) |
137 |
137 |
870 |
15 |
Oxalic acid ( mg ) |
10 |
101 |
1,6 |
16 |
Vitamin A - Beta Carotene ( mg ) |
0,11 |
6,8 |
1,6 |
17 |
Vitamin B - choline ( mg ) |
423 |
423 |
- |
18 |
Vitamin B1 - thiamin ( mg ) |
0,05 |
0,21 |
2,64 |
19 |
Vitamin B2 - Riboflavin ( mg ) |
0,07 |
0,05 |
20,5 |
20 |
Vitamin B3 - nicotinic acid ( mg ) |
0,2 |
0,8 |
8,2 |
21 |
Vitamin C - ascorbic acid ( mg ) |
120 |
220 |
17,3 |
22 |
Vitamin E - tocopherol acetate |
- |
- |
113 |
23 |
Arginine ( g/16gN ) |
3,66 |
6,0 |
1,33 % |
24 |
Histidine ( g/16gN ) |
1,1 |
2,1 |
0,61% |
25 |
Lysine ( g/16gN ) |
1,5 |
4,3 |
1,32% |
26 |
Tryptophan ( g/16gN ) |
0,8 |
1,9 |
0,43% |
27 |
Phenylanaline ( g/16gN ) |
4,3 |
6,4 |
1,39 % |
28 |
Methionine ( g/16gN ) |
1,4 |
2,0 |
0,35% |
29 |
Threonine ( g/16gN ) |
3,9 |
4,9 |
1,19 % |
30 |
Leucine ( g/16gN ) |
6,5 |
9,3 |
1,95% |
31 |
Isoleucine ( g/16gN ) |
4,4 |
6,3 |
0,83% |
32 |
Valine ( g/16gN ) |
5,4 |
7,1 |
1,06% |
http://www.moringatree.co.za/analysis.html
VI. SO SÁNH HÀM LƯỢNG
DINH DƯỠNG:
BẢNG SO SÁNH CHẤT DINH DƯỠNG TRONG MỖI 100GR LÁ CHÙM NGÂY TƯƠI & KHÔ : (nguồn
: http://www.moringatree.co.za/analysis.html)
• BẢNG SO SÁNH CHẤT DINH DƯỠNG
(Theo tư liệu tổng hợp mới nhất về cây Chùm Ngây của
ZijaMoringaHealth.Com )
Cây Chùm Ngây (Moringa oleifera) chứa hơn 90 chất dinh dưỡng tổng hợp. Những
chất dinh dưỡng cần thiết để gìn giữ sức khỏe con người , chống giảm nguy cơ
từ những chứng bệnh suy thoái, chữa trị bách bệnh thông thường. Những hình
ảnh minh họa dưới đây là bảng so sánh từ các nghiên cứu của các nhà khoa học
giữa hàm lượng dinh dưỡng ưu việt của lá cây Chùm Ngây và những thực phẩm ,
những trái cây tiêu biểu thường dùng như Cam, Cà-rốt, Sữa, Cải Bó xôi,
Yaourt, và chuối nếu so sánh trên cùng trọng lượng:
- Vitamin C 7 lần nhiều hơn trái Cam
Vitamin C tăng cường hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể và chữa trị những
chứng bệnh lây lan như cảm cúm.
- Vitamin A 4 lần nhiều hơn Cà-rốt
Vitamin A hoạt động như một tấm khiên chống lại những chứng bệnh về mắt ,
da và tim , đồng thời ngăn ngừa tiêu chảy và những chứng bệnh thông thường
khác..
- Calcium 4 lần nhiều hơn sữa
Calcium bồi bổ cho xương và răng, giúp ngăn ngừa chứng loãng xương..
- Chất sắt 3 lần so với cải bó xôi
Chất Sắt là một chất cần thiết đóng vai trò quan trọng trong việc truyền
dẫn Oxy trong máu đến tất cả bộ phận trong cơ thể..
- Chất đạm (protein) 2 lần nhiều hơn Ya-ua
Chất Đạm là những chất xây dựng tế bào cho cơ thể, nó được làm ra từ at-xit
A-min, thông thường at-xit A-min chỉ có những sản phẩm từ động vật như thịt
trứng, sữa… kỳ lạ thay lá Chùm Ngây có chứa những At-xít
Amin cần thiết đó.
- Potassium 3 lần nhiều hơn trái chuối
Potassium là chất cần thiết cho óc và hệ thần kinh .
BẢNG SO SÁNH CHẤT DINH DƯỠNG ( nguồn khác):
VII. NHỮNG NGHIÊN CỨU
KHOA HOC VỀ CÂY CHÙM NGÂY:
Chùm Ngây được xem là một cây đa dụng, rất hữu ích tại những quốc gia
nghèo thuộc “Thế giới thứ ba” nên đã được nghiên cứu khá nhiều về các hoạt
tính dược dụng, giá trị dinh dưỡng và công nghiệp. Đa số các nghiên cứu được
thực hiện tại Ấn Độ, Philippines, và Phi Châu..
• Tính cách đa dụng của Moringa oleifera:
Nghiên cứu rộng rãi nhất về giá trị của Moringa oleifera được thực hiện tại
ĐH Nông Nghiệp Falsalabad, Pakistan :
Moringa oleifera Lam (Moringaceae) là một cây có giá trị kinh tế cao, cây
phân bố tại nhiều quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây vừa là một nguồn
dược liệu và là một nguồn thực phẩm rất tốt. Các bộ phận của cây chứa nhiều
khoáng chất quan trọng, và là một nguồn cung cấp chất đạm, vitamins,
beta-carotene, acid amin và nhiều hợp chất phenolics…
• Hoạt tính kháng nấm gây bệnh:
Nghiên cứu tại Institute of Bioagricultural Sciences, Academia Sinica, Đài
Bắc (Taiwan) ghi nhận dịch chiết từ lá và hạt Chùm Ngây bằng ethanol có các
hoạt tính diệt được nấm gây bệnh loại Trichophyton rubrum, Trichophyton
mentagrophytes, Epidermophyton floccosum và Microsporum canis. Các phân tích
hóa học đã tìm được trong dầu trích từ lá Chùm Ngây đến 44 hóa chất. (Bioresource
Technology Số 98-2007).
• Tác dụng của quả Chùm Ngây trên cholesterol và lipid trong máu:
Nghiên cứu tại ĐH Baroda, Kalabhavan, Gujarat (Ấn Độ) về hoạt tính trên các
thông số lipid của quả Chùm Ngây, thử trên thỏ, ghi nhận : Thỏ cho ăn Chùm
Ngây (200mg/kg mỗi ngày) hay uống lovastatin (6mg/kg/ ngày) trộn trong một
hổn hợp thực phẩm có tính cách tạo cholestero cao, thử nghiệm kéo dài 120
ngày. Kết quả cho thấy Chùm Ngây và Lovastatin có tác dụng gây hạ
cholesterol, phospholipid, triglyceride, VLDL, LDL hạ tỷ số cholesterol/
phospholipid trong máu..so với thỏ trong nhóm đối chứng. Khi cho thỏ bình
thường dùng Chùm Ngây hay Lovastatin : mức HDL lại giảm hạ nhưng nếu thỏ bị
cao cholesterol thì mức HDL lại gia tăng. Riêng Chùm Ngây còn có thêm tác
dụng làm tăng sự thải loại cholesterol qua phân (Journal of
Ethnopharmacology Số 86-2003).
• Các hoạt tính chống co-giật, chống sưng và gây lợi tiểu :
Dịch trích bằng nước nóng của hoa, lá, rễ, hạt..vỏ thân Chùm Ngây đã được
nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên cứu Kỹ Thuật (CEMAT) tại Guatamala City về
các hoạt tính dược học, thử nơi chuột. Hoạt tính chống co giật được chứng
minh bằng thử nghiệm trên chuột đã cô lập, hoạt tính chống sưng thử trên
chân chuột bị gây phù bằng carrageenan và tác dụng lợi tiểu bằng lượng nước
tiểu thu được khi chuột được nuôi nhốt trong lồng. Nước trích từ hạt cho
thấy tác động ức chế khá rõ sự co giật gây ra bởi acetylcholine ở liều ED50=
65.6 mg/ml môi trường ; tác động ức chế phụ gây ra do carrageenan được định
ở 1000mg/kg và hoạt tính lợi tiểu cũng ở 1000 mg/kg. Nước trích từ Rễ cũng
cho một số kết quả (Journal of Ethnopharmacology Số 36-1992).
• Các chất gây đột biến genes từ hạt Chùm ngây rang chín :
Một số các hợp chất các chất gây đột biến genes đã được tìm thấy trong hạt
Chùm Ngây rang chín : Các chất quan trọng nhất được xác định là 4 (alpha
Lrhamnosyloxy) phenylacetonitrile; 4 - hydroxyphenylacetonitri le và 4 -
hydroxyphenyl-acetamide. (Mutation Research Số 224-1989).
• Khả năng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây :
Nghiên cứu tại ĐH Jiwaji, Gwalior (Ấn độ) về các hoạt tính estrogenic, kháng
estrogenic, ngừa thai của nước chiết từ Rễ Chùm Ngây ghi nhận chuột đã bị
cắt buồng trứng, cho uống nước chiết, có sự gia tăng trọng lượng của tử cung.
Hoạt tính estrogenic được chứng minh bằng sự kích thích hoạt động mô tế bào
tử cung.
Khi cho chuột uống nước chiết này chung với estradiol dipropionate (EDP) thì
có sự tiếp nối tụt giảm trọng lượng của tử cung so sánh với sự gia tăng
trọng lượng khi chỉ cho chuột uống riêng EDP. Trong thử nghiệm deciduoma
liều cao nhất 600mg/kg có tác động gây rối loạn sự tạo deciduoma nơi 50 % số
chuột thử . Tác dụng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây được cho là do nhiều yếu tố
phối hợp (Journal of Ethnopharmacology Số 22-1988).
• Hoạt tính kháng sinh của Hạt Chùm Ngây :
4 (alpha-L-Rhamnosyloxy)benzyl isothiocyanate được xác định là có hoạt tính
kháng sinh mạnh nhất trong các hoạt chất trích từ hạt Chùm Ngây ( trong hạt
Chùm Ngây còn có benzyl isothiocyanate). Hợp chất trên ức chế sự tăng trưởng
của nhiều vi khuẩn và nấm gây bệnh. Nồng độ tối thiểu để ức chế Bacillus
subtilis là 56 micromol/l và để ức chế Mycobacterium phlei là 40 micromol/l
(Planta Medica Số 42-1981).
• Hoạt tính của Rễ Chùm ngây trên Sạn thận loại Oxalate :
Thử nghiệm tại ĐH Dược K.L.E.S, Nehru Nagar, Karnakata (Ấn Độ) trên chuột bị
gây sạn thận, oxalate bằng ethylen glycol ghi nhận dịch chiết bằng nước và
alcohol rễ cùng lõi gỗ Chùm Ngây làm giảm rõ rệt nồng độ oxalate trong nước
tiểu bằng cách can thiệp vào sự tổng hợp oxalate trong cơ thể. Sự kết đọng
tạo sạn trong thận cũng giảm rất rõ khi cho chuột dùng dịch chiết này như
một biện pháp phòng ngừa bệnh sạn thận .
• Dùng hạt Chùm ngây để lọc nước :
Hạt Chùm Ngây có chứa một số hợp chất “đa điện giải” (polyelectrolytes) tự
nhiên có thể dùng làm chất kết tủa để làm trong nước.Kết quả thử nghiệm lọc
nước : Nước đục (độ đục 15-25 NTU, chứa các vi khuẩn tạp 280-500 cfu ml(-1),
khuẩn coli từ phân 280-500 MPN 100 ml(-1). Dùng hạt Chùm Ngây làm chất tạo
trầm lắng và kết tụ, đưa đến kết quả rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU; vi
khuẩn tạp còn 5-20 cfu; và khuẩn coli còn 5-10 MPN..) Phương pháp lọc này
rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo..và được áp dụng khá
rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and Health Số 3-2005).
VIII. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY TRÊN THẾ GIỚI:
• Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Moringa thô nhiều nhất, sử dụng
trong công nghê mỹ phẩm cao cấp, nước uống và quan trong hơn là chiết suất
thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất.
• Ấn Độ: Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam,
Bengal..); Phạn ngữ: Shobhanjana.Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất
thông dụng tại Ấn Độ. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng
khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng
chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia);
trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung
với căn hành của Melothria heterophylla, Cocci nia cordifolia, hạt mướp (Luffa)
và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ
thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi. Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi
tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy
xương. Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh. Hạt: dầu từ hạt để
trị phong thấp.
• Pakistan: Cây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn,
Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân
gian. Ngoài các cách
sử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như : Lá giả nát
đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và
sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ.. Vỏ thân dùng để phá
thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị
đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout,
sưng gan và lá lách..Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng
răng..
• Trung Mỹ: Hạt Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và
giun sán
• Saudi Arabia : Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu,
nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông.
• Việt Nam : Rễ Chùm Ngây được cho là có tính kích thích,
giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm
dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác
dụng làm dịu đau.
Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý:
Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc
sử dụng Hạt và Rễ Chùm Ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng
liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa.
Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột , gây phản ứng
keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan.
Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử
vong nơi chuột thử nghiệm.
Không nên dùng Rễ Chùm ngây nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai.
( Nguồn:DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ)
IX. SẢN PHẨM TỪ CÂY CHÙM NGÂY ( Moringa Oleifera):
• Sản phẩm làm đẹp (beauty body) của The Body Shop (USA)
Nước uống dinh dưỡng của Cty Zija (Zijamoringahealth.com, USA)
Sản phẩm bột và viên dinh dưỡng của Yelixir (India)
Viên Chùm Ngây Bột Chùm Ngây
Dầu và hạt Chùm Ngây (Alibaba.com)
Lá Chùm Ngây tươi bày bán ở chợ Manila (Philipin)
X. CÁCH ƯƠM
TRỒNG CÂY CHÙM NGÂY ƯƠM:
Có nhiều cách ươm:
1. Cách 1:
Ngâm hạt trong nước ấm 24 giờ, Hạt sau khi ngâm , vớt ra trộn với cát, ủ
trong bao tải, hoặc rơm rạ mỗi ngày tưới một lần, 3 - 6 ngày sau hạt nẩy mầm,
đem hạt ươm vào bao nhựa hoặc chậu nhựa chứa đất tơi xốp có khoét lỗ rút
nước, tưới nước vừa đủ ẩm , tránh sũng nước, 3 - 5 ngày cây sẽ nhú lên, chờ
từ 6 - 8 tuần cây khỏe, đem ra trồng.
2. Cách 2:
Đầu tiên, pha nước: 2 sôi + 3 lạnh (nước ấm), ngâm hạt Chùm ngây trong 24
giờ. (Kích thích cho hạt chùm ngây qua thời kỳ nghỉ & nẩy mầm.) Lấy khăn bọc
hạt Chùm ngây lại & để trong tối. – (Phải để trong tối. Vì ánh sáng khuyếch
tán có lợi cho cây xanh, nhưng cưỡng bức quá trình nẩy mầm. Đặc biệt là
thành phần quang phổ màu xanh trong phổ ánh sáng trắng.) Mỗi ngày, nhúng bọc
Chùm ngây vào nước mưa, trở qua trở lại. Sau đó, vẩy nhẹ để đừng ứ nước bên
trong. – Làm cẩn thận vì có thể làm hư mầm non bên trong!(Bổ sung nước cũng
như tránh ẩm mốc cho hạt.) Vài ngày sau, hạt nẩy mầm. Đem ươm vào chậu hoặc
bao ny lon có đất tơi xốp, lưu ý là cả chậu hoặc bao nylon đều cần khoét lổ
để thoát nước.
3. Cách 3:
dùng bao nylon hoặc chậu nhựa có lỗ thoát nước, đường kính khoảng 15cm-20cm
và sâu chừng 25-30cm, đổ đất xốp vào, sau đó đặt hạt sâu khoảng 25 mi-li-met
dưới lớp đất xốp, phủ và nén đất nhè nhẹ, tưới nước cầm chừng không để khô
qúa hoặc ướt qúa. Sau chừng ba ngày hạt sẽ nẩy mầm, và cây sẽ ló ra khỏi mặt
đất sau chừng 1 tuần, tiếp tục giữ ẩm không để qúa khô, và tuyệt đối không
để sũng nước.
TRỒNG :
Cây ươm trồng trong chậu hoặc bao nylon được 6 - 8 tuần lễ, đã đâm rễ và cây
đã cứng cáp. Đào lỗ rộng gấp đôi và sâu gấp đôi chậu nhựa, mỗi lỗ đào cách
nhau từ 1,5m - 2m. Cắt đáy, rạch hai bên,nếu được xé toạc lấy chậu và bao ra
khỏi lỗ, lưu ý không để phạm vào rễ cái. Đổ một lớp đất xốp trước khi đặt
chậu hoặc bao nylon xuống, cuối cùng là phủ, nén lớp đất xốp chung quanh và
mặt trên, giữ ẩm 2 - 3 tuần cây sẽ sống khoẻ, đến lúc đó không cần phải
thường xuyên tưới nước nữa. Nhiều nơi để chỉ thu hoạch lá và hoa người ta
ươm trồng ngay trên luống đất xốp bằng cách ươm hạt sâu 25mm và cách nhau
40cm như trồng ớt trồng cà.
XI. HIỆU QUẢ KINH TẾ:
Hiệu quả kinh tế ở đây được hiểu là hiệu quả kinh tế của toàn xã hội,
trong đó người có nhu cầu, ngay cả những nguời có thu nhập thấp nhất, dễ
dàng mua cho mình một sản phẩm mới đáp ứng yêu cầu và người cung ứng sản
phẩm, từ người nông dân trồng cây cho đến những nhà kinh doanh chế biến sản
xuất có trong tay một thị trường nóng hổi và rộng mở.
Làm gì? Xuất cho ai? Bán cho ai ? Ai bao tiêu sản phẩm? là câu hỏi đầu
tiên và vô cùng thực tế của nông dân và của tất cả những người muốn đầu tư
trồng cây chùm ngây. Câu hỏi còn bỏ ngỏ chưa có ai, chưa có cơ quan chức
năng, chưa có nhà kinh doanh chế biến sản xuất nào trả lời dứt khoát rõ ràng,
dẫu biết rằng cây chùm ngây hết sức phổ biến tại hơn 80 nước trên thế giới
nó hiện diện trong bữa ăn hằng ngày, nó có từ chợ rau cải , cửa hàng thực
phẩm dinh dưỡng, thực phẩm chức năng , được các nước Âu Mỹ dùng phổ biến
trong công nghê dược phẩm, mỹ phẩm, được các nước Đông Á và Nam Á xem như
thần dược trong kết hợp chữa trị những căn bệnh hiểm nghèo, thời đại, và phổ
thông.
Dựa vào những thông tin, số liệu đầy hưng phấn trên, chúng ta có quyền nghĩ
đến những phương án cung cầu rộng lớn đầy triển vọng cho Cây chùm ngây như
phổ biến cây trồng rộng khắp , đưa cây chùm ngây vào công nghệ thực phẩm
dinh dưỡng, thực phẩm chức năng, dược phẩm, mỹ phẩm… nhưng trước mắt , bằng
vào cái suy nghĩ nông cạn của tôi, đầu ra cho người nông dân, người đầu tư
trồng cây chùm ngây không ở đâu xa , chính là giải quyết khẩn trương bài
toán suy dinh dưỡng (SDD) của các bà mẹ và trẻ em Việt Nam bằng một thực
phẩm mới “rau chùm ngây”!
Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc thì tỷ lệ suy dưỡng và thiếu vi chất ở
trẻ em Việt Nam xếp vào loại cao nhất trên thế giới, còn theo số liệu từ
Viện Dinh Dưỡng thuộc Bộ Y Tế Việt Nam thì tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi
của thiếu nhi trên cả nước năm 2008 hãy còn ở mức 32,6% trên tổng số trẻ em
VN, nghĩa là có khoảng 8 triệu rưỡi trẻ em VN suy dinh dưỡng!
Mặc dù đã đạt được một số tiến bộ, vấn nạn suy dinh dưỡng (SDD) bà mẹ trẻ
em VN vẫn còn nguyên là bức xúc của xã hội , và là trọng trách gắn liền với
công cuộc phát triển kinh tế. Các nỗ lực giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em,
đặc biệt là thấp, còi là phải tập trung chăm sóc phụ nữ trước, trong suốt
thời kỳ mang thai và trẻ em đến 2 tuổi – giai đoạn mà các tổn thương nghiêm
trọng nếu có xảy ra không thể hồi phục được .
Trong khi đó, đối với trẻ em từ 1-3 tuổi, chi cần dùng 100gr lá tươi
chùm ngây là cung ứng dư thừa lượng Calcium, Vitamine A,75% chất sắt, 50%
lượng chất đạm (Protein), và bổ sung đáng kể luợng Potassium, các
Vitamine B, chất Đồng, và tất cả acid animo cần thiết trong ngày cho trẻ.
Đối với các bà mẹ đang mang thai hoặc đang cho con bú, thì chỉ cần dùng 300
gr lá tươi hoặc 48 gr bột lá khô chùm ngây mỗi ngàylà đủ lượng dinh dưỡng
cần thiết hàng ngày cho bà mẹ.
Trong lúc sữa, nguồn dinh dưỡng phổ thông lâu đời không ai chối cãi, lại
là thứ nhu yếu xa xỉ, đắt đỏ ở Việt Nam. Sữa bò, sữa dê dưới dạng đặc, lỏng,
bột, đóng hộp hay đóng chai, có nguồn gốc rõ ràng hay không rõ ràng, nội hay
ngoại. Tất cả, dĩ nhiên đều không thể thay thế nguồn sữa mẹ, nhưng lại được
trọng vọng ở vị trí độc tôn, vô hình chung là nguồn khai thác béo bở cho đầu
cơ buôn lậu, cho những tập đoàn lợi nhuận, và do đó tự nhiên, sữa từ lâu nó
trở thành nhu yếu phẩm xa lạ đối với tất cả bà mẹ và trẻ em còi cọc Việt
Nam!
Ở một góc khuất khác, ngay trong thành phố Hồ Chí Minh, lớn nhất nước,
phát triển văn minh nhất nước, hàng chục các bếp ăn miễn phí từ thiện của
các tổ chức xã hội bên cạnh hầu hết các bệnh viên, nổ lực giúp được muỗng
cháo cầm hơi cho hàng ngàn lượt người nghèo cơ nhỡ mỗi ngày đã là vô cùng
quí hóa, nói chi đến một bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng?
- Cây chùm ngây , năng suất và thu hoạch
3 tháng tuổi đã bắt đầu cho thu hoạch, cây cao 60cm bắt đầu cắt ngọn và
mỗi tháng sau đó tỉa cành thúc đẩy cây đâm chồi, chăm sóc bón phân, sau 6
thàng tuổi, cây cao khoảng 2 mét, là thời gian bắt đầu thu hoạch chính,
trung bình cây đã có thể cho từ 500gr-900gr lá tươi / cây /tháng. Nếu chỉ
trồng 5000 cây/ hecta (2m2/cây), sau 6 tháng có thể thu hoạch trung bình
2500kg lá /hecta/tháng, Không mơ ước bán được với giá 70.000đồng/ kg như giá
của chi Huỳnh Liên Lộc Thọ ở Xuân Lộc (Báo Đồng Nai 18/5/2008) đang bán,
chỉ bán bằng giá như giá rau thông thường 20000đ/kg/ tại chợ thôi, thì thu
nhập ròng tại vườn của người trồng cây chùm ngây ít nhất sẽ là 20 triệu đồng
/ tháng/hecta , sẽ là nguồn thu nhập đầy mơ ước đối với người nông dân Việt
Nam hiện nay.
20,000 đồng rau chùm ngây mỗi ngày cung ứng đủ hầu hết lượng dinh dưỡng
cần thiết cho một gia đình hai vợ chồng 2 đứa con giải quyết dứt điểm vấn
nạn suy dinh dưỡng, cho những người nghèo thiết nghĩ không còn một lựa chọn
nào tốt hơn trong lúc này!
Tôi tin rằng những người, những cơ quan, tổ chức quan tâm đến suy dinh
dưỡng (SDD), quan tâm đến thu nhập bất thuờng thiếu đói của nguời nông dân
đã có thể tìm ra lời giải đáp.
Kết luận
Rõ ràng cây chùm ngây, không chỉ là giải pháp độ sinh cho thế giới thứ ba
như tổ chức lương thực thế giới (Food and Argriculture Organization) đề
quyết mà còn là giải pháp ưu việt cho Việt nam chúng ta, vấn đề là làm thế
nào để mọi người dân Việt Nam biết được giá trị của nó, để người nông dân
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, để cây chùm ngây trở thành thực đơn hàng ngày
trong mỗi bữa ăn , để những nhà sản xuất, chế biến dược phẩm của chúng ta
không chỉ có mỗi một lựa chọn là mua nguyên liệu nước ngoài về dập thành
viên rồi bán, và làm thế nào để phổ biến những sản phẩm của cây chùm ngây
rộng khắp? tôi nghĩ, trước tiên , không ai khác hơn là các cơ quan truyền
thông, báo đài, các nhà nghiên cứu, viện dinh dưỡng , cơ quan y tế và lương
thực, cơ quan chức năng chuyên nghành, nhà sản xuất kinh doanh, dĩ nhiên
không thể thiếu vai trò của các trường học….
Sẽ hết sức vô cảm, nếu chúng ta tiếp tục để những bà mẹ ốm yếu thiếu sữa,
những trẻ em lớn lên trong còi cọc, những bệnh nhân, những người nghèo lây
lất, bên cạnh cây chùm ngây, nguồn dược liệu và dinh dưỡng phong phú đã có
từ lâu trên nhiều vùng của đất nước chúng ta.
Nguyễn Thành Hà / Cty Văn Kiếm Nhân
Ngày Quốc Tế thiếu nhi 01/06/2009