anh
bay trên trời cũng được, lặn xuống nước cũng xong. Quá khứ, vị lai hiện
tại, Tôn Ngộ Không đều biết cả. "Tiền ngũ thức" là Sa Tăng, gặp đâu hay
đó, gặp sắc thì hay sắc, gặp tiếng thì nghe tiếng, hễ tiếng qua đi rồi
thì thôi.
Kể từ khi nhận giới hạnh, trở thành đệ tử của Phật
giáo, Ngộ Không bao giờ cũng thể hiện niềm kính tín đối với Phật tổ và
các vị Bồ Tát. Tuy nhiên, đức tin của Ngộ Không xuất phát từ sự minh
triết, giác ngộ thực sự và luôn luôn tiềm ẩn tinh thần phê phán chứ
không giống như sự cuồng tín và cố chấp của Đường Tăng. Bằng chứng rõ
nhất là tuy ở cương vị đồ đệ nhưng chính Ngộ Không lại là người rất
nhiều lần giảng giải giáo lý Phật cho sư phụ của mình.
Điều này có nguồn gốc từ bản thân lý tưởng bình đẳng,
bác ái và tinh thần đề cao giác ngộ bằng sự thể nghiệm cá nhân của Phật
giáo nói chung. Mặt khác, nó là sản phẩm của tinh thần thực tiễn vốn
được thể hiện rất rõ trong Phật giáo Thiền tông. Nó tạo nên cung cách
ứng xử cũng khá ngang tàng giữa Ngộ Không với các thần thánh Phật giáo:
phản ứng tức khắc mỗi khi cảm thấy các "bề trên" không minh chính hoặc
tỏ ra không xứng đáng.
Như lần đến mời Quan Âm Bồ Tát hàng phục Hắc đại
vương, Bồ Tát vừa mở miệng hỏi, Ngộ Không đã nói ngay ý nghi ngờ của
mình, chẳng cần úp mở: "Sư phụ tôi dọc đường có gặp một ngôi chùa thờ
ngài, ngài được người ta thờ cúng mà lại cho con yêu tinh gấu đen ở bên
cạnh để nó ăn trộm áo cà sa của sư phụ tôi, mấy lần đòi, nó không trả,
nay tôi đến đòi ngài đấy".
Hay lần này Di Lặc giáng hạ bắt quái Hoàng My, ban đầu
Ngộ Không tỏ ra rất lễ độ với Phật tổ nhưng vừa nghe nói: "Hắn chính là
tên tiểu đồng lông mày vàng giữ chiếc khánh cho ta" là lập tức đổi
giọng, lớn tiếng quát: "Hòa thượng đáng cười này giỏi thật! Ngài bỏ sống
tiểu đồng, để hắn ngông cuồng xưng là Phật tổ, hãm hại lão Tôn, không
thể miễn lỗi gia pháp không nghiêm!".
Mỹ Hầu Vương đặc biệt có đôi mắt vàng sáng chói, chiếu
suốt qua các cung trời làm Ngọc Hoàng rung động, kinh ngạc. Đôi mắt
vàng ấy phân biệt rõ chính tà, hư thật. Đôi mắt vàng ấy đã giàn giụa
nước mắt trước cảnh đời vô thường, khổ đau đi tìm đường học đạo bất
sinh, bất diệt từ Tôn giả Tu Bồ Đề tại một xứ xa xăm. Đôi mắt vàng ấy đã
là linh hồn của cuộc hành trình thỉnh Kinh mà thiếu nó thì tức thời
phái đoàn rơi vào ma nạn. Đôi mắt vàng ấy là gì, nếu không phải là biểu
tượng của trí tuệ Bát Nhã, của giáo lý trí tuệ Phật giáo?
Hầu như suốt thời gian theo dõi cuộc hành trình thỉnh
Kinh, chúng ta đã bị cuốn hút bởi cái nhìn chính xác và bởi thái độ tự
chủ trước các hiểm nạn, trước mọi cám dỗ của Tôn Hành Giả. Mỗi cái nhìn,
mỗi bước đi của Hành Giả như vang vọng lời Kinh Bát Nhã: "... Dĩ vô
sở đắc, cố Bồ-đề-tát-đoả y Bát Nhã Ba La Mật-đa, cố tâm vô quái ngại,
vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng
tưởng, cứu cánh Niết bàn". Hồi thứ hai là hồi học đạo và hành đạo của Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không đã học, bàn luận, hành Tam thừa giáo và Nhất thừa giáo suốt bảy năm liền, như tác giả Ngô Thừa Ân giới thiệu: "... Diễn đủ Tam thừa giáo. Lúc diễn thiền môn, khi giảng đạo. Ba nhà hợp lại nghĩa thêm càng".
Trong thời gian này, Tôn Ngộ Không làm công tác của
một người xuất gia, chấp tác và thực hành văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ để
nuôi dưỡng trí tuệ giác ngộ Không tính (Vô ngã tính) của các pháp. Động
cơ và nguyện vọng xuất gia của Ngộ Không là để giải thoát hết thảy phiền
não, khổ đau của sinh tử rất tương ứng với giáo lý của Phật. Sau bảy
năm hành đạo, khi hiểu rõ đường đi và chỗ đến, Tôn giả Tu Bồ Đề dạy tiếp
công phu thiền chỉ và thiền quán để chế ngự thân và ý, để điều hòa thân
và điều hòa tâm. Tôn Ngộ Không thực hành công phu này trong ba năm thì
sáng tỏ tâm và tuệ.
Đề tài của Tây du ký là chuyến đi lấy kinh.
Bản thân câu chuyện này được phát triển với tiền đề định sẵn là khẳng
định Phật giáo nên chính nó đã mang màu sắc tôn giáo rồi. Trải qua một
quá trình lưu truyền lâu dài, được bao người bổ sung, sửa chữa, trau
chuốt, ngoài việc phản ánh tư tưởng, tình cảm của quần chúng nhân dân,
nó còn mang theo những tạp chất khác. Trong xã hội phong kiến, thế lực
Phật giáo tỏa ra khắp nơi vì trình độ nhận thức của thời đại hạn chế,
người ta rất dễ bị ảnh hưởng. Ngô Thừa Ân không tránh khỏi những quan
niệm tôn giáo nào đó. Bởi thế, trong Tây du ký cũng tồn tại tư tưởng định mệnh, tư tưởng nhân quả báo ứng và Phật pháp vô biên.
Thí dụ, chín chín tám mươi mốt nạn, không thể thiếu
nạn nào. Vả lại, thường là lúc tai qua nạn khỏi, có một vị thần Phật đến
thuyết giáo một hồi, nào là "cái ăn, cái uống đều do tiền định", nào là
"ma chướng chưa hết, cho nên bách linh hạ giới, phải chịu tai nạn". Như
vậy là điều hòa cuộc đấu tranh của Tôn Ngộ Không với thuyết định mệnh.
Những chỗ triết lý về nhân quả báo ứng cũng không ít, rõ ràng nhất là
chuyện Lưu Toàn dâng dưa và chuyện hạn hán ở quận Phượng Tiên.
Trong câu chuyện thứ hai, Tôn Ngộ Không như một ông
thầy giảng về "khuyến thiện". Còn như tư tưởng Phật pháp vô biên thì
biểu hiện ở việc Tôn Ngộ Không bị Như Lai khống chế, tuy y có tài nhào
một cái là xa mười vạn tám ngàn dặm, nhưng lại không vượt khỏi lòng bàn
tay Như Lai. Những điểm này có mâu thuẫn ít nhiều với tư tưởng chủ đề
của toàn sách, đồng thời cũng phản ánh mâu thuẫn trong thế giới quan của
tác giả. Nhưng so sánh với thành tựu rực rỡ của bộ truyện thì những
khuyết điểm đó chỉ là thứ yếu.
Cốt truyện Tây du ký liên quan đến đạo Phật nhưng tác
phẩm không nhằm mục đích truyền đạo. Đạo Phật ở đây được hiểu như một lý
tưởng chính trị, một ước mơ về tự do, bình đẳng. Đó là dấu ấn của tư
tưởng người dân hình thành trong quá trình truyền miệng câu chuyện Tây
du của vị sư trẻ đời Đường. Chính vì thế, khác với lịch sử, nhân vật
chính quyết định thành bại của chuyến đi không phải là nhà sư mà là Tôn
Ngộ Không.
Nếu không có Tôn Ngộ Không dùng gậy thần mở một con
đường thì một bước họ cũng không đi nổi. Nhân vật phi thường này trở
thành biểu tượng của người anh hùng phản kháng, của tư tưởng chống đối
các thế lực bạo tàn, của lòng dũng cảm và trí thông minh có thể chiến
thắng mọi thứ thiên tai nhân hoạ. Đó là bóng dáng của các cuộc khởi
nghĩa nông dân vang dội. Ý chí sắt đá, tinh thần lạc quan, tư tưởng đánh
và quyết đánh của Tôn Ngộ Không cũng như quá trình Tây du thắng lợi của
đoàn người thỉnh kinh đã phản ánh quyết tâm vươn tới một cuộc sống tốt
đẹp của người dân lao động.
Tây du ký ra đời không phải là chú ý đến sự
nghiệp Tây du thỉnh kinh của Đường Tăng, mà là chú ý đến nhân cách được
xây dựng từ giáo lý này. Một nhân cách sống vì hạnh phúc an lạc của số
đông, sống hiền thiện, vì công bằng, bình đẳng, tôn trọng sự thật, trách
nhiệm cá nhân và đặc biệt là sống tùy duyên, rất trí tuệ.
Theo: Tin tức Online