điểu cầm
(phụng, ưng,
hạc két,
quạ, chim
cút, vịt
trời, gà
vịt, ngan
ngỗng),
muông
thú (hổ,
ngựa, lừa,
trâu bò, dê,
nai), con
vật truyền
thuyết
(long, lân),
tôm cá
cua, côn
trùng
(bướm, chuồn
chuồn, dế,
bọ ngựa,
sâu, kiến),
cây cối
(tùng bách,
tre trúc,
ngô đồng,
dương liễu,
phong),
phong cảnh
(mây nước
sông biển,
núi non,
thác ghềnh,
khe suối),
trái cây,
nhân vật
(thật và
truyền
thuyết)...
Những chủ đề
này được các
họa sĩ khai
thác triệt
để suốt bao
thế kỷ qua.
Có người
chuyên vẽ
đá, hoặc
mai, hoặc
lau, hoặc
trúc...
Chính vì thế
nên hội họa
Trung Quốc
lâm vào biển
chết, người
họa sĩ cảm
thấy lúng
túng trong
mê lộ: bất
kỳ ý tưởng
nào cũng là
cũ kỹ mà các
tiền bối đã
khai thác
hết rồi.
Loại tranh
này chẳng
còn gì tân
kỳ nữa, rốt
cuộc chỉ là
những màu
sắc trang
trí trong
phòng thất
mà thôi.
Kể từ vị tổ
thiền 28 Ấn
Độ là Bồ Đề
Đạt Ma
(?-528) sang
Đông Độ
thành sơ tổ
thiền Trung
Quốc (năm
520, đời vua
Lương Võ
Đế), thiền
đã mọc rễ và
lớn mạnh với
thông điệp
thù thắng:
«Bất lập văn
tự, giáo
ngoại biệt
truyền, trực
chỉ nhân
tâm, kiến
tánh thành
Phật.» Cho
đến đời Nam
Tống (thế kỷ
XII) thiền
du nhập vào
Nhật Bản.
Thiền đã ảnh
hưởng tâm
hồn hai dân
tộc Trung
Quốc
-
Nhật
Bản
suốt bao thế
kỷ trong
sinh hoạt
hằng ngày
cũng như
trong học
thuật.
Vòng tròn
viên mãn
(tranh Torei
Enji,
1721-1801)
Thế là thiền
đã thổi vào
nền hội họa
truyền thống
một luồng
sinh khí
mới, cứu lấy
môn họa này
thoát khỏi
biển chết.
Cách thể
nghiệm thiền
«minh tâm
kiến tánh»
là nguồn cảm
hứng bất tận
cho người
nghệ sĩ. Hội
họa là một
ngôn ngữ phi
ngôn ngữ, mà
ngôn ngữ hội
họa há không
thể trực chỉ
nhân tâm
sao? Rõ ràng
có thể xem
hội họa là
phương tiện
thể nghiệm
thiền để có
thể kiến
tánh. Nhưng
tôn chỉ của
thiền là phi
phương tiện
(bất lập văn
tự, giáo
ngoại biệt
truyền) cho
nên phải thể
hiện thế nào
sao cho hội
họa trở
thành một
thứ phương
tiện để có
thể tải được
tư tưởng ảo
diệu thâm
mật của Phật
giáo? Những
đặc điểm nổi
bật của
thiền họa là
sự đơn giản
tối đa tưởng
chừng phi
nghệ thuật,
sự hướng
nội, sự
trống trải
đầy gợi ý,
sự viên mãn
trong bất
toàn (như
lời Lão Tử:
«Đại thành
nhược
khuyết»), và
được thể
hiện theo
phong các
đặc biệt:
tiết giảm
nét bút và
chừa nhiều
khoảng trống
trên giấy
(gọi là bút
pháp một
góc:
one-corner
style).
Trúc trong
gió (tranh
Sengai
Gibon,
1750-1837)
Trong môn
họa Trung
Quốc có hai
loại bút
pháp trái
ngược nhau:
«công bút»
và «ý bút»,
có thể độc
dụng hay
kiêm dụng
trong tranh.
«Công bút»
là lối vẽ tỉ
mỉ công phu
trau chuốt
từng chi
tiết nhỏ. «Ý
bút» là bút
pháp tả ý
chấp nhận
màu sắc,
nhưng trong
thiền họa
bút pháp này
ly khai màu
sắc, chỉ có
mực đen giấy
trắng mà
thôi. Người
Nhật gọi là
sumiye (mặc
hội: vẽ bằng
mực đen),
Trung Quốc
gọi là mặc
họa.
Tranh của
thiền sư Mục
Khê
(1180-1250),
đời Tống
«Mặc» tức là
mực đen, làm
bằng bồ hóng
và keo. Bút
làm bằng
lông các thú
như dê, thỏ,
chồn, sói và
ngậm được
nhiều mực.
Giấy vẽ là
loại giấy
cực mỏng,
đặc biệt là
giấy Tuyên
mà ta quen
gọi là
«xuyến chỉ».
Từ đời Tống
trở về
trước, tranh
Trung Quốc
chủ yếu dùng
lụa. Từ đời
Tống về sau,
do kỹ thuật
làm giấy
tinh xảo
hơn, bắt đầu
xuất hiện
giấy Tuyên.
Nói chung,
vẽ sơn thủy
và tả ý chủ
yếu dùng
giấy; vẽ
nhân vật,
điểu, hoa
chủ yếu dùng
lụa để dễ
đạt sự tinh
vi tỉ mỉ.
Nhưng dù lụa
hay giấy, cả
hai đều là
chất liệu lý
tưởng vì hút
mực dễ dàng.
Điểm này
khác hẳn lối
họa sơn dầu
Tây phương.
Chăn trâu
(tranh
Tsuboshima
Dohei)
Một chất
liệu mong
manh dễ rách
như giấy
được chọn
làm công cụ
thể hiện cảm
hứng nghệ
thuật bởi
những cảm
hứng này
phải được
tải đi thật
nhanh, nếu
ngọn bút
dừng lại
lâu, giấy sẽ
bở rách vì
quá ẩm ướt.
Đường nét
phải vẽ
nhanh, tiết
giảm tối đa
và chỉ thể
hiện những
gì thật cần
thiết mà
thôi. Một
nét bút
phóng ra
phải là duy
nhất, dù nó
thế nào ta
cũng không
được dậm vá,
tô điểm hay
sửa chữa. Nó
phải tự do,
không gò ép,
không tẩy
xóa hay đồ
lại. Người
nghệ sĩ cứ
để mình trôi
đi theo dòng
cảm xúc một
cách tự
nhiên tự
phát tuyệt
đối. Cánh
tay, bàn
tay, ngọn
bút chính là
một tổng thể
và dường như
có bàn tay
vô hình nào
đó dẫn dắt
đi. Thiền
họa dường
như thực
hiện bởi khả
năng phi
kiểm soát
của người
nghệ sĩ, một
sự phi kiểm
soát đầy khổ
luyện. Nếu
giữa bút và
giấy có xen
vào sự suy
tư lý luận
nào đó, điều
này sẽ phá
hỏng tác
phẩm. Ta sẽ
lầm nếu cho
rằng bức
tranh chỉ là
những nét
nguệch ngoạc
cẩu thả vô
lối. Đường
nét của
thiền họa là
cái gì bất
toàn, nó bất
chấp luật
phối cảnh
(perspective)
và luật vẽ
bóng
(chiaroscuro)
vốn là định
luật cơ bản
của lối họa
Tây phương
để dựng hình
ba chiều.
Điều cốt yếu
là cái thần
của sự vật
phải thể
hiện được
trên giấy,
do đó nét
bút phải
sống động
như là nhịp
đập của một
sinh thể.
|
Quán Tự
Tại |
Lối họa của
tranh thiền
khác hẳn lối
họa sơn dầu
Tây phương.
Lối họa sơn
dầu đòi hỏi
một bố cục
nghiêm chỉnh
có qui tắc
và hệ thống.
Vải bố, sơn
dầu là những
chất liệu
mạnh mẽ cho
phép họa sĩ
tẩy xóa, dặm
vá, cạo sửa
dễ dàng. Lối
họa Tây
phương ví
như tấm vải
triết lý
hoàn bị mà
các sợi chỉ
logic của nó
đan kết chặt
chẽ với
nhau. Nó ví
như một giáo
đường tôn
nghiêm mà
tường, cột,
nền toàn
bằng đá tảng
rắn chắc.
Ngược lại,
thiền họa
sao mà nghèo
nàn, hình
thức sao mà
sơ sài thô
thiển, đường
nét sao mà
giản ước,
chất liệu
sao mà mong
manh đến
vậy. Thế
nhưng, người
Đông phương
chúng ta lại
nhìn thấy
trong đó một
nhịp sống kỳ
diệu ẩn tàng
sau từng
nét, từng
chấm, từng
mảng đậm
nhạt. Đen và
trắng tượng
trưng cho
cặp mâu
thuẫn đối
đãi gay gắt
trong cõi
nhị nguyên
này – cõi mà
tư tưởng
chúng ta
chấp trước
vào nó:
đen/trắng,
đúng/sai,
thiện/ác,
cao/thấp,
ngắn/dài,
sướng/khổ,
đẹp/xấu,
có/không,
v.v...
Thiền là bất
nhị pháp môn
(non-dualism)
đột phá cái
thế nhị
nguyên đối
lập để giải
thoát nhân
sinh. Tư
tưởng nhất
nguyên
(monism) phá
chấp ấy
chính là căn
bản đạo pháp
thiền. Những
sắc độ đậm
nhạt tượng
trưng cho
từng mức độ
hóa giải, và
tất cả những
đen trắng
đậm nhạt ấy
trong từng
nét bút đã
thể hiện một
sự vật nào
đó tưởng
chừng vô
nghĩa như
gốc cây, cục
đá, cành
hoa, con
chim trên
cành, ngọn
lau trĩu
tuyết...
nhưng lại
chuyển tải
được sự sống
mà không cần
giảng giải.
Một đoá huệ
nở cô đơn
hay một cánh
sen lay
trong gió là
hình ảnh
sống động
của một tâm
hồn thuần
phác nguyên
sơ trong cơn
giông tố
cuộc đời.
Một lá
thuyền câu
bé nhỏ trên
mặt nước
mênh mông
cho ta ấn
tượng sâu
sắc hình ảnh
biển cả bao
la và sự
hiện hữu một
tâm hồn sâu
kín hòa nhập
với cuộc
sống vĩnh
hằng vô ngại
giữa nhịp
sóng đời dâu
biển. Tất cả
những kỳ
diệu sâu kín
này lại tựu
thành trong
sự dung dị
và phi nỗ
lực.
Thiền sư
nhập định
(tranh Thạch
Khác, thế kỷ
X)
Thiền họa
không phải
là chụp
hình, mô
phỏng hay
sao chép một
thực thể.
Một nét chấm
hay một
đường cong
không tượng
trưng cho
con chim hay
ngọn núi, mà
nét chấm đó
chính là con
chim, đường
cong đó
chính là
ngọn núi,
bởi vì thiền
họa phải là
sáng tạo.
Một sự vật
trong tranh
thiền phải
giống thực
mà không
giống thực,
phải viên
mãn mà dường
như khiếm
khuyết.
Người nghệ
sĩ buông xả
mọi nỗ lực
chụp hình
nguyên dạng
sự vật, mà
sáng tạo một
sinh thể
ngoài sự
tưởng tượng
của chúng
ta. Thái độ
của nghệ sĩ
thiền họa
đối với nghệ
thuật cũng
là thái độ
của thiền
đối với cuộc
sống. Đó là
lý do tại
sao hầu hết
các tác giả
của tranh
thiền đều là
thiền sư hay
thiền sinh.
Nét bút của
họa sĩ phải
dứt khoát
như tia
chớp, không
tô sửa. Bởi
vì một sự
vật chỉ đẹp
khi nó không
bị ràng buộc
hay câu
thúc. Cái
đẹp đó nằm
trong sự
buông xả. Cơ
nhục được
vận dụng vẽ
một đường
hay một chấm
nhưng đằng
sau đó là sự
vô tâm. Với
sự vô tâm vô
niệm của
nghệ sĩ
thiền, tác
phẩm nghệ
thuật được
hình thành.
Thiền họa
chụp bắt cái
thần của sự
vật đương
lúc nó vận
hành. Điều
này có vẻ
khó bởi vì
vạn vật luôn
vận động
không bao
giờ tĩnh
tại. Nhưng
người nghệ
sĩ thiền họa
có thể làm
được điều
này nếu biết
nắm bắt sự
sống từ
trong tâm
nội hơn là
tâm ngoại.
Khi tác phẩm
hình thành,
những nét
bút phóng
phát trực
tiếp từ nội
tâm không bị
tạp niệm
ngăn trở đó
chính là một
sinh thể.
|
Lục tổ
Huệ Năng
đốn trúc
(tranh
Lương
Khải đời
Tống) |
Cho nên,
thiền họa
khước từ màu
sắc, bởi vì
màu sắc gợi
nên một thực
thể trong
thiên nhiên
mà thiền họa
thì không
chấp nhận
một sự tái
hiện nào dù
hoàn toàn
hay bất
toàn. Nếu
chủ trương
hội họa là
sao chép mô
phỏng tái
hiện giống
hệt một sự
vật thì
không gian
hai chiều
của trang
giấy sẽ
không thể
hiện được
trung thực
điều gì, và
màu sắc khó
mà đạt được
nguyên dạng
sự vật đó.
Và nếu người
họa sĩ lại
cố vẽ cho
thật giống
thực thể đó
thì cũng chỉ
là sự mô
phỏng tái
hiện rất tội
nghiệp mà
thôi.
Mặt khác,
thiền họa
không cho
phép sự trì
hoãn. Sự
diên trì của
ngọn bút sẽ
phá hỏng tờ
giấy vốn dĩ
mong manh
yếu ớt. Trì
hoãn có
nghĩa là
thay đổi, là
vỡ mộng, là
toan tính,
là lý sự, là
câu thúc mà
đó không
phải là tinh
thần của
thiền họa.
Luôn luôn có
một nét nào
đó xuất hiện
bất ngờ đột
ngột trong
thiền họa.
Nơi mà ta
tưởng sẽ có
một đường
hay một chấm
thì lại
chẳng có gì
cả. Nhưng sự
thiếu vắng
đó không hề
gây thất
vọng mà nó
gợi ý cho ta
mạnh mẽ hơn
nữa. Cho nên
«bút pháp
một góc»
khiến cho
tranh có
nhiều khoảng
trống,
thoáng và
đầy gợi ý.
Một trang
giấy nhỏ có
thể hàm ẩn
cả vũ trụ.
Một nét
ngang ngụ ý
cho sự mênh
mông của
không gian,
một vòng
tròn gợi ý
sự vĩnh hằng
của thời
gian, chúng
còn gợi nên
sự vô biên
và sự sống
nữa.
Điều cần lưu
tâm là tranh
tôn giáo
không phải
là tranh
thiền. Cho
nên tranh
họa chân
dung chư
Phật thậm
chí chân
dung các tổ
thiền hay
thiền sư
không nên
miễn cưỡng
xếp vào loại
thiền họa.
Một số tranh
tuy thực
hiện với lối
công bút
nhưng giàu
hương vị
thiền thì
cũng có thể
gọi là thiền
họa được.
Bước vào cõi
tranh thiền
là bước vào
thế giới u
mặc đầy gợi
ý. Người
nghệ sĩ
thiền họa –
nguyên là
thiền sư
hoặc thiền
sinh – chẳng
những muốn
ký thác vào
tranh tâm
nguyện theo
dấu bước của
chư tổ bằng
cách minh
họa chân
dung, hành
trạng các
ngài, mà còn
muốn gởi cho
tha nhân một
thông điệp
ẩn tàng qua
những hình
ảnh đơn sơ
đời thường
tưởng chừng
vô nghĩa với
nét bút tiêu
sái ngõ hầu
tha nhân có
thể giải
thoát tâm
linh. Trong
chừng mực
nào đó thiền
họa có thể
xem là một
phương tiện
chứng ngộ.
Chức năng
của thiền
họa gắn với
chức năng
của công án
thiền.
Kể từ Thiền
du nhập
lưỡng thổ
Trung-Nhật,
nền hội họa
mỗi nước đã
khởi sắc và
mang một
hương vị
thâm trầm.
Hương vị
thiền giúp
thiền họa
trở thành
một mảng
tranh độc
đáo tân kỳ
và biệt lập
trong kho
tàng hội họa
Đông phương.
Người thưởng
ngoạn tranh
thiền trong
phút giây
tĩnh lặng
trầm ngâm
bên tách trà
ngát hương,
dù đã muôn
lần hân
thưởng một
bức tranh
nào đó,
nhưng rồi sẽ
có một lần
chợt thấy
mình chới
với. Bức
tranh mới
quá, lạ quá,
cơ hồ mới
thấy lần
đầu. Một
chân lý vi
diệu vừa
được khám
phá. Đó là
khoảnh khắc
của sự bừng
tỉnh, như
căn phòng
kín tối tăm
đã lâu nay
được mở
toang mọi
cửa nẻo đón
ánh quang
huy của một
ngày mới,
như ngọn đèn
vừa thắp lên
sau biết bao
tháng năm bỏ
quên lăn lóc
trong bóng
tối âm thầm.
●
10 tranh
chăn trâu /
thập mục
ngưu đồ
|
|
1. Tìm
trâu |
2. Thấy
dấu |
|
|
3. Thấy
trâu
|
4. Được
trâu |
|
|
5. Chăn
trâu |
6. Cưỡi
trâu về
nhà |
|
|
7. Quên
trâu,
còn
người |
8. Trâu
và người
đều quên |
|
|
9. Phản
bản hoàn
nguyên |
10.
Thõng
tay vào
chợ |
SÁCH THAM
KHẢO
1. D.T.
Suzuki,
Zen Buddhism,
Doubleday
Anchor
Books, NY,
1956,
p.279-284.
2. D.T.
Suzuki,
Manual of
Zen Buddhism,
Grove Press
Inc, NY,
1960,
p.128-144.
3. Jean A.
Keim,
L'Art
Chinois,
Fernand
Hazan,
Paris, 1961.