Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ
Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương "Nhữ triêu xuất nhi văn lai"
mày sáng đi mà chiều về, "tắc ngộ ỷ môn nhi vọng" thì ta
tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con
khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc
cảm rằng bà mẹ đó có thật.
Truyện dân gian mô tả lòng mẹ
thương con thì rất nhiều. Thử lấy một. Người mẹ bị rắn
độc cắn, biết mình sắp chết bỏ con, vội vã chạy về nhà,
đổ lúa vào cối mà xay, đổ thóc vô cối mà giã, gấp gấp để
cho có gạo để lại con ăn sau khi mình chết. Không ngờ
huyền diệu đã xảy ra: dồn cả sức lực, bắp thịt đến rã
rời, truyện kể rằng chất độc toát ra theo mồ hôi, thoát
ra theo hơi thở... và người mẹ được cứu sống. Còn nhớ
truyện vua Salomon xử kiện? Hai người đàn bà tranh nhau
một đứa nhỏ, ai cũng nói mình là mẹ của nó. Dùng đủ mọi
lý lẽ mà không giải quyết yên, cuối cùng vua phán: "Ðem
đứa nhỏ ra xẻ hai, mỗi người lãnh một nửa". Một người
đàn bà nói: "Dạ, thà như vậy cho công bằng". Người đàn
bà kia: "Thôi, tôi xin nhường". Ðó là lời của mẹ bạn đó,
hỡi bạn nhỏ đang lắng nghe tôi. Mẹ bạn cũng sẽ xử sự như
vậy nếu bị đặt vào hoàn cảnh nêu trên.
Trường hợp này thì còn đáng phục
hơn: Chàng Côdắc hỏi tiên nữ Ôcxana rằng đến khi nào
nàng mới yêu chàng? Nàng trả lời rằng nàng sẽ yêu người
nào đem tặng trái tim người mẹ... Chàng Codắc im lặng,
lòng đượm buồn và chẳng thiết gì ăn uống nữa. Nhưng rồi
cuối cùng chàng cũng mang đến cho Ôcxana trái tim của mẹ
mình.
Ðường dài chân mỏi mắt hoa
Vừa lên thềm cửa, chân sa ngã nhào
Tim mẹ đập, ứa máu đào
Mà còn hỏi nhỏ "Nơi nào đau, con?"
Hỡi ơi, chỉ có trái tim người mẹ
mới vị tha tới mức vẫn cứ thương đứa con bội bạc dường
kia!
Tưởng cũng nên nhìn qua vài gương
mẹ hiền, dạy con nên người, xả thân vì nghĩa. Mẹ Mạnh Tử
chọn láng giềng tốt, cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung
để làm bài học dạy cho con. Mẹ Vương Lăng (1) với bài
thơ tiễn sứ giả, mẹ Từ Thứ (2), mẹ...
Lòng mẹ đối với con như vậy, còn
lòng con dành cho mẹ thì sao? Trong bốn câu thơ Ðoạn
trường tân thanh nêu trên, một câu đầu nói nỗi lòng
người mẹ thì hai câu sau là nỗi lòng của con. Câu trước
dành cho đứa con nhỏ tuổi là Hoàng Hưng, câu sau chọn tả
nhân vật hiếu tử già nhất lịch sử: Lão Lai. Suốt cuốn
Nhị thập tứ hiếu là 24 gương con hiếu. Nhiều gương ngang
tầm với người thường, người thường làm được. Truyện
Quách Cự chôn con, được chum vàng. Trời chu đáo chôn sẵn
để thưởng Quách Cự, hơi khó tin đối với chúng ta hôm
nay. Có vẻ như do một thí sĩ của cung đình sắp đặt dựng
lên nhằm ca tụng vượng khí của triều đại, thần linh và
con người giao cảm tương thân. Riêng truyện Vương Thôi
có khí vị đặc biệt. Mẹ Vương Thôi sợ sấm. Ngày thường
Thôi ra đồng làm việc, mà hễ trời nổi cơn sấm sét là lật
đật chạy về nhà cho mẹ hết sợ. Khi mẹ chết rồi, mỗi lần
sấm sét là Thôi lại vội vàng chạy ra ôm mộ mẹ mà nói: "Có
con đây, mẹ đừng sợ". Tâm hồn Vương Thôi có cái gì
chất phác đơn giản của một người nông thôn quê mùa,
khiến ta tin là hoàn toàn có thật. Và không cần cố gắng,
khỏi phải lý giải, hễ đọc lên là lòng mỗi chúng ta đều
xúc động rưng rưng.
Trong kho truyện cổ của ta có
chuyện Bát canh hẹ. Một tù nhân một hôm nhìn vào
mâm cơm thấy có bát anh hẹ liền khóc òa bảo người cai
ngục: "Tôi biết là mẹ tôi vừa tới thăm tôi, nhờ ông
chuyển cho bát canh hẹ này. Vì hồi ở nhà mẹ tôi thường
nấu canh hẹ cho tôi ăn".
Truyện kể một vị hiền giả nọ (3),
một hôm phạm lỗi bị mẹ đánh. Ông khóc tức tưởi nhiều hơn
mọi lần. Mẹ hỏi: "Lần này mẹ đánh ít, sao con khóc
nhiều?" Thưa: "Những lần trước mẹ đánh nhiều,
ngọn roi mạnh, con khóc vì đau. Lần này mẹ đánh ít, ngọn
roi nhẹ, con thấy ít đau, nhưng con biết sức mẹ đã yếu,
mẹ đã già, nghĩ vậy mà con khóc". Sách vở ghi biết
bao nhiêu gương hiếu.
Mà nào phải lục tìm trong cổ văn
mới thấy gương mẹ hiền biết cách thương con. Mẹ của
người bạn cùng quê với tôi, anh Phạm Ngọc Ân, vốn không
biết chữ Quốc ngữ như mọi bà mẹ thời đó. Khi Ân học vỡ
lòng, anh lẫn lộn M với N, P với Q... rồi sang vần ngược
thì càng tha hồ lẫn lộn. Cha giận, vừa nạt, nộ, vừa vụt
roi. Mẹ thương con, lén đứng dòm, lẩm nhẩm nhớ để rồi
bày cho con. Kết quả là bà đọc được Quốc ngữ và sau đó
Ân học hành giỏi, làm tới chức thanh tra giáo dục. Ân
nay đã đông vầy con cháu và mẹ già đã nằm yên dưới ngôi
mộ bên sườn núi Ngân Sơn.
Chỉ không lưu ý đó thôi chớ hình
ảnh mẹ con diễn ra quanh ta đầy dẫy, vạn trạng thiên
hình kể sao cho xiết! Mẹ ẵm con đi chợ, mẹ bồng con đi
nhà thương, mẹ dắt con đi tới trường... Trên sân: gà mẹ
dẫn gà con bươi rác. Trên đồng cỏ: Trâu mẹ đứng yên cho
trâu con sục mõm vào bầu vú, mắt nhìn hiền từ, thỉnh
thoảng liếm vai liếm lưng. Con cò luộm thuộm vụng về,
cái cổ dài ngoẵng, cặp chân lêu khêu vậy mà từ lưng
chừng trời trời xếp đôi cánh đáp xuống nhẹ nhàng cạnh
bầy con, dùng cái mỏ nhọn hoắc để sú mồi, để rỉa lông âu
yếm... Tình mẹ con quả là thứ tình cảm thiêng liêng khó
giải khi ta nhìn cặp mắt vàng lợt đó như thiếu vắng sự
thông minh, cái cổ quá mảnh quá dài làm khó khăn biết
bao cho sự dẫn truyền tình cảm.
Cho chí thảo mộc vô tình cũng gợi
xúc cảm mẹ con. Cây chuối mẹ và bầy chuối con xúm xít.
Cây ổi mẹ và lũ ổi con ngơ ngác vây quanh. Lũ cây con
rất cần mẫn nhìn mẹ mà bắt chước, mà nhại theo hình dáng
mẹ, cố gắng sao cho giống mẹ.
Trên đời không ai yêu thương ta
bằng mẹ. Người tình dẫu thủy chung, cũng chỉ yêu ta với
diều kiện. Hoặc là ta đẹp. Hoặc là ta có tài. Mẹ thì
không, xấu xí cũng thương, xấu xí càng thương như nhằm
bù lại những thiệt thòi cho con, như ngầm nhận sự xấu xí
là do lỗi mẹ.
Không đến nỗi quá lời nếu nói
rằng với mẹ, con là tất cả. Khi có con, mẹ bình dân vạch
vú cho bú, áo xống xốc xếch, quần xăn quá đùi cũng không
còn thấy ngượng. Có con là như đã có đủ rồi. Không như
những bạn lấy chồng năm mười năm mà chưa có con, vẫn cứ
thẹn, thùng kín đáo.
Ðúng, đã có đủ rồi. Vì có con, mẹ
mới yên tâm, mẹ vừa hãnh diện. Con là tác phẩm tuyệt hảo
của mẹ, là báu vật thiêng liêng mà mẹ vẫn không hiểu làm
sao mà mình có đủ khả năng tạo thành. Cái sinh vật nhỏ
đó lần lần lớn lên, có trí thông minh, thân thể phát
triển vẹn toàn để có thể sẽ trở thành danh nhân, trở
thành vĩ nhân. Càng thêm hãnh diện, càng được đền bù bởi
mẹ mang thân phận đàn bà, từ mới sinh ra đã chịu mọi
thiệt thòi. Làm con gái đâu được cha mẹ chìu bằng con
trai. Lớn lên phải phụ tay trong bếp, dọn dẹp trong nhà.
Sự thiệt thòi đeo đẳng suốt đời chỉ vì là thân phụ nữ.
Luân lý thời xưa khắc nghiệt bắt người đàn bà không được
bước đi bước nữa, phải ở vậy thờ chồng nuôi con. Trải
bao cuộc chiến tranh, bao nhiêu góa phụ chôn vùi tuổi
thanh xuân, đến khi nhắm mắt xuôi tay là coi như xóa
sạch cuộc đời, vĩnh viễn không còn dấu vết. Cho dẫu có
được sắc chỉ "Tiết hạnh khả phong" hoặc dãy vòng hoa và
bài ai điếu.
Rốt cuộc dường như niềm vui lớn
nhất trên đời là khi sinh được đứa con. Tình yêu chồng
dần dần sớt qua con và nếu gặp trường hợp đớn đau phải
hy sinh đời mình để cho con sống thì hầu như mọi người
mẹ đều nuốt nước mắt nhận cái chết về mình, ít cần lưỡng
lự.
Nước ta có hai bậc quần thoa xuất
chúng. Bà Trưng và bà Triệu, được ca ngợi là cân quắc
anh hùng, hào quang xuyên suốt lịch sử. Nhưng không thấy
sử ghi là hai bà có được đứa con. Khiến có hôm xúc cảm
nhìn cảnh mẹ con vui vầy của những bà mẹ, "mẹ của Quỳnh
Chi, Thanh Hải, Nhật Thành... Tôi chợt ngậm ngùi nghĩ
đến hai bà:
Tôi chợt nhớ về Bà Trưng, Bà Triệu
Chưa một lần được nói tiếng "con ơi!"
Vì nghĩa lớn, xả thân mình lo liệu
Phần ấm êm: xin nhường hết cho người.
Phần ấm êm là đứa con, là tình mẹ
con, dẫu rằng thế tục tầm thường nhưng không phải dễ mà
có dược.
Tôi, thuở ấu thơ không được sống
gần mẹ, đã vậy mới mười một tuổi mẹ đã từ trần. Theo cha
đến chùa một lần là nhân lễ mãn tang mẹ. Lớn lên mới
biết là lễ Vu Lan báo hiếu nên cứ mỗi lần xé tờ lịch
nhìn thấy ghi tháng Bảy âm lịch là lòng u hoài nghĩ đến
mẹ. Có một thôi thúc nhẹ nhàng, một háo hức tiềm ẩn muốn
được làm một cử chỉ báo ân. Nhưng mẹ đâu còn? Ðành tìm
trong chỗ bạn quen thân có ba người còn mẹ già, ngày Vu
Lan tự tay đem một tặng vật nhỏ, gọi là góp lời cầu
nguyện cùng bạn. Rồi âm thầm nghĩ đến tích Mục Liên
Thanh Ðề, nhớ đến quê hương xa cách, ngôi chùa làng vắng
vẻ tịch liêu. Ðến ngôi mộ của mẹ tôi, của bác tôi, của
ông bà tôi nằm rải rác quạnh hiu nơi sườn núi cuối thôn.
Ðến những vị xuất gia đã cát ái từ thân, giờ này đang
trì chú hộ niệm. Nhưng cát ái từ thân đâu có nghĩa là
không nghĩ đến mẹ? Ðại Ðức ơi, thầy nghĩ đến mẹ tha
thiết như thế nào? Hòa thượng ơi, ngài nghĩ đến mẹ bồi
hồi như thế nào?
Hiện rõ mái đầu bạc phơ của Hòa
thượng, chân mày sợi dài trắng xóa, dáng đứng như chỏm
núi cao. Như đỉnh Hy mã Lạp Sơn tuyết phủ. Ðỉnh núi
tuyết uy nghi có biết báo ân mẹ không? Những bụi sim
quây quần dưới chân núi rì rào nhớ mẹ. Mẹ là hột sim do
con chim bay qua thả rơi xuống đất. Cây bồ đề cổ thụ
thân lớn mấy người ôm, tàn lớn phủ sườn núi cũng xào xạc
nhớ mẹ. Mẹ là hột bồ đề rất nhỏ ngẫu nhiên ngọn gió bay
mang tới. Nhưng hùng vĩ như Hy Mã lạp Sơn thì mẹ là ai?
Tôi đành âm thầm lắc đầu vừa tưởng như nghe ầm ầm những
chuyển động tạo sơn quằn quại dựng nên dãy núi. Thành ra
núi cô đơn.
Ở nhiều nước văn minh trên thế
giới, người ta thỏa thuận lấy một ngày trong năm (4) đặt
là Ngày lễ Mẹ (Mother's day). Vào ngày đó, các con dẫu ở
xa cũng gắng tụ hội về quanh mẹ, dâng hoa tặng quà, đọc
lời chúc tụng và vui vầy tiệc tùng. Trên ngực áo mỗi
người con rực rỡ một đóa cẩm chướng màu đỏ. Những người
con nào mà mẹ đã qua đời thì lạnh lẽo nơi ngực áo một
đóa cẩm chướng màu trắng.
Ở ta, từ thập niên 50 nhiều địa
phương nhân ngày lễ Vu Lan đã tổ chức nghi thức bông
hồng cài áo: ai còn mẹ thì được gắn một hoa hồng đỏ, ai
mất mẹ, thì một đóa hồng trắng. Một cách để nhớ mẹ, để
tôn vinh mẹ, để mừng mẹ còn tại thế, để xót xa nghĩ đến
mẹ đã qua đời.
Bản thân người mẹ Việt Nam không
đòi hỏi được tôn vinh. Vào thế hệ tôi, người mẹ gần như
chỉ lúc thúc ở nhà dưới, nhà ngang, lăng xăng suốt ngày
và hạnh phúc với múi dưa, với con cháu. Cha già được
thong dong ngồi hút thuốc, được thưởng thức tách trà
sớm, được nhấm nháp ly rượu buổi hoàng hôn, chớ mẹ thì
gần như không biết hưởng thụ là gì. Cả ngay khi số tuổi
chồng chất, đóng vai bà nội, bà ngoại. Có một thời gian,
láng giềng tôi là một gia đình giàu. Khi người vợ sinh
đứa con lên bốn tháng, người ta nhắn về quê nhờ bà kế
mẫu già, nghèo, tới coi sóc giùm nhà. Một hôm qua khung
cửa tôi thấy bà ngồi vá quần cho đứa nhỏ. Tôi ngạc nhiên
bồi hồi đứng nhìn. Trẻ con dưới một tuổi lớn mau, quần
áo vải mới, mặc không vừa nữa thì bỏ một chỗ, quần áo
vải cũ, rách thì ném làm giẻ lau, ai hơi đâu nheo mắt
ngồi vá? Thôi, hiểu rồi, tâm lý người mẹ, người mẹ nhà
quê, người mẹ nghèo, tần tảo, quên mình, người mẹ của
thế hệ tôi đó. Thời nay có khá hơn, có biết vị kỷ hơn,
nhưng có được bao nhiêu người con, dẫu đã thành đạt, nhớ
đến Ngày lễ Mẹ? Nhiều bà mẹ tổ chức lễ kỷ niệm sinh nhật
cho con hằng năm, có chụp hình... Nhưng này các con, sao
sinh nhật mẹ, các con không gom một bó hoa - ngắt hoa
dại trong vườn ngoài rào cũng được - sáng sớm trao tay
mẹ? Nếu mắc cỡ không nói được thì có thể viết trên mảnh
giấy nhỏ: "Con mừng sinh nhật Mẹ" chẳng hạn. Ðó, vì đa
số các con vô tâm mà phải mượn lễ Vu Lan để cài một đóa
hồng.
Nhưng rằm tháng Bảy không phải
chỉ là ngày nhớ mẹ, báo ân không chỉ có báo ân mẹ. Còn
phần hiếu thảo dành cho cha. Rộng hơn, dân tộc ta còn
nhận ngày này là ngày xá tội vong nhân, chú nguyện cho
thập loại chúng sinh vừa mở rộng lòng bố thí cho người
nghèo khó nơi dương thế. Lòng nhân ái tựa biển, tràn
khắp bao la trong tiếng chuông ngân vang ngày lễ.
Hãy thương yêu mẹ hết lòng, săn
sóc ân cần, hầu hạ trìu mến, nhất là khi mẹ già yếu bệnh
hoạn xấu xí bẩn thỉu. Hãy nhớ lại thuở mình còn nhỏ, mặt
mũi chưa được trơn láng như hiện giờ, ỉa đái ngay trên
mình mẹ, và khi lên năm lên mười mẹ phải chịu nhịn phần
mẹ để mua món ăn ngon, sắm cái áo đẹp cho mình. Hãy xúc
động sụt sùi mà cầm tay mẹ, nhìn mặt mẹ, theo dõi bước
đi dáng ngồi của mẹ. Không như tấm lịch đẹp treo tường,
tấm năm sau sẽ thay tấm năm trước, không phải như cái
bàn gỗ mộc sẽ cứ đứng mãi đó nếu ta không tự ý phế bỏ.
Mẹ thì không, dẫu ngó vững chắc nhưng sự sống vốn dễ
rung rinh, chẳng chóng thì chầy, rồi cũng tới một ngày -
thậm chí có thể chỉ trong thoáng chốc - ta sẽ chỉ còn
thấy được mẹ trong trí nhớ
(1) Vương Lăng, người đất Bái là hào
trưởng trong huyện, Hán Cao Tổ lúc còn hàn vi quí Vương
Lăng như anh. Khi Cao Tổ khởi binh, Vương Lăng đem quân
phụ trợ. Hạng Vũ buộc mẹ Lăng phải dụ Lăng về với mình.
Mẹ Lăng tiễn sứ giả, khóc nói: "Nhờ ngài nhắn giùm Lăng
một câu: Hãy cứ hết lòng theo phò Hán Vương, đừng vì ta
mà sinh nhị tâm". Nói xong cầm gươm tự đâm chết (Hán sử)
(2) Từ Thứ quê ở Dĩnh Châu là bậc kỳ tài theo phò Lưu
Bị. Tào Tháo mời mẹ Từ Thứ đến Hứa Ðô tiếp đãi trọng hậu
và khuyên bà viết thư gọi Từ Thứ về giúp Tào. Bà lớn
tiếng mắng Tào là phản tặc rồi ném nghiên mực vào mặt
Tháo. Tào Tháo muốn giết nhưng tả hữa can. Sau đó mưu sĩ
của Tháo đã giả nét bút của bà viết thư cho Từ báo tin
mình bị giam cầm và gọi Từ Thứ về hàng Tào. Vì hiếu, Từ
Thứ vè Hứa Ðô gặp mẹ. Biết cả mẹ con cùng bị lừa, bà đã
uất hận mắng Từ là ngu phu không biết phân biệt giả chân
rồi quay khuất sau bình phong treo cổ tự ải.
3) Hàn Bá Du
4) Ngày chú nhật thứ thứ nhì của tháng năm
Trích từ trang http://www.vohong.de