Vì Hoàng hậu Maha Maya qua đời bảy ngày
sau khi Thái tử sinh ra, cho nên Thái tử được bà dì Maha Pajapati Gotami
(Maha Ba xà ba đề), trực tiếp nuôi nấng, dạy dỗ, còn người con trai của
Bà dì là Nanda thì được giao cho các bảo mẫu nuôi dưỡng.
Tên riêng của vị Phật tương lai là Si
Đác Ta (Tất Đạt Đa), tên giòng họ Ngài là Gotama (Cồ Đàm). Vì giòng họ
nầy thuộc bộ lạc Sakya (Thích Ca), cho nên sau nầy có danh hiệu Sakya
Muni (Thích Ca Mâu Ni). Muni là bậc Thánh, Sakya Muni là bậc thánh thuộc
bộ lạc Thích Ca.
2. Đạo sĩ A Tư Đà và Thái tử
Ngày Thái Tử Si Đác Ta đản sanh là ngày
hội vui lớn của toàn vương quốc. Dân chúng xa gần kéo về kinh đô
Kapilavastu ăn mừng. Một vị Đạo sư già tên là Asita (A Tư Đà) cũng từ
nơi ông tu hành trên núi Himalaya (Hy mã lạp sơn) đến cung vua để chào
mừng và xem tướng Thái tử. Gặp Thái tử, đạo sĩ Asita bỗng nhiên chắp tay
vái chào với thái độ hết sức cung kính. Đạo sĩ tuy cuời mà vẻ mặt
thoáng buồn. Được hỏi vì cớ sao, Đạo sĩ Asita trả lời là ông mừng vì
Thái tử tương lai sẽ thành Phật, bậc giác ngộ và thượng, nhưng ông buồn
vì ông tuổi đã quá cao, ắt phải qua đời mà không được vị Phật tương lai
trực tiếp giáo huấn, giác ngộ.
Trong kinh Sutta-Nipata (Kinh Tập, 101),
có kể truyện đạo sĩ Asita đang tu trên núi Tuyết sơn, được chư Thiên
mách bảo, bèn xuống núi, đến thành Kapilavastu xem tướng cho Thái tử.
“Thấy Thái tử chói sáng
Rực rỡ như vàng chói,
Trong lò đúc nấu vàng,
Được thợ khéo luyện thành
Bừng sáng và rực rỡ,
Với dung sắc tuyệt mỹ…
Sau khi thấy Thái tử,
Chói sáng như lửa ngọn,
Thanh tịnh như sao Ngưu,
Vận hành giữa hư không,
Chói sáng như mặt trời,
Giữa trời thu mây tạnh.
Ấn sĩ tâm hân hoan
Được hỷ lạc rộng lớn”.
Và đạo sĩ Asita nói là Thái tử tương lai
sẽ tu chứng Phật quả, vì lòng từ thương xót chúng sanh mà truyền bá
chánh pháp trên thế gian nầy.
“Thái tử này sẽ chứng,
Tối thượng quả Bồ đề
Sẽ chuyển bánh xe Pháp,
Thấy thanh tịnh tối thẳng
Vì lòng từ thương xót,
Vì hạnh phúc nhiều người,
Và đời sống phạm hạnh,
Được truyền bá rộng rãi”.
Nhưng vì nghĩ mình đã già, không còn
sống được bao lâu nữa, để có thể trực tiếp nghe Đức Phật thuyết pháp,
cho nên đạo sĩ buồn và nói:
“Thọ mạng ta ở đời,
Còn lại không bao nhiêu,
Đến giữa đời sống Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung.
Ta sẽ không nghe Pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ,
Do vậy ta sầu não,
Bất hạnh và khổ đau…” (Kinh Tập, 103)
3. Cuộc sống của Thái tử trong thời niên thiếu
Thái Tử Si Đác Ta được nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục một cách toàn diện về hai mặt: văn chương và võ nghệ.
Khi Thái tử lên bảy tuổi, những thầy
giáo giỏi nhất trong xứ được mời đến hoàng cung dạy cho Thái tử các môn
học thế gian như Thanh minh (ngôn ngữ học và văn học), Công xảo minh
(Công kỹ nghệ học), Y phương minh (môn học chữa bịnh), Nhân minh (Luận
lý học), và Nội minh (Đạo học). Về Đạo học, Thái tử được dạy về 4 sách
Thánh Veda, là các sách Thánh của Bà la môn giáo. Sách kể rằng: chỉ
trong khoảng thời gian từ 7 đến 12 tuổi, Thái tử đã học thông thạo 5 môn
học trên và 4 sách Thánh Veda. Đến năm 13 tuổi, Thái tử học võ thuật,
theo truyền thống giòng giõi đẳng cấp võ tướng (Ksatryas, Sát đế lỵ).
Nhờ có sức khỏe phi thường, Thái tử học môn võ gì cũng giỏi; về môn bắn
cung, sách kể rằng, trong một cuộc hội thi, Thái tử đã bắn một mũi tên
xuyên 7 lớp trống đồng, trong khi người giỏi nhất tại cuộc thi chỉ bắn
xuyên được ba lớp trống đồng.
Vào tuổi 16, Thái tử cưới công chúa
Yasodhara (Da du đà la), đồng lứa tuổi với Thái tử. Và trong gần 13 năm,
sau ngày cưới, Thái tử sống một cuộc đời hạnh phúc trong nhung lụa, vô
tư, không biết gì tới mọi nỗi khổ và bất hạnh ở đời. Về quãng đời ấy của
Ngài, Đức Phật kể lại như sau với các Tỷ kheo, đệ tử của Ngài:
“Này các Tỷ kheo, Ta được nuôi dưỡng tế
nhị, quá mức tế nhị. Trong cung của Phụ vương Ta, các hồ nước được xây
lên, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong một hồ có hoa sen trắng, tất cả
đều phục vụ cho Ta. Không một hương chiên đàn nào Ta dùng, này các Tỳ
kheo, là không từ Kasi đến. Bằng vải Kasi là khăn của Ta, này các Tỳ
kheo, bằng vải Kasi là áo cánh, bằng vải Kasi là áo lót, bằng vải Kasi
là áo khoác ngoài. Đêm và ngày, một lọng trắng được che trên đầu Ta để
tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ hay sương. Này các Tỳ kheo, ba lâu
đài được xây dựng cho Ta, một cái cho mùa đông, một cái cho mùa hạ, một
cái cho mùa mưa. Và Ta, này các Tỳ kheo, tại lâu đài mùa mưa, Ta được
các vũ nhạc công đờn, múa hát xung quanh Ta…” (Tăng Chi 1, 161 – 162).
4. Quyết tâm xuất gia tầm đạo
Thế nhưng, với thời gian, do năng khiếu
suy tư sâu sắc và lòng thương người bẩm sanh, Thái tử không thể nào cam
tâm một mình sống mãi trong nhung lụa, giữa một xã hội bất công, một thế
giới đau khổ. Thái tử sớm giác ngộ về tính tạm thời, tầm thường của
hạnh phúc vật chất thế gian và có ý chí xuất gia cầu đạo giải thoát, tìm
ra con đường cứu vớt chúng sanh ra khỏi già, đau, chết và mọi nỗi bất
hạnh khác của đời người.
Một ngày nọ, Thái tử đi ra ngoài thành
dạo chơi và lần đầu tiên trong đời được tiếp xúc với những sự thật đen
tối và đáng sợ: Thái tử lần lượt gặp một người già yếu, một người bệnh
tật, một xác chết và cuối cùng là một vị tu sĩ với dung sắc giải thoát,
khoan thai đi trên đường. Thái tử nghiệm thấy mình dù là Thái tử con
vua, cũng không thể thoát khỏi cảnh già, đau, và chết; những hình ảnh
siêu thoát của vị Tu sĩ đã giúp Thái tử sớm thấy được con đường dẫn đến
giác ngộ, vĩnh viễn khắc phục mọi nỗi khổ đau và bất hạnh của đời người,
con đường dẫn tới cõi Niết bàn bất tử.
Từ đó, Thái tử nuôi dưỡng quyết tâm từ
bỏ gia đình, xuất gia cầu đạo. Nhưng, một tin đến, khiến Thái tử không
vui: công chúa Yasodhara mới hạ sinh một con trai. Thái tử nói: “Một trở
ngại (ràhu) đã được sanh, một ràng buộc đã xãy ra”. Nhân đó, ông nội,
vua cha Suddhodana đặt tên cháu là Ràhula (La hầu la).
5. Sự từ bỏ vĩ đại
Lâu đài, cung điện không còn là nơi ở
thích hợp nữa cho Thái tử, lòng nặng chĩu tình thương chúng sanh chìm
đắm trong bể khổ và Thái tử càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, tìm
con đường cứu khổ cho muôn loài. Thế rồi vào một đêm Thái tử ra lệnh cho
người nô bộc trong thành là Channa (Xa nặc) thắt con ngựa Kantaka (Kiền
trắc). Trước khi xuất phát, Thái tử đi dọc theo hành lang nội cung, đến
trước phòng công chúa Yasodhara (Da du đà la) và người con trai đang
ngủ thiếp. Thái tử hé cửa nhìn vào, Thái tử rất yêu thương người vợ và
con trai của mình, nhưng đối với nhân loại đau khổ bất hạnh, lòng thương
xót của Thái tử lại còn da diết hơn. Sau đó, Thái tử một mình lên ngựa
ra đi, vượt khỏi hoàng thành, theo sau, chỉ có người nô bộc trung thành
Channa.
Ra đi, Thái tử từ bỏ tất cả, phụ vương,
ngai vàng, vợ và con, cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc của một hoàng tử.
Không phải là sự hy sinh từ bỏ của một người già, đau ốm, một người
nghèo, bệnh tật, ngán ngẫm cuộc đời, mà là sự hy sinh từ bỏ của một vị
hoàng tử đang tuổi thanh xuân, đang sống trong quyền quý giàu sang. Quả
thật đó là một sự từ bỏ, hy sinh vĩ đại, có một không hai trong lịch sử
loài người.
Năm ấy, Thái tử tròn 29 tuổi. Khi tới bờ
sông Anomà, Thái tử dừng lại, bỏ ngựa, cạo râu, tóc, trao y phục và đồ
trang sức cho Channa, lệnh cho Channa trở về. Còn Thái tử một mình ra
đi, với bộ áo màu vàng đơn giản của người tu sĩ, từ nay cuộc sống không
nhà của người xuất gia cầu đạo. Ngài không nơi ở cố định. Khi thì ngồi
dưới bóng cây, khi thì nằm nghỉ qua đêm trong một hang đá. Chân không và
đầu để trần, Ngài đi bình thản giữa nắng nóng cũng như trong sương đêm
lạnh, tất cả mọi năng lực và ý chí của Ngài đều hướng tới lý tưởng cao
cả tìm ra sự thật tối hậu, lý lẽ của sống và chết, ý nghĩa của nhân
sinh, của cuộc đời, con đường dẫn tới giải thoát, cõi Niết bàn bất tử.
6. Đến học hai đạo sĩ Alara Kalama và Uddaka Ramaputta
Thời bấy giờ, tình hình chính trị tại
các xứ ở Ấn Độ khá ổn định, nhiều nhà tri thức lỗi lạc, xuất gia tu đạo,
trở thành đạo sư tâm linh với nhiều đệ tử theo học. Thái tử Si Đác Ta,
trên đường đi tầm đạo, đã tới thụ giáo với hai đạo sư danh tiếng nhất
thời bấy giờ là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Cả hai người đều tu
theo phép Du già và đều chứng được những cấp thiền định cao nhất thời
bấy giờ. Alara Kalama chứng được cấp thiền Vô sở hữu xứ, còn Uddaka
Ramaputta thì chứng được cấp thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là hai
cấp thiền thuộc Vô sắc giới, hai cấp thiền cao nhất mà tu sĩ Du già
thời bấy giờ chứng đạt được.
Nhưng chỉ một thời gian ngắn tu học,
Thái tử cũng dễ dàng đạt được hai cấp thiền nói trên, và được hai đạo sư
mời ở lại, cùng với họ lãnh đạo chúng đệ tử. Thái tử biết rõ, các cấp
thiền mà Ngài chứng được chưa phải là chân lý tối hậu, Niết bàn, sự chấm
dứt sanh tử và mọi khổ đau. Cho nên, Ngài từ chối lịch sự, rồi lại lên
đường tiếp tục cuộc hành trình cầu đạo của mình. Qua thực nghiệm, Ngài
thấy chân lý tối hậu, Niết Bàn, chấm dứt mọi đau khổ của sinh tử luân
hồi, không thể cầu được ở bên ngoài, ở bất kỳ một bậc Đạo sư nào. Chân
lý tối hậu đó phải chính do Ngài tự tìm lấy, tự chứng ngộ lấy ở bên
trong nội tâm của Ngài, không thể dựa vào một tha lực nào khác.
7. Tu khổ hạnh sáu năm
Thái tử đến một nơi gọi là Uruvela, thị
trấn của Senàni. Ngài tìm được một khoảnh đất đẹp và mát, có con sông
nhỏ chạy qua giữa bờ cát trắng. Gần đây, lại có làng nhỏ, có thể đi khất
thực hàng ngày. Đúng là một nơi yên tĩnh, đẹp đẽ, rất thích hợp với
trầm tư mặc tưởng và tu tập thiền định. Cùng đến nơi đây tu tập với Thái
tử còn có các tu sĩ Kondana (Kiều Trần Như), Bhadhya, Vappa, Mahanama
và Asaji. Kondanna vốn là vị đạo sĩ trẻ tuổi nhất, trong số các đạo sĩ
được vua Suddhodana mời tới kinh đô để xem tướng Thái tử, lúc Ngài mới
đản sanh.
Thời bấy giờ, ở Ấn Độ có tập tục và niềm
tin rằng, người nào cầu đạo giải thoát, đều phải kiên trì tu khổ hạnh,
ép xác. Cũng theo truyền thống đó, Thái tử cùng với 5 người bạn đồng tu
trong 6 năm ròng rã, kiên trì khổ hạnh ép xác tới mức con người Thái tử
gầy khô như bộ xương, đôi mắt sâu hoẵm xuống, sức khỏe giảm sút đến nỗi
Ngài không còn đi vững được nữa. Ngài nghiệm thấy, càng kiên trì khổ
hạnh, chân lý tối hậu như càng lùi ra xa, tâm trí càng mê mờ, thân thể
càng suy yếu. Ngài thấy rõ, khổ hạnh, ép xác không phải là con đường
thoát khổ và cứu khổ.
Thái tử quyết định ăn uống bình thường
trở lại. Năm người bạn đồng tu, vốn đặt niềm tin và hy vọng tuyệt đối
vào Thái tử, tưởng rằng Thái tử đã thoái chí, bèn rời bỏ Thái tử, đến
vườn Nai ở Isipatana gần thành phố Banares để tiếp tục tu hành. Họ nói
rằng, Thái tử Si Đác Ta đã trở về với cuộc sống tiện nghi và dục lạc vật
chất..
8. Chứng Bốn Chân Lý Tối Hậu
Ở lại một mình, Thái tử quyết tâm tự
mình phấn đấu để chứng ngộ chân lý tối hậu. Ngài lấy lại sức, nhờ uống
bát sữa, do một thôn nữ tên là Sujata cúng dường, sau đó, Ngài tắm ở
sông Neranjara (Ni Liên Thuyền). Tối đến, Ngài đến ngồi dưới gốc cây
Pippala, sau này được đổi tên là cây Bồ đề, để đánh dấu sự kiện thành
đạo vĩ đại của Ngài.
Với tâm định tỉnh, nhu nhuyến, trong
sáng như gương, Ngài suy tư về lẽ sống chết, về những nguyên nhân tích
tập dẫn tới luân hồi sanh tử và con đường giải thoát, dẫn tới Niết bàn,
Ngài nhớ lại, thấy rõ các kiếp sống trước đây của mình, một kiếp, hai
kiếp cho tới hàng trăm ngàn kiếp. Ngài nhớ lại, thấy rõ các chu kỳ thành
hoại của một thế giới, nhiều thế giới. Ngài thấy rõ các chúng sanh, tùy
theo nghiệp nặng nhẹ, thiện ác so mình tạo ra, luân hồi như thế nào
trong các cõi sống, từ thời vô thủy cho tới ngày nay. Ngài thấy rõ, biết
rõ tự bản thân Ngài đã đoạn trừ hết mọi tham ái, lậu hoặc, vô minh, đã
được giải thoát và giác ngộ, và thành tựu đạo Vô thượng. Ngài đã thành
Phật.
Sau này, Đức Phật đã kể lại cho các đệ
tử Tỳ kheo nghe về cảnh giới chứng ngộ của mình như sau: “Nầy các Tỳ
kheo! Ta tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị sanh,
tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn, và
đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết
bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già, tìm cầu
cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn và đã chứng
được cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình
bị bệnh, sau khi biết rõ nguy hại của cái bệnh, tìm cầu cái không bệnh,
vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị chết, sau khi
biết rõ nguy hại của cái bị chết, tìm cầu cái không chết, vô thượng an
ổn khỏi các khổ ách. Niết bàn và đã chứng được cái không chết, vô thượng
an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn… Tri và Kiến khởi lên nơi Ta. Sự giải
thoát của Ta không bị giao động. Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không
còn sự tái sanh nữa”. (Kinh Thánh Cầu, Kinh Trung Bộ I, 268).
Như vậy, sau 6 năm gian khổ, kiên trì,
không mệt mỏi, vào năm 35 tuổi. Thái Tử Si Đác Ta đã chứng ngộ chân lý
cứu kinh vô thượng và trở thành Đức Phật, bậc Toàn giác mà sự xuất hiện
là chuyện hy hữu nhất trên đời này.
Từ nay, thế gian tôn xưng Ngài là Đức
Phật Gotama hay là Đức Phật Thích Ca Cồ Đàm. Từ Pali, “Buddha” (Phật Đà)
có chữ gốc “Buddh” là hiểu biết, giác ngộ chân lý tối hậu, cứu kinh.
Sách Pali gọi Ngài là Sammà Sambuddha, với nghĩa là bậc Toàn giác, không
gì không biết, không thấy; bậc Thánh, không những giác ngộ đầy đủ cho
bản thân mình, mà còn giác ngộ đầy đủ cho tất cả mọi người khác, cho tất
cả mọi chúng sanh.
9. Đức Phật do dự trước khi chuyển bánh xe Pháp
Chuyển Pháp Luân là chuyển bánh xe Pháp,
tức là truyền bá cho thế gian biết về đạo Pháp mà Phật đã chứng ngộ.
Ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây Bồ đề, sau khi đã chứng quả giác ngộ vô
thượng, Đức Phật có suy nghĩ như sau:
“Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu
kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu,
chỉ người có trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng nầy thì ưa ái dục, khoái
ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục,
ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý ‘duyên khởi ra các pháp’
(Paticcasamuppada): sự kiện nầy thật khó thấy, tức là sự tịnh chỉ tất
cả các hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết
bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp thì các người khác không hiểu Ta, thời như
vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta” (Trung Bộ I, 268 –
269).
Nhưng rồi Đức Phật nhìn quanh một lượt khắp thế gian với con mắt trí tuệ và suy nghĩ rằng:
“… Có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời,
nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác
tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái
sinh ở thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như
trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hay hồ sen trắng, sanh ra dưới nước, lớn
lên dưới nước, không vươn lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước.
Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn
lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nưóc thấm ướt. Cũng vậy,
nầy các Tỳ kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi
đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh,
ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải
tái sanh ở thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và
nầy các Tỳ kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây:
“Cửa bất tử rộng mở
Cho những ai chịu nghe
Hãy từ bỏ tin tâm
Không chính xác của mình..” (Trung Bộ I, 271)
Rồi Đức Phật quyết định sẽ gióng lên
tiếng trống của Pháp, sẽ chuyển bánh xe Pháp, sẽ tuyên bố với thế gian,
với loài người và loài Trời, con đường đạo cứu khổ và diệt khổ, con
đường đạo dẫn tới cõi bất tử, cõi Niết Bàn. Thế là bánh xe Pháp bắt đầu
chuyển.
10. Đức Phật giảng Pháp đầu tiên tại Vườn Nai, gần thành Ba La Nại (Benares)
Như đã nói trên, năm tu sĩ, bạn đồng tu
của Thái tử, ở Uruvela, nay vẫn tiếp tục tu khổ hạnh ở vườn Nai gần
thành phố Benares. Họ rời bỏ Thái tử, vì họ tưởng rằng Thái tử đã thoái
chí, giữa đường bỏ cuộc. Nhưng thực ra, sau 6 năm tu khổ hạnh, Thái Tử
đã thực nghiệm và thấy rõ tất cả sự vô ích và vô lý của lối tu khổ hạnh,
ép xác chỉ làm con người suy yếu về thân xác, mệt mỏi về tinh thần. Và
Thái tử ở lại một mình, kiên trì, phấn đấu và cuối cùng đã giác ngộ,
thành Phật dưới gốc cây Bồ đề.
Sau khi đã quyết định truyền bá đạo lý
cứu khổ cho thế gian, vì lòng thương xót loài người và loài trời, Đức
Phật nghĩ ngay tới 2 vị thầy cũ của mình là Alara Kalama và Uddaka
Ramaputta, nhưng cả 2 ông này đều đã qua đời cách đây không lâu. Với
Phật nhãn, Đức Phật thấy năm người bạn đồng tu xưa kia của mình đang ở
tại vườn Nai gần Benarès và quyết định họ sẽ là những người đầu tiên
được nghe giáo pháp của Ngài.
Rồi Đức Phật lên đường đi Benarès. Tại
đây, ở vườn Nai gần Benarès, Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên cho 5
người bạn đồng tu ngày trước của mình. Sự kiện đáng ghi nhớ này diễn ra
vào một ngày trăng rằm, đúng hai tháng sau Đức Phật thành đạo. Sau nầy,
nó được biểu trưng một cái bánh xe, có 2 con nai nâng đỡ hai bên.
Hai con nai biểu trưng cho địa điểm
thuyết pháp, Vườn Nai, cũng gọi là Lộc Uyển. Bánh xe – Dhammacakka – tức
là bánh xe Pháp, sách Hán dịch là Pháp luân. Cả đầu đề bài kinh là
Dhammacakkappavattana, có nghĩa là “chuyển bánh xe Pháp”.
11. Nội dung Kinh Chuyển Bánh Xe Pháp
Trong bài kinh này, Đức Phật mở đầu bằng
lời khuyên các tu sĩ không nên mắc vào hai cực đoan: một cực đoan là
đam mê thú vui nhục dục thế gian, thực ra chỉ là những cái tầm thường,
nhất thời, ngăn cản mọi tiến bộ tâm lính. Một cực đoan thứ hai là khổ
hạnh, ép xác vì nó làm mệt mỏi tinh thần, mê mờ trí tuệ, do đó cũng có
hại, vô ích. Đức Phật khuyến cáo nên rời bỏ hai cực đoan trên, và theo
con đường Trung Đạo dẫn tới cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt và
giải thoát tối hậu. Đó là con đường đạo tám nhánh nổi tiếng, sách Hán
thường dịch là Bát Chánh Đạo:
Chánh tri kiến: Thấy biết chân chánh.
Chánh tư duy: Suy nghĩ chân chánh, ý chí chân chánh.
Chánh ngữ: Nói năng chân chánh, tức là không nói dối, không nói ác, không nói chia rẽ, không nói lời vô nghĩa.
Chánh nghiệp: Hành động chân chánh, tức là không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh, không rượu chè.
Chánh mạng: Sinh sống bằng nghề chân
chánh, không phải bằng nghề bất lương, như buôn bán lừa đảo, buôn vũ khí
và thuốc độc, buôn bán nô tỳ…
Chánh tinh tấn: Siêng năng chân chánh, diệt bỏ điều bất thiện, làm mọi điều tốt lành.
Chánh niệm: Nghĩ nhớ chân chánh, không nghĩ nhờ điều tà vạy, ác xấu, mê lầm.
Chánh định: Tập trung tư tưởng chân chánh, không để tư tưởng tán loạn, chạy theo dục vọng.
Con đường tám nhánh là con đường đạo
chân chánh, dẫn tới chấm dứt mọi đau khổ, phát khởi trí tuệ, đưa đến
Niết bàn, là sự giải thoát vĩnh viễn khỏi vòng sống chết luân hồi, là sự
thanh tịnh tuyệt đối và an lạc tuyệt đối.
Trong bài thuyết pháp đầu tiên này, Đức
Phật giảng về bốn chân lý cao cả, cũng gọi là bốn chân lý Thánh, bởi vì
chúng được phát hiện và tuyên thuyết bởi bậc thánh vĩ đại nhất là Đức
Phật. Đó là chân lý về sự khổ (sách Hán gọi là Khổ đế), chân lý về
nguyên nhân của khổ (Tập đế), chân lý về diệt khổ (Diệt đế), chân lý về
con đường đạo diệt khổ (Đạo đế).
Nghe xong bài thuyết pháp này, và một
bài thứ hai có đầu đề “Anttalakkhana sutta”, bàn về thuyết vô ngã (không
có cái Ta), năm vị tu sĩ ở vườn Lộc Uyển được giác ngộ và không bao lâu
trở thành A la hán.
12. Đức Phật giác ngộ cho Yasa và những người bạn
Gần Benares, có con trai người triệu phú
tên là Yasa, tuy sống cuộc đời đầy đủ xa hoa, nhưng lại sớm chán cảnh
sốngv thế gian tầm thường vô vị. Yasa tìm đến Đức phật, bộc lộ với Đức
Phật tâm trạng chán chường của mình, và được Đức Phật thuyết pháp về
hạnh bố thí, về nếp sống đạo đức, về các cõi Trời, về nguy hại của dục
lạc thế gian, về hạnh phúc của nếp sống Thánh, hỷ xả, không tham trước.
Và sau đó, Đức Phật giảng cho Yasa vế bốn chân lý cao cả: sự khổ, nguyên
nhân của khổ, cảnh giới Niết bàn an lạc và con đường đạo tám nhánh dẫn
tới Niết bàn.
Cha của Yasa, trên đường đi tìm con
trai, cũng đến Vườn Nai và được nghe Phật thuyết pháp, ông xin Phật cho
quy y và trở thành người đệ tử tại gia đầu tiên của Phật. Còn Yasa thì
xin Phật cho xuất gia và không bao lâu chứng quả A la hán. Khi Đức Phật
đến thăm nhà cha của Yasa theo lời thỉnh cầu của ông này, thì cả người
mẹ và người vợ cũ của Yasa cũng xin quy y làm đệ tử tại gia của Đức
Phật. Bốn người bạn của Yasa là Vimala, Subaha, Tunnaji và Barampati,
noi gương Yasa cũng xin xuất gia, và không bao lâu đều chứng quả A la
hán.
Ngoài ra, hơn năm mươi người bạn khác
của Yasa, từ các gia đình và địa phương khác nhau, nghe tin Yasa chứng
được Thánh quả, cũng đều tụ tập về đây xin xuất gia theo Đức Phật, và
sau một thời gian, tất cả đều chứng quả A la hán.
13. Đoàn Tăng sĩ thuyết pháp đầu tiên
Bấy giờ, Đức Phật có sáu mươi đệ tử đều
là A la hán. Ngày quyết định phái họ đi khắp nơi để truyền bá chánh
pháp. Trước khi họ lên đường, Đức Phật đã động viên họ với lời lẽ như
sau:
“Hỡi các Tỳ kheo, Ta đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian và xuất gian”.
“Các ngươi cũng vậy, hỡi các Tỳ kheo, cũng đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian và xuất thế gian”.
“Hãy đi! Hỡi các Tỳ kheo, vì lợi lạc của
số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì
lợi lạc, vì hạnh phúc của loài Trời và loài người. Các người hãy đi,
nhưng đừng đi hai người cùng một hướng. Hãy truyền bá đạo pháp, hỡi các
Tỳ kheo. Đạo pháp toàn thiện, ở phần đầu, phần giữa cũng như phần cuối,
cả trong ý tứ và lời văn, hãy tuyên bố về cuộc sống Thánh, toàn thiện và
thanh tịnh…” (Mahavagga 19).
Tỳ kheo, dịch âm từ chữ Pali “Bhikkhu”,
nghĩa là “Người khất thực”. Đức Phật, lần đầu tiên trong lịch sử thế
giới, với 60 người học trò đã chứng quả A la hán, tổ chức thành một tăng
đoàn những tu sĩ khất thực, không có nhà ở cố định, không có của cải
vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và bình bát để xin ăn…
Thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và cuộc sống thánh hạnh, tự mình nêu
gương sáng về cuộc sống Thánh hạnh và giải thoát, đó là sự nghiệp, là
nội dung công tác chủ yếu của Tăng đoàn đầu tiên, do Đức Phật đích thân
thành lập và chỉ đạo.
14. Giác ngộ cho ba mươi thanh niên
Sau khi Đức Phật phái các đệ tử mỗi
người đi một ngã để truyền bá chánh pháp, Ngài cũng lên đường đến
Uruvela. Dọc đường, Ngài ngồi nghỉ ở một gốc cây, trong một khu rừng
nhỏ. Lúc bấy giờ, có ba muơi thanh niên nhà giàu, đem vợ theo đến vui
chơi giải trí trong chính khu rừng đó. Trong số này, có một thanh niên
chưa vợ. đem theo một kỹ nữ. Trong khi họ đang vui đùa, thì người kỹ nữ
lẫn trốn với nhiều của cải và đồ trang sức của họ. Các thanh niên lùng
bắt người kỷ nữ trong khu rừng, gặp Đức Phật và hỏi Ngài có thấy người
phụ nữ trẻ qua đây không?
Đức Phật hỏi: “Hỡi các thanh niên, tìm người kỹ nữ tốt, hay là tìm thấy bản thân mình tốt hơn?”
Họ đều trả lời là tìm thấy bản thân mình tốt hơn.
Đức Phật nói: “Thế thì được! Các bạn trẻ, hãy ngồi lại đây, Ta sẽ thuyết pháp cho”.
Các thanh niên kính lễ Phật với thái độ
trân trọng rồi ngồi xuống nghe Phật giảng pháp. Nhờ nghe pháp, họ được
giác ngộ và xin phật cho xuất gia làm Tỳ kheo.
15. Ba anh em ông Kassapa (Ca Diếp) được giác ngộ
Gần Uruvela, có ba tu sĩ khổ hạnh là ba
anh em ông Kassapa: Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa, và Gaya Kassapa.
Người anh lớn, Uruvela Kassapa có 500 đệ tử, hai người em có 300 và 200
đệ tử. Ba anh em ông Kassapa đều là những đạo sĩ có danh vọng lớn ở xứ
Magadha, đặc biệt là người anh cả Uruvela Kassapa, ông này thờ thần lửa,
và tự cho mình đã chứng quả A la hán. Đức Phật lại gặp ông đầu tiên và
xin được phép ngủ qua đêm tại phòng riêng của ông này, ở đây có thờ một
con rắn thiên rất độc. Ông Kassapa tưởng rằng Đức Phật thế nào cũng bị
con rắn thiêng cắn chết, nào ngờ chính con rắn bị Đức Phật hàng phục
bằng sức thần thông của Ngài. Cả ba anh em với số học trò đông đảo đều
xin xuất gia theo Đức Phật.
Sau đó, cả đoàn người cùng đi với Đức
Phật đến một nơi gọi là Gaya Sisa, không cách xa Uruvela mấy. Ở đây,
Phật giảng kinh Adittapariyaya Sutta. Nghe xong kinh này, tất cả các Tỳ
kheo có mặt đều chứng quả A la hán.
16. Sariputta (Xá Lợi Phất) và Moggalana (Mục Kiền Liên) trở thành hai đệ tử hàng đầu của Đức Phật
Gần thành Vương Xá (Rajagaha), tại làng
Upatissa, có một thanh niên rất thông minh tên là Sariputla. Gia đình
ông thuộc loại giàu có và danh tiếng nhất làng, cho nên o6ng cũng có tên
là Upatissa. Tuy sống trong cảng giàu sang quyền quí, nhưng ông sớm cảm
thấy tính trống rỗng, vô vị của cuộc sống thế tục. Ông cùng với người
bạn thân là Moggalana, ở Kokita thường xuyên khi khắp nơi, tìm thầy học
đạo.
Đấy cũng là thời điểm, Đức Phật phái các
đệ tử đi truyền giáo. Sariputta được gặp A la hán Assaji đang đi khất
thực trong thàng Vương Xá và xúc động mạnh mẽ trước dung mạo trang
nghiêm và khí sắc giải thoát của vị A la hán trẻ tuổi này. Sariputta đến
gần và hỏi:
“Thưa Ngài tôn kính! Các căn của Ngài
thật an tịnh, màu da của Ngài thật trong sáng. Được sự chỉ đạo của bậc
đạo sư nào mà Ngài xuất gia? Bậc đạo sư của Ngài là ai? Ngài theo giáo
lý nào?”
A la hán Assaji trả lời với thái độ khiêm tốn:
“Tôi còn rất trẻ trong Tăng đoàn, thưa Ngài, và tôi không có khả năng thuyết pháp được nhiều cho Ngài”.
Nhưng vì Tôn giả Xá Lợi Phất khẩn khoản yêu cầu, cho nên A la hán Assaji đọc câu kệ:
“Sự vật bắt nguồn từ nhân duyên
Đức Như Lai nói rõ nhân duyên đó
Và bậc đạo sư cũng nói rõ
Sự vật đó tiêu diệt như thế nào”.
Ngài Sariputta rất thông minh, chỉ mới
nghe 2 câu kệ đầu đã chứng ngay Sơ quả. Sau đó, Ngài về baó tin cho
người bạn thân Moggalana, và cả hai người cùng đến yết kiến Đức Phật ở
tu viện Veluvana. Đức Phật thâu nhận hai ông vào Tăng chúng với câu nói
đơn giản: “Etha Bhikkhave!” (Hãy đến đây! Các Tỳ kheo).
Mười lăm ngày sau đó, Sariputta chứng
quả A la hán, khi nghe Đức Phật giảng kinh Vedana Pariggha cho du sĩ
ngoại đạo Dighanakha, còn Mục Kiền Liên thì chứng quả A la hán trước đó
một tuần. Ngay chiều hôm Ngài Sariputta chứng quả A la hán, Đức Phật
triệu tập Tăng chúng lại và tuyên bố hai Ngài là hai vị thượng thủ của
Tăng đoàn.
17. Đức Phật về thăm gia đình
Thân phụ Đức Phật, vua Suddhodana bây
giờ đã già yếu, nghe tin Đức Phật thành đạo và đang thuyết pháp ở thành
Rajagaha (Vương Xá), vua rất nóng lòng được gặp lại con. Vua liền phái
sứ giả đến Rajagaha (Vương xá), thỉnh cầu Đức Phật trở về thăm cố đô và
gia đình. Nhưng các sứ giả của Vua, đến Vương xá, đuợc nghe Phật thuyết
pháp, đều xin xuất gia làm Tỳ kheo và chứng quả A la hán.
Vị sứ giả thứ mười là Kaludayi, vốn là
người bạn thân cũ của Đức Phật, lúc Ngài cón là Thái tử. Ông này đến
Vương xá, nghe Phật nói pháp, cũng xin xuất gia và không bao lâu chứng
quả A la hán như chín vị sứ giả trước, Kaludayi không quên chuyển tới
Đức Phật lời phụ vương mời Đức Phật về thăm gia đình. Đức Phật nhận lời,
lên đường cùng với đông đảo đệ tử.
18. Đức Phật và Phụ vương Suddhodana
Đức Phật và các đệ tử của Ngài được vua
Suddhodana, quần thần và dân chúng đón tiếp rất long trọng. Được nghe
Đức Phật thuyết pháp, vua chứng ngay Sơ quả (Tư đà hoàn). Khi nghe bài
thuyết pháp thứ hai, nhà vua chứng quả Thánh thứ hai, Sakkadagami (Tư đà
hàm), còn bà dì Pajapati Gotami thì chứng Sơ quả (Sotapana – Tu đà
hoàn). Lần thứ ba, Đức Phật giảng kinh Dhammapala Jàtaka cho vua cha, và
vua cha chứng quả Thánh thứ ba (Anagami – A na hàm). Sách kể rằng, sau
nầy, trên giừơng bệnh, vua cha lại được Đức Phật về thăm và giảng pháp.
Lần nghe pháp cuối cùng này, vua chứng quả A la hán. Và sau bảy ngày tận
hưởng lạc thú giải thoát, vua qua đời vào năm Đức Phật tròn 40 tuổi.
19. Đức Phật và Công chúa Yasodhara (Da Du Đà La)
Công chúa Yasodhara (Da Du Đà La) vốn là
con gái vua Suppahuddha (Thiện Giác), đứng đầu dòng họ Koliya. Sau khi
Thái tử rời bỏ hoàng cung, xuất gia cầu đạo, công chúa cũng bỏ hết đồ
trang sức, mặc áo vàng của người nữ tu sĩ, và tận tình nuôi người con
trai là La Hầu La đến tuổi khôn lớn.
Ngày thứ hai Đức Phật đến thành
Kapilavastu, Đức Phật cùng với đông đảo đệ tử đến dùng bữa ăn trưa tại
hoàng cung, theo lời mời của vua cha. Sau bữa tiệc, Đức Phật cùng với
vua cha và hai người đệ tử thân cận, Sariputta và Moggalana đến phòng
công chúa. Sau khi Đức Phật vào phòng và ngồi vào chỗ xếp sẵn, công chúa
đảnh lễ Phật với thái độ vô cùng cung kính. Đức Phật giảng truyện bổn
sanh Candakinnara và nói: “Thưa phụ vương, không phải chỉ trong kiếp
này, mà trong một kiếp sống trước, công chúa cũng đã từng bảo vệ tôi và
thủy chung với tôi”. Sau khi nhắc lại chuyện kiếp trước, Đức Phật an ủi
công chúa và từ giã hoàng cung.
Sau khi vua Suddhodana qua đời, bà dì là
Pajapati xuất gia làm Tỳ kheo ni. Công chúa cũng xuất gia và không bao
lâu chứng quả A la hán. Trong số các Tỳ kheo ni, công chúa là người giỏi
phép thần thông nhất. Năm 78 tuổi, công chúa nhập Niết bàn.
20. Đức Phật và Rahula (La Hầu La)
Rahula (Hán dịch âm: La Hầu La) là người
con trai độc nhất của Đức Phật, khi Đức Phật còn là thái tử. Lần đầu
tiên Đức Phật trở về thăm cố đô và gia đình, sau ngày thành đạo, Rahula
lên 7 tuổi, được bà dì là Maha Pajapati Gotami trực tiếp nuôi dưỡng, săn
sóc. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng Rahula vẫn được chấp nhận vào Tăng
đoàn, và được Đức Phật giao cho Ngài Sariputta trực tiếp dạy dỗ.
Một trong những bài kinh nổi tiếng Đức
Phật đích thân giảng cho Rahula sau khi Rahula xuất gia, là kinh
Ambalatthika Rahulovada sutta, trong đó Đức Phật nhấn mạnh tầm quan
trọng của tánh trung thực, của sự phản tỉnh để trừ diệt mọi ý niệm, lời
nói và hành vi bất thiện, bất chánh.
Nhờ luỵện tập phép tu thiền niệm hơi
thở, theo lời chỉ dẫn của Đức Phật, và sau khi nghe giảng kinh Cula
Rahulovada, Ngài Rahula chứng quả A la hán. Ngài qua đời trước Đức Phật
và Ngài Sariputta.
Trong “Trưởng Lão Tăng Kệ”, có hai bài kệ như sau, của Rahula, sau khi Ngài chứng quả A la hán:
“Nhờ ta được đầy đủ
Hai đức tánh tốt đẹp
Được bạn có trí gọi:
‘Rahula may mắn’
Ta lại được pháp nhãn,
Các lậu hoặc đoạn tận,
Không còn có tái sanh
Ba minh ta đạt được
Thấy được giới ‘bất tử’”
21. Đức Phật và bà dì mẫu Pajapati Gotami (Ma Ha Ba Xà Ba Đề)
Bà dì Gotami là em hoàng hậu Maya, và là
vợ thứ của vua Suddhodana. Sau khi hoàng hậu Maya qua đời, bà lãnh
trách nhiệm săn sóc, nuôi nấng Thái tử Siđacta.
Lần đầu tiên Đức Phật về thăm thành
Kapilavastu, sau ngày Ngài thành đạo, bà dì có trực tiếp xin Đức Phật
cho xuất gia làm Tỳ kheo ni, nhưng Phật không chấp nhận, mà cũng không
nói rõ lý do. Bà Gotami ba lần xin, Đức Phật đều từ chối. Sau khi rời
Kapilavastu, Đức Phật cùng với số đệ tử đông đảo đến thành phố Vesali,
ngụ tại tịnh xá Kutagara.
Bà Gotami cùng với nhiều bà khác thuộc
giòng họ Sakya, đầu cạo tóc, thân đắp y vàng, kéo nhau đến Vesali và
đứng chờ ngoài cửa tịnh xá, nơi Đức Phật an nghỉ. Từ Kapilavastu đến
Vesali, con đường dài 150 dặm. Bà Gotami và các bà giòng họ Sakya, chân
sưng phồng, quần áo đầy bụi, vẻ mặt buồn bã nhưng kiên quyết, yêu cầu
Ngài Ananda cho được gặp Đức Phật. Ngài Ananda động lòng thương xót, vào
xin Đức Phật cho phép các bà được xuất gia làm Tỳ kheo ni. Ngài Ananda
hai ba lần nài xin, Đức Phật đều không chấp nhận. Ngài bèn thưa với Phật
rằng:
“Nếu phụ nữ được xuất gia và tu học theo
pháp và luật của đức Thế Tôn thì họ có thể chứng quả Thánh thứ nhất,
quả Thánh thứ hai, quả Thánh thứ ba và cuối cùng có chứng được quả A la
hán không?”
Đức Phật trả lời là họ có khả năng chứng
các quả Thánh nói trên. Ngài Ananda bạch tiếp: “Nếu họ có thể chứng
được các quả Thánh thì cớ sao bà dì Gotami lại không được xuất gia theo
Pháp và Luật của Đức Thế Tôn, vì bà dì đã trực tiếp nuôi nấng săn sóc
Thế Tôn, từ ngày Đức Thế Tôn còn tấm bé”.
Đức Phật nói: “Nếu bà Gotami chấp nhận
thực hành tám điều quy định nghiêm khắc sau đây, thì Ta cho phép Bà và
các phụ nữ xuất gia, tu học dưới pháp và luật của Ta”. Rồi Đức Phật nói
ra tám điều qui định nghiêm khắc mọi quan hệ giữa Tỳ kheo và Tỳ kheo ni
(xem luật Tỳ kheo ni). Ông Ananda đem 8 điều luật Phật nói thưa lại với
bà dì Gotami và các bà khác. Các bà đều hoan hỷ nhận lời.
Cho phép bà dì Gotami xuất gia và thành
lập đoàn Tỳ kheo ni, Đức Phật đã thấy trước hậu quả của quyết định của
mình. Ngài nói với đại đức Ananda rằng: “Này Ananda, nếu phụ nữ không
được phép xuất gia và sống trong Pháp và Luật của Ta, thì cuộc sống
Thánh hạnh của các đệ tử của Ta có thể giữ vững dài lâu, Chánh pháp cao
cả của Ta có thể duy trì một ngàn năm, nhưng vì phụ nữ được phép xuất
gia, cuộc sống Thánh của các đệ tử Ta sẽ không duy trì dài lâu, và từ
nay Chánh pháp cao cả của Ta chỉ còn tồn tại 500 năm nữa mà thôi”.
“Cũng như, này Ananda, có những ngôi nhà
có nhiều phụ nữ và ít đàn ông, những ngôi nhà đó rất dễ bị mất trộm.
Nếu để phụ nữ xuất gia, sống trong Pháp và Luật của Như Lai, cuộc sống
Thánh của các đệ tử sẽ khó mà duy trì dài lâu. Cũng như một người đắp
một con đê để ngăn một bể nước lớn, không để cho nước tràn qua. Ta cũng
vậy, Ta chế định ra 8 giới điều nghiêm khắc trên là để ngăn ngừa không
để cho Tỳ kheo ni vi phạm”.
Những lời Phật dạy, tuy có thể không
được thuận tai đối với phụ nữ, nhưng cũng phải nhận rằng, Đức Phật đã
sớm thấy rõ, đối với phụ nữ nói chung, bản tánh mềm yếu và dễ cảm xúc,
cuộc sống xuất gia không phải dễ dàng. Quan hệ giữa nam và nữ tu sĩ
trong Tăng đoàn cũng dễ xãy ra nhiều chuyện rắc rối.
Mặc dù vậy, Đức Phật là vị giáo chủ đầu
tiên trong lịch sử nhân loại, cho thành lập một Ni đoàn với đầy đủ giới
luật và uy nghi. Bà la môn giáo, và các tôn giáo khác đương thời ở Ấn Độ
đều không có đoàn thể phụ nữ tu hành như vậy. Hơn nữa, trong thời Đức
Phật còn tại thế và sau nầy, nhiều Tỳ kheo ni đã chứng quả A la hán và
trở thành nổi danh trong hành tu sĩ, như chúng ta có thể đọc thấy trong
cuốn “Trưởng lão ni kệ” thuộc Tiểu Bộ Kinh.
22. Đức Phật và Tôn giả Ananda
Ananda là anh em cô cậu với Đức Phật và
là con của Amitodana, em vua Suddhodana, thân phụ của Đức Phật. Vì ngày
ông sinh ra đem lại niềm hoan hỷ cho mọi người trong gia tộc, cho nên
Tôn giả được đặt tên Ananda (Khánh Hỷ).
Tôn giả Ananda xuất gia theo Phật, cùng
với các thanh niên khác dòng họ Sakya, là Anuruddha, Bhadya, Bhaga,
Kimbila, và Devadatta. Năm Đức Phật 55 tuổi, tôn giả Ananda được cử làm
thị giả của Đức Phật. Trong suốt 25 năm trời, từ ngày ấy cho đến lúc Đức
Phật nhập Niết bàn, Tôn giả Ananda luôn luôn ở bên cạnh Đức Phật, hầu
hạ săn sóc Đức Phật, trong mọi nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Ông Ananda
có một trí nhớ lạ lùng, ông ghi nhớ không bỏ sót tất cả các bài thuyết
pháp của Đức Phật cũng như của một số đệ tử lớn của Đức Phật.
Khi một Bà La Môn hỏi Tôn giả nhớ được
bao nhiêu bài kinh, Tôn giả trả lời là có 82.000 bài của Đức Phật thuyết
và 2.000 bài của các Tỳ kheo, đệ tử của Đức Phật thuyết. Đúng là có
tổng số 84.000 bài kinh tất cả.
Đức Phật tán thán năm đức hạnh của Tôn giả Ananda là: học uyên bác, trí nhớ tốt, kiên định, săn sóc chu đáo, ứng xử tốt.
Mãi sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Tôn
giả Ananda mới chứng quả A la hán. Đấy là do khi Đức Phật còn tại thế,
tôn giả bận làm công việc thị giả, cũng như bận ghi nhớ các bài giảng
của Đức Phật, như một đệ tử bác học đa văn. Tôn giả Ananda nhập Niết
bàn, năm ông 120 tuổi.
23. Đức Phật và Devadatta (Đề Bà Đạt Đa)
Devadatta là con vua Suppabuddha và
hoàng hậu Pamita, Pamita là một bà cô của Đức Phật, Devadatta xuất gia
theo Phật, cùng một lượt với ông Ananda và các thanh niên quý tộc khác,
thuộc giòng họ Sakya. Devadatta không chứng được quả nào, nhưng lại giỏi
một số pháp thần thông, và được vua Ajattasattu (A Xa Thế) xứ Magadha
ủng hộ. Mặc dù lối sống hư hỏng, và tà kiến, tà hạnh, Devadatta vẫn được
một số khá đông người tán thành và phục tùng. Khi Đức Phật về già,
Devadatta yêu cầu Phật trao cho mình quyền lãnh đạo Tăng già, nhưng Đức
Phật kiên quyết không chấp nhận.
Devadatta hết sức tức giận, và cùng với
vua Ajattasattu âm mưu hại Phật. Nhưng các xạ thủ được Ajattasattu thuê
giết Phật, đều bị Đức Phật thuyết giáo và trở thành đệ tử của Phật.
Devadatta thấy tự mình phải hạ thủ sát hại Phật mới được. Một lần Đức
Phật đang đi dọc bờ núi Gijjhakuta (Linh Thứu), thì Devadatta từ trên
đỉnh núi đẩy xuống một tảng đá lớn. May mà tảng đá nầy lăn đụng phải một
tảng đá khác và bị vỡ. Đức Phật chỉ xây xát và chảy máu ở chân.
Một lần khác, Devadatta cho một con voi
điên uống rượu, rồi xua voi húc Phật. Con voi chạy đến gần Phật thì bỗng
nhiên đứng lại, bị thuần phục và được Phật xoa đầu. Sau lần âm mưu thất
bại này, vua Ajatasattu sợ quá, không dám tiếp tục che chở cho
Devadatta nữa.
Devadatta bèn nuôi một âm mưu khác, xảo
quyệt hơn: với một số Tỳ kheo xấu như Kokàlika, Devadatta muốn phá hoà
hợp tăng, chia rẽ nội bộ Tăng già, Devaddata kiến nghị Đức Phật ban hành
5 điều luật mới như sau:
Tăng sĩ phải sống suốt đời ở trong rừng.
Chỉ được khất thực để ăn.
Chỉ được mặc áo làm bằng giẻ rách lượm ở nghĩa địa.
Chỉ được sống dưới gốc cây.
Suốt đời không được ăn cá thịt.
Đức Phật chỉ trả lời là các đệ tử có thể
tùy ý sống theo hay không theo 5 giới điều ấy, nhưng Ngài không ép buộc
họ. Devadatta lợi dụng sự từ chối của Đức Phật, lôi kéo được một số
tăng sĩ trẻ, thiếu học thức và không có căn bản vững vàng, đi theo mình
đến Gayasisa. Nhưng hai đệ tử lớn của Phật là Sariputta và Moggalana,
theo chỉ thị của Đức Phật cũng đến Gayasisa, thuyết pháp cho họ nghe, và
dẫn họ về trở lại với chánh pháp.
Từ đó, tai nạn liên tiếp đến với
Devadatta. Mắc bệnh nan y, trước khi chết, Devadatta ăn năn hối lỗi và
tỏ ý muốn được gặp Đức Phật. Nhưng vì nghiệp ác quá nặng cho nên
Devadatta chết mà không gặp Phật, và phải đọa địa ngục, chịu khổ trong
nhiều kiếp.
Về việc Devadatta, Đức Phật răn các Tỳ
kheo rằng, vì Devadatta bị chinh phục bởi các ác pháp, cho nên phải đọa
địa ngục, tức là bị chinh phục bởi lợi dưỡng, danh vọng, cung kính, dục
vọng xấu, tà kiến. (Xem Tăng Chi III, 20)
24. Đức Phật và Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindika)
Nhà triệu phú, trưởng giả Anathapindika
là vị thí chủ lớn nhất ủng hộ Đức Phật và tăng chúng, thời Đức Phật còn
tại thế. Ông vốn tên là Sudatta, nhưng vì ông hay bố thí cho kẻ nghèo và
người mồ côi, mồ cút cho nên người ta tôn gọi ông là Trưởng giả Cấp Cô
Độc (Anathapindika). Ông sinh ra ở Savatthi.
Một lần đến thành Rajagaha (Vương Xá) có
công việc, ông được biết là Đức Phật đang ngụ ở rừng Sitavana, ngoài
thành Rajagaha. Ông vui mừng khôn xiết và sáng sớm hôm sau, trải qua một
đêm dài mất ngủ vì quá sung sướng bồn chồn, ông lên đường đi đến rừng
Sitavana. Tại đây, Đức Phật đang đi kinh hành ngoài trời và biết trước
ông đến, gọi ông bằng tên riêng Sudatta và thân mật bảo ông lại gần
Ngài.
Ông vấn an Phật, hỏi thăm Đức Phật có an lạc không, Đức Phật trả lời:
“Tất nhiên, bao giờ cũng sống an lạc
Bậc A la hán trong lòng mọi ngọn lửa đã dập tắt.
Không còn đeo đuổi theo dục lạc vật chất nữa.
Cõi lòng mát lạnh, mọi sanh y đoạn tận.
Mọi trở ngại đều loại trừ, đã khéo chế ngự,
Mọi đau khổ trong tâm
Bậc A la hán sống an lạc, hạnh phúc
Vì trong lòng được an tịnh”. (Tương Ưng I, 273)
a) Tinh xá Jatavana
Nghe lời Phật giảng, ông Anathapindika
chứng được Sơ quả (Sotapanna), và ông thỉnh cầu Đức Phật sống qua mùa
mưa ở Savatthi. Đức Phật nhận lời. Ông Anathapindika, trở về Savatthi,
mua một khu vườn của Thái tử Jeta (Kỳ Đà), và xây ở đây tu viện Jetavana
nổi tiếng.
Sách kể rằng, ông mua khu vườn bằng số
tiền đồng vàng lát đầy diện tích vườn, theo sự đòi hỏi của Thái tử Jeta.
Nhưng Thái tử không chịu bán cây ở trong vườn, và tự mình đem tất cả
những cây đó cúng dường Đức Phật. Từ đó, công viên có tên gọi trong các
kinh Phật (Hán dịch) là “Cấp cô độc viên Kỳ đà thụ”. Đức Phật đã giảng
nhiều kinh, và trải qua 19 mùa mưa ở Tịnh Xá nầy.
Các bài nói chuyện của Đức Phật với ông
Anathapindika đều có ý nghĩa lớn đối với người Phật tử tại gia. Trong
một bài thuyết pháp về hạnh bố thí, Đức Phật nói là “sự cúng dường cho
Phật và chư Tăng là công đức rất lớn, nhưng có công đức hơn nữa là quy y
Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, có công đức hơn 3 quy y là tự mình giữ 5
giới, có công đức hơn giữ 5 giới là quán về lòng từ trong giây phút;
nhưng có công đức hơn cả là phát triển tầm nhìn trí tuệ thấy được sự vật
như thật và hiểu được tánh vô thường của sự vật” (Tăng Chi IV, 264 –
265)
Qua đoạn kinh trên, có thể thấy điều Đức
Phật coi trọng hơn cả đối với người xuất gia hay tại gia là phát triển
trí tuệ, để nhìn thấy sự vật như thật, đúng bản chất của chúng là vô
thường, vô ngã. Tuy bố thí, cúng dường cũng là điều quan trọng, đối với
người tại gia, nhưng tự mình tu tập, thực hành nếp sống đạo đức theo 5
giới, nuôi dưỡng lòng từ lại càng quan trọng hơn, nhưng quan trọng hơn
cả là phát triển trí tuệ, để nhìn được sự vật như thật, nhờ đó mà không
còn bị tham đắm, nội tâm được giải thoát, tự tại, trí tuệ được trong
sáng.
b) Bốn niềm vui của Phật tử tại gia
Đức Phật nói tới bốn niềm vui chính đáng
của người Phật tử tại gia, niềm vui có của cải, niềm vui được giàu có,
niềm vui không có nợ nần, và niềm vui không có gì bị chê trách.
“Thế nào là niềm vui có của cải? Ở đây,
gia chủ có của cải nhờ phấn đấu tích cực, góp gom được bằng sức của bàn
tay, bằng mồ hôi, đúng pháp, và tích lũy được một cách đúng pháp, và có ý
nghĩ: ‘Của cải này là của tôi, có được nhờ phấn đấu tích cực tích lũy
đúng pháp’, cho nên niềm vui và thỏa mãn đến với ông ta. Đó là niềm vui
có của cải”.
“Thế nào là niềm vui được giàu có? Ở
đây, vị gia chủ được giàu có nhờ phấn đấu tích cực, vui vẻ nhờ giàu có
và làm nhiều việc lành. Vì có ý nghĩ ‘Nhờ giàu có mà có thể hưởng thụ sự
giàu có và làm các việc lành’, cho nên niềm vui và sự thỏa mãn đến với
ông ta. Đó là niềm vui được giàu có”.
“Thế nào là niềm vui không có nợ nần? Ở
đây, vị gia chủ không có nợ nần, lớn hay nhỏ đối với bất cứ một ai. Vì
có ý nghĩ ‘Tôi không có nợ nần, dù lớn hay nhỏ đối với bất cứ một ai’,
cho nên niềm vui và thỏa mãn đến với ông ta. Đó là niềm vui không có nợ
nần”.
“Thế nào là niềm vui không bị chê trách?
Ở đây, Vị Thánh đệ tử có niềm vui vì các hành động của thân, miệng và ý
đều không có gì là đáng chê trách. Với ý nghĩ ‘Tôi không có gì đáng chê
trách ở thân, miệng và ý’, niềm vui và thỏa mãn đến với ông ta”. (Tăng
Chi III, 77 – 78)
Tiếp đó, Đức Phật nói trong ba niềm vui
trên đây của người tại gia, niềm vui không có gì đáng bị chê trách nơi
hành động, lời nói và ý nghĩ là ưu việt hơn cả.
c) Bảy loại người vợ
Một lần, Đức Phật đến thăm nhà ông
Anathapindika, nghe có tiếng ồn ào thất thường trong nhà, bèn hỏi nguyên
nhân, ông Anathapindika thưa:
“Bạch Thế Tôn, đó là Suyata, con dâu tôi
đang ở với chúng tôi. Nó giàu có và đến đây từ một gia đình giàu có, nó
không săn sóc gì tới mẹ chồng, bố chồng và cả chồng nó nữa. Nó cũng
không kính trọng, tôn quý và đảnh lễ Đức Thế Tôn”. Đức Phật cho gọi
Suyata lại và giảng cho nghe về bảy loại người vợ:
1. Người vợ có tâm địa ác, có ý xấu,
không có lòng thương, bỏ rơi chồng mình, yêu những người đàn ông khác,
một dâm nữ, chỉ muốn làm phiền lòng người. Đó là loại vợ sát nhân.
2. Người vợ hay hoang phí của cải tài
vật, dù là ít do chồng làm ăn kiếm được, nhờ cày ruộng, buôn bán hay lao
động khéo tay, đó là loại vợ ăn trộm.
3. Người vợ lười biếng, không muốn làm
gì hết, lại tham ăn, ác độc, thô bạo, thích nói lời ác, lấn át người
chồng siêng năn cần mẫn. Đó là loại vợ kiêu xa.
4. Người vợ trìu mến, thân ái bảo vệ chồng như mẹ bảo vệ con, giữ gìn tài sản của chồng, đó là loại vợ như mẹ.
5. Người vợ kính trọng chồng, như em gái đối với anh cả, khiêm tốn, sống chiều đúng theo ý chồng. Đó là loại vợ như em út.
6. Người vợ sung sướng khi thấy chồng,
như gặp người bạn cũ sau bao năm xa cách, thuộc giòng quý tộc, có đạo
đức, sống thanh tịnh. Đó là loại vợ như bạn bè.
7. Người vợ dù là bị đối đãi không tốt,
nhưng không giận hờn, vẫn bình tĩnh, chịu đựng mọi hành vi của chồng với
lòng từ mẫn, tâm không biết giận, sống chiều đúng theo ý chồng. Đó là
loại vợ như người phục vụ.
Đức Phật sau khi mô tả bảy loại người vợ
nói trên, nói rằng: loại vợ sát nhân, loại vợ ăn trộm, loại vợ kiêu xa
đều là không tốt, còn loại vợ như mẹ, như em út, như bạn bè, như người
phục vụ là những người vợ tốt, đáng tán thán, và Đức Phật hỏi đó là bảy
loại vợ mà một người đàn ông có được, và Suyata muốn là loại người vợ
nào?
Suyata trả lời: “Xin đức Thế Tôn từ nay trở đi nghĩ về cháu là loại vợ như người phục vụ”.
d) Cây bồ đề Ananda
Ông Anathapindika thường hay đến thăm
Đức Phật hàng ngày và thấy các Phật tử tỏ ra thất vọng mỗi khi đến mà
không được gặp Phật vì Phật đi thuyết pháp ở một nơi khác, cho nên hỏi
Đại Đức Ananda xem có cách gì để cho Phật tử có thể cúng dường Phật, dù
Ngài vắng mặt. Đại Đức Ananda bạch Phật về chuyện này và hỏi Phật về các
vật đáng được cúng dường, đảnh lễ. Đức Phật trả lời là có ba loại. Loại
đồ vật thuộc về thân Đức Phật, loại đồ vật Đức Phật thường dùng, và
loại đồ vật nhắc nhủ nhớ tới Đức Phật.
Đại Đức Ananda hỏi: “Xây một tháp thờ khi đức Thế Tôn còn sống có thích hợp chăng?”
“Không, một vật nhắc nhủ nhớ tới Đức
Phật không có cơ sở vật chất, chỉ có ý nghĩa thuần túy tinh thần. Như
cây Bồ Đề, được Đức Phật sử dụng, là một vật đáng cúng dường, dù khi Đức
Phật còn sống hay là khi Đức Phật đã diệt độ rồi.”
Đại Đức Ananda nói: “Khi đức Thế Tôn đi
thuyết pháp ở nơi khác, tu viện lớn Jetavana nầy không có nơi để quần
chúng quy ngưỡng và cúng dường. Con có thể lấy hạt cây Bồ Đề lớn ở Bodhi
Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) và gieo nó ở cửa Tinh Xá Jetavana được không?”
Đức Phật trả lời: “Rất tốt, hãy trồng cây Bồ Đề ở đây. Như thế khác nào bao giờ Ta cũng có mặt ở Tinh Xá Jetavana nầy”.
Đại Đức Ananda nói ý kiến của Đức Phật
với Phật tử tại gia như ông Anathapindika, nữ gia chủ Visakha và vua
Pasenadi xứ Kosala. Đại Đức Ananda nhờ Tôn giả Moggalana (Mục Kiền Liên)
tìm cho một quả Bồ Đề trên cây Bồ Đề lớn ở Bodhi Gaya. Đại Đức Ananda
đem trồng ở cửa Tinh Xá Jetavana. Cây Bồ Đề ấy hiện nay vẫn còn, và được
gọi là cây Bồ Đề Ananda.
e) Ông Anathapindika qua đời và sinh lên cõi trời Đâu Suất
Khi ông Anathapindika lâm bệnh nặng, ông
mời Tôn giả Sariputta đến giảng kinh tại nhà. Cả Ngài Sariputta và Ngài
Ananda cũng đến vấn an ông. Tôn giả Sariputta giảng cho ông nghe một
bài kinh sâu sắc. Nghe bài kinh gần xong, hai mắt ông trào đầy lệ vì quá
cảm động. Ông Ananda hỏi vì sao, thì ông trả lời là ông chưa từng được
nghe một bài thuyết pháp sâu sắc đến thế. Ngài Sariputta trả lời, đây
vốn là một bài thuyết pháp chỉ giảng cho những Tăng sĩ có trình độ tu
học cao.
Ít lâu, sau khi hai Ngài Sariputta và Ananda ra đi, ông Anathapindika qua đời và sanh lên cõi Trời Tushita (Đâu Suất).
Đến tối, thiên chủ Anathapindika, với
thân hình sáng chói cả khu vườn Jetavana, đến chào Đức Phật, tán thán
công đức của Tôn giả Xá Lợi Phất, và bày tỏ niềm vui sướng của mình được
thấy Đức Phật và chư Tăng ngụ tại Tu Viện Jetavana. Thiên chủ
Anathapindika nói:
“Ý lành và trí tuệ, tâm được tu tập đúng
pháp, lối sống tối cao cả, dựa trên đạo đức chân chính. Chính điều ấy
làm con người thanh tịnh, chứ không phải danh lợi thế gian”.
25. An cư kiết hạ
Sự nghiệp giáo hóa và thuyết pháp của
Đức Phật kéo dài 45 năm, từ năm Đức Phật thành đạo lúc 35 tuổi cho đến
năm tuổi 80, Đức Phật nhập Niết bàn. Năm này qua năm khác, Đức Phật đi
nơi này nơi kia, khi thì đi một mình, khi thì có đông đảo đệ tử đi theo,
thuyết pháp độ sanh, giáo hóa quần chúng bằng gương sáng cao cả của bản
thân, và bằng lời lẽ đầy trí tuệ. Chỉ vào mùa mưa, ở Ấn Độ, thông
thường giữa tháng 7 và tháng 11, Đức Phật nghỉ lại trong các tu viện và
thuyết pháp tại chỗ, không đi ra ngoài. Tục lệ này gọi là An cư kiết hạ,
được Tăng ni Phật tử duy trì liên tục cho đến ngày nay, ở khắp các nước
có Phật giáo. Vào mùa an cư kiết hạ, quần chúng là tín đồ hay không tín
đồ, hàng ngày kéo đến đông đảo tại tu viện hay công viên, nơi có Đức
Phật và Chư Tăng trú ngụ, để được nghe thuyết pháp, cúng dường Phật và
Chư Tăng.
26. Đức Phật và vua Pasenadi xứ Kosala
Như đã nói trên, trong 45 năm giáo hóa
và thuyết pháp độ sanh, Đức Phật hoặc một mình, hoặc cùng với đông đảo
học trò đi lại nhiều nơi ở vùng trung châu sông Hằng. Nhưng thời gian
dài nhất, Đức Phật ở tại Savatthi, kinh đô của vương quốc Kosala.
Cũng như Trưởng giả Anathapindika, vua
Pasenadi (Ba Tư Nặc) xứ Kosala là một thí chủ lớn của Đức Phật và Chư
Tăng. Ở Savatthi, ngoài Tinh Xá Jetavana của ông Anathapindika cúng
dường Đức Phật, còn có tu viện Rajakarama do vua Pasenadi xây cất, để
cúng dường Phật và Chư Tăng.
Hoàng hậu Malika, vợ vua cũng là một tín
đồ thuần thành của Đức Phật và khéo hướng dẫn giúp đỡ vua một cách tốt
đẹp trong các vấn đề tôn giáo. Có lần, vua nằm thấy liên tiếp 16 cơn
mộng bất thường, các đạo sĩ Ba la môn ở trong triều nói đó là điềm gở và
khuyên vua phải tổ chức tế đàn lớn, giết nhiều sinh vật để cúng tế thì
mới tai qua nạn khỏi. Vua cũng nghe theo và chuẩn bị tổ chức tế đàn.
Khi Hoàng hậu Malika biết tin, bà khuyên
vua, thay vì tổ chức tế đàn, hãy yết kiến Phật và hỏi Ngài về ý nghĩa
của 16 cơn mộng. Và vua được yên tâm, sau khi nghe Phật giải thích đầy
đủ về 16 cơn mộng bất thường của vua. Vua bèn thôi không tổ chức tế đàn
nữa.
Một niềm hạnh phúc lớn của vua Pasenadi
là được nghe Đức Phật thuyết pháp nhiều lần. Tương Ưng Bộ Kinh có một
chương đặc biệt, có đầu đề “Tương Ưng Kosala” ghi lại phần lớn các bài
thuyết pháp của Đức Phật cho vua Pasenadi. Sau đây xin trích giới thiệu
nội dung vài đoạn trong chương Kosala Tương Ưng:
a) Đánh giá một người là thế nào không phải là chuyện đơn giản.
Một lần, vua Pasenadi ngồi bên cạnh
Phật, tại lâu đài Migaramatu, thì thấy có một số du sĩ ngoại đạo đi
ngang gần đấy. Người thì bện tóc, người thì lõa thể, người thì chỉ mặc
một y. Vua hỏi Đức Phật là trong số các du sĩ đó, ai là người đã chứng
quả A la hán, ai là người đang trên đường tiến tới chứng quả A la hán.
Đức Phật trả lời là đối với nhà vua đang sống trong vòng dục lạc, dùng
các loại hương chiên đàn từ xứ Kasi, trang sức với vòng hoa, hương thơm,
dầu sáp, dùng nhiều vàng bạc, thì thật là khó biết trong số các du sĩ
vừa đi qua, ai là A La Hán và ai đang trên con đường tiến tới chứng quả A
La Hán. Hơn nữa phải cùng sống lâu với một người, lại phải biết chú ý,
xem xét và phải có trí tuệ, thì mới có thể biết được người đó có giới
hạnh hay không, phải cùng chung một nghề, mới biết được một người có
thanh tịnh hay không, phải qua sự thử thách của một thời gian bất hạnh
mới biết được một người có trung kiên hay không, phải qua đàm đạo với
một người mới biết được người đó có trí tuệ hay không. Hơn nữa, phải
trải qua một thời gian dài có chú ý, xem xét và phải có trí tuệ thì mới
có thể đánh giá một con người là thế nào,… Và cuối cùng Đức Phật khuyên
vua xem xét người, không nên chỉ nhìn bộ mặt bề ngoài, có thể là giả dối
che đậy.
b) Đức Phật khuyên coi trọng phụ nữ, ngang hàng với nam giới.
Một lần, vua Pasenadi, được tin Hoàng
hậu Malika hạ sanh con gái, tỏ vẻ không vui. Đức Phật, biết tâm trạng đó
của vua, bèn đọc bài kệ:
“Này nhân chủ ở đời
Có một số thiếu nữ
Có thể tốt đẹp hơn
So sánh với con trai
Có trí tuệ giới đức
Khiến nhạc mẫu thánh phục
Rồi sanh được con trai
Là anh hùng, quốc chủ
Người con trai như vậy,
Của người mẹ hiền đức
Thật xứng là đạo sư
Giáo giới cho toàn quốc”. (Tương Ưng I, 104)
c) Không nên coi thường Tỳ kheo trẻ.
Có lần vua Pasenadi hỏi vì sao, Đức Phật
tuổi còn trẻ và xuất gia chưa bao lâu, mà chứng được quả Vô thượng
Chánh đẳng giác, là quả Thánh cao nhất mà nhiều vị giáo chủ khác, tuy
tuổi đời và đạo đều cao hơn Đức Phật, nhưng thừa nhận rằng mình chưa đạt
tới được. Đức Phật trả lời, có bốn cái trẻ không thể coi thường. Thứ
nhất là Sát đế lỵ trẻ (võ tướng trẻ thuộc đẳng cấp Sát đế lỵ), thứ hai
là con rắn trẻ, thứ ba là ngọn lửa trẻ (mới nhen nhúm lên), và thứ tư là
Tỳ kheo trẻ.
Ý từ Đức Phật là vị võ tướng trẻ có thể
chiếm thiên hạ, rắn trẻ có thể cắn chết người, ngọn lửa trẻ có thể đốt
cháy cánh đồng lớn, Tỳ kheo trẻ – nếu tinh tấn tu hành – có thể chứng
quả Thánh.
d) Chiến thắng nuôi dưỡng hận thù.
Pasenadi, làm vua xứ Kosala hùng mạnh
không tránh khỏi chiến tranh với các nước láng giềng, đặc biệt là với
chính cháu mình là Ajatasattu, vua xứ Magadha. Có khi vua Pasenadi bại
trận, có khi vua Pasenadi chiến thắng, thậm chí có lần bắt sống được vua
Ajatasattu. Vì vua Pasenadi là người có tâm địa tốt, sùng kính Phật,
cho nên khi bắt sống được vua Ajatasattu, vua chỉ tịch thu toàn bộ binh
mã, còn thì tha cho vua Ajatasattu trở về.
Khi các Tỳ kheo thuật lại chuyện này với Đức Phật. Ngài nói lên hai bài kệ. Bài đầu, khi vua Pasenadi thất trận:
“Thắng trận sinh thù oán
Bại trận nếm khổ đau
Ai bỏ thắng bỏ bại,
Tịch tịnh hưởng an lạc”. (Tương Ưng I, 102)
Bài kệ thứ hai, Đức Phật nói lên khi nghe các Tỳ kheo thuật chuyện vua Pasenadi thắng trận và bắt sống được vua Ajatasattu:
“Vì nghĩ đến tư lợi,
Nên mới cướp hại người
Khi người khác cướp lại,
Bị hại lại hại người
Người ngu nghĩ như vậy,
Khi ác chưa chín muồi
Người ngu chịu khổ đau,
Sát người, bị người sát
Thắng người, bị người thắng
Mắng người, người mắng lại.
Não người, người não lại
Do nghiệp được diễn tiến
Bị hại, lại hại người”. (Tương Ưng I, 103)
27. Đức Phật và nữ thí chủ Visakha
Cũng tại Savathi, Đức Phật còn có thêm
một tinh xá thứ ba nữa, do nữ thí chủ Visakha xây. Tinh xá gọi là
Pubbarama. Đức Phật và Tăng chúng đã trải qua sáu mùa kiết hạ tại Tinh
xá này của bà Visakha. Bà là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, mẹ là
Sumanà Devi và ông nội của bà cũng là một nhà triệu phú tên là Mendaka.
Ngay từ năm bà lên 7 tuổi, bà được may
mắn gặp Đức Phật, khi Đức Phật đến Bhaddiya, nơi sinh quán của Bà, tại
vương quốc Anga. Do có trí thông minh và đạo đức bẩm sinh, sau khi nghe
Phật giảng pháp, mặc dù tuổi còn nhỏ, bà cũng chứng Sơ quả (Sotapanna).
Bà có một người chồng giàu có,
Punnavadhana, con trai nhà triệu phú Migàra. Bố chồng vốn là một tín đồ
thuần thành của Nigantha Nataputta, vị giáo chủ của đạo Jain. Bà đã khéo
léo xin được phép mời Đức Phật đến nhà chồng thụ trai và sau đó, thuyết
pháp cho cả gia đình nghe. Bố chồng cũng nghe nhưng ngồi sau một bức
màn. Vào cuối bài thuyết pháp của Đức Phật, bố chồng giác ngộ, chứng
ngay Sơ quả. Cả gia đình chồng trở thành một gia đình Phật tử hạnh phúc
và thuần thành.
Bà yêu cầu Đức Phật đồng ý cho bà được làm tám việc đối với Tăng chúng như sau:
Tặng áo cà sa cho Tăng chúng vào mùa kiết hạ, từ nay cho đến ngày bà qua đời.
Cúng dường cho tất cả Tỳ kheo đến Savathi.
Cúng dường cho tất cả Tỳ kheo ra khỏi Savathi.
Cúng dường thức ăn cho Tỳ kheo ốm.
Cúng dường thức ăn cho những ai săn sóc người ốm.
Cúng dường thuốc men cho Tý kheo ốm.
Cúng dường cháo cho Tỳ kheo.
Cúng dường áo tắm cho Tỳ kheo ni.
Đức Phật vui vẻ nhận lời, Đức Phật nhiều
lần thuyết pháp cho bà Visakha. Trong một bài thuyết pháp, Đức Phật có
nói tới tám giới cho Phật tử tại gia nên theo trong những ngày Bố Tát
(Uposatha). Hiện nay, tám giới này vẫn được Phật tử theo, trong các ngày
Bố Tát ở các nước có đạo Phật.
Bà Visakha là nữ thí chủ lớn nhất của Đức Phật và Tăng chúng, cũng như ông Anathapindika là nam thí chủ lớn nhất.
28. Đức Phật và vua Bimbisara
Bimbisara (Tần Ba Sa La) là vua xứ
Magadha, có kinh đô ở thành Rajagaha (Vương Xá). Vua từng gặp Đức Phật
khi Phật mới xuất gia, và yêu cầu Đức Phật trở lại thăm vương quốc của
vua, sau ngày thành đạo. Giữ đúng lời hứa cũ, Đức Phật cùng với đông đảo
các vị A la hán đệ tử, đi từ Gaya đến thủ đô Rajagaha, và nghỉ tại đền
Suppatittha trong một rừng cây cọ dừa. Đươc tin, vua Bimbirasa cùng với
quần thần đông đảo đến chào Đức Phật và Tăng chúng.
Vì trong số đệ tử đi theo hầu Đức Phật,
có Tôn giả Kassapa vốn có uy tín lớn trong quần chúng ở đây, cho nên
nhiều người phân vân không rõ ai là bậc Đạo Sư, Đức Phật hay là Tôn giả
Kassapa. Đức Phật biết rõ mối phân vân đó của quần chúng, bèn hỏi ông
Kassapa vì nguyên nhân gì ông bỏ tập tục tế thần lửa. Ông Kassapa thưa
rằng, ông bỏ tập tục tế thần lửa, vì ông nhận thấy cảnh giới Niết bàn an
tịnh, cao quý hơn nhiều so với dục lạc thế gian. Nói xong ông đảnh lễ
Phật và nói: “Đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư, con là đệ tử của Ngài”.
Đức Phật bèn giảng kinh bổn sanh của ông
Kassapa cho mọi người nghe, kể rằng trong một kiếp trước, Đức Phật cũng
đã từng độ cho ông Kassapa ở xứ Narada. Được nghe Phật thuyết pháp, vua
Bimbisara chứng ngay Sơ quả. Hôm sau, vua thết trai tăng ở hoàng cung,
mời Phật và Tăng chúng tham dự. Sau đó, vua tặng Đức Phật và Tăng chúng
công viên Trúc Lâm, trong đó có đền Con Sóc và Tinh Xá Veluvanaràma, nơi
đây Đức Phật trải qua 6 mùa an cư kiết hạ.
Bà Khema, vợ thứ của vua, sau này xuất
gi và cùng với bà Gotami, lãnh đạo Ni chúng. Còn Hoàng hậu chánh thất
của vua là bà Kosala Devi, con gái vua Pasenadi xứ Kosala. Con bà Kosala
Devi là Ajatasattu (A Xà Thế), sau này cướp ngôi và giết vua cha, đó là
do nghiệp quá khứ của vua Bimbisara quá nặng nề. Nhưng vì vua đã chứng
Sơ quả, cho nên cái chết của vua cũng nhẹ nhàng, đỡ phần bi thảm và sau
khi qua đời, vua lập tức sanh lên cõi trời Lummaharajika với cái tên
thiên chủ Janavasabba.
Ajatasattu sau khi cùng với Devadatta âm
mưu giết hại Phật không thành, biết ăn năn hối lỗi, xin Phật cho quy y
và trở thành một Phật tử tại gia hàng đầu của Đức Phật. Do nghiệp quá
khứ nặng nề, cho nên đến lượt ông, ông cũng bị con ông giết và cướp
ngôi.
29. Đức Phật và tướng cướp Angulimala
Một sự kiện đáng ghi nhớ, đánh dấu năm
thứ 20 ngày thành đạo là Đức Phật giác ngộ cho Angulimala, tên tướng
cướp khét tiếng hung ác của xứ Kosala. Tên thật của Angulimala là
Ahimsaka (Kẻ vô tội). Cha ông vốn là một quan chức trong triều vua xứ
Kosala. Thời niên thiếu, ông theo học ở Taxila, là trung tâm học vấn nổi
tiếng đương thời ở Bắc Ấn Độ. Ông học rất giỏi và được thầy yêu thương
nhất trong số các học sinh. Điều không may là các bạn đồng học ghen tỵ
ông, vu cáo ông với thầy giáo và ông thầy giáo cả tin đâm ra căm thù
ông, và muốn giết ông bằng cách bắt ông trả học phí bằng 1000 ngón tay
phải của con người. Angulimala phải vâng lời thầy, mặc dù rất khổ tâm.
Ông bèn rút lui vào rừng Jalini ở Kosala và bắt đầu giết người để có đủ
số ngón tay cần thiết.
Ban đầu, ông treo các ngón tay người
trên cây, nhưng vì các ngón tay bị quạ mổ ăn, cho nên ông xâu ngón tay
người lại thành vòng để đeo nơi cổ; do đó ông có tên Angulimala (vòng
ngón tay). Sách kể rằng, khi ông đã thu thập được 999 ngón tay, thời Đức
Phật xuất hiện. Angulimala rất mừng vì sắp có đủ số ngón tay cần thiết
để nộp cho ông thầy giáo ác độc, Angulimala rút gươm, chạy đuổi theo
Phật.
Vì Đức Phật dùng phép thần thông, nên
Angulimala càng đuổi nhanh, càng không bắt kịp được Phật, mặc dù Phật
vẫn đi khoan thai từ từ. Cuối cùng, thở hỗn hển và ướt đẫm mồ hôi,
Angulimala đứng lại và gọi: “Này Tu sĩ, hãy dừng chân”. Đức Phật nói
bằng giọng từ tốn: “Mặc dù ta đang đi, nhưng ta đã dừng chân. Còn nhà
ngươi đã dừng chân hay chưa?”
Angulimala không hiểu ý tứ câu nói của
Đức Phật như thế nào? Bởi vì Đức Phật đang đi, lại nói là đã dừng chân.
Còn Angulimala đã dừng chân rồi, thì Phật lại bảo “Hãy dừng chân!”
Angulimala hỏi Phật và được Phật giải thích như sau:
“Đúng là ta đã dừng mãi mãi, này Angulimala,
Không bao giờ dùng bạo lực với chúng sanh.
Còn nhà ngươi, hãy dừng tay chớ có giết hại đồng loại
Vì vậy mà Ta nói rằng, Ta đã dừng,
Và bảo ngươi cũng hãy dừng tay!”
Nghiệp thiện ngày xưa của Angulimala tác
động vào tư tưởng của ông, và ông biết rằng, ông đang đứng trước mặt
Đức Phật Thích Ca, Ngài đã vì lòng thương xót ông mà đến cứu ông ra khỏi
vòng tội lõi. Ông vứt gươm xuống đất, xin Đức Phật cho ông được xuất
gia làm Tăng. Đức Phật chỉ nói một câu đơn giản: “Ehi Bikkhu” (Hãy đến !
Tỳ kheo).
Thế nhưng, mặc dù xuất gia, tinh thần
của Tỳ kheo Angulimala vẫn không được yên ổn. Thường xuyên, ông bị ám
ảnh bởi tiếng kêu khóc của những người ông đã sát hại. Một hôm, đi khất
thực, ông bị quần chúng đuổi đánh, ném đá, ông trở về tu viện, lỗ đầu,
chảy máu. Đức Phật giải thích cho Angulimala biết, đó là Angulimala trả
nợ nghiệp ác cũ của mình.
Một ngày, Angulimala đi khất thực, gặp
một người đàn bà trở dạ, khó sanh và đang vô cùng đau đớn. Không biết
làm sao được, Angulimala trở về hỏi Đức Phật. Đức Phật bày cho
Angulimala đem lời sau đây nói với người đàn bà:
“Này bà chị, từ khi tôi sanh trở lại
trong hàng Thánh chúng, tôi không có giết hại bất cứ một loại hữu tinh
nào. Cầu mong lời nói thật này giúp cho bà chị được khỏi đau đớn, con
của bà chị được sanh nở an toàn”.
Angulimala học thuộc lời Đức Phật, và
đến nói với người đàn bà đau đớn, khó sanh. Lập tức, người đàn bà hết
đau, và hạ sanh đứa con dễ dàng. Lời nầy của Đức Phật được gọi là
Angulimala Paritta. Ngày nay, ở các xứ Phật giáo Nam phương, người ta
vẫn có tập tục đọc lời Angulimala Paritta để làm dịu cơn đau đẻ của phụ
nữ.
Sau này, Angulimala chứng quả A la hán.
30. Đức Phật và kỹ nữ Ambapali
Ambapali là người kỹ nữ nổi danh tài sắc
của thành phố Vesali. Trên đường đi Kusinara, để nhập Niết bàn, Đức
Phật dừng lại Vesali, và nghỉ ở vườn xoài của Ambapali. Được tin,
Ambapali đến chào Đức Phật, và trân trọng mời Đức Phật và chúng Tăng đến
dùng tiệc trai ngày mai tại nhà bà. Đức Phật nhận lời, và từ chối lời
mời của hàng quý tộc Liechavi. Họ hứa trả bà Ambapali một số tiền rất
lớn, để bà nhường lại cho quý tộc Liechavi đặc ân được thiết cơm Phật và
chúng Tăng nhưng bà từ chối và hôm sau, y lời hẹn, Đức Phật và chúng
Tăng đến với nhà bà Ambapali dùng tiệc trai. Sau bữa tiệc, Ambapali kính
tặng Đức Phật và chúng Tăng vườn xoài to lớn của bà để làm Tinh xá. Sau
này, Ambapali cũng xuất gia và chứng quả A la hán.
Hai sự kiện Angulimala và Ambapali cho
thấy, cửa Đạo Từ Bi mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu
sang, nghèo hèn và đẳng cấp xã hội. Một tướng cướp như Angulimala, một
dâm nữ như Ambapali, nếu thành tâm hối lỗi, cũng có thể xuất gia, tinh
tấn tu học và chứng Thánh quả cao nhất. Một lòng tin thuần thành, và một
nỗ lực lớn nhất: đó là điều kiện cơ bản để đi vào đạo Thánh và trở
thành bậc Thánh trên thế giới này. Đạo Phật không đòi hỏi một điều kiện
nào khác.
31. Đức Phật tuyên bố sẽ nhập Niết Bàn
Đức Phật năm nay tròn 80 tuổi. Ngài nhận
định sự nghiệp thuyết pháp, giáo hóa độ sanh của Ngài đã hoàn thành.
Thời điểm đã đến để Ngài nhập Niết bàn. Trên đường đi Kusinara, khi Đức
Phật dừng chân tại Vaisali, ở Tinh Xá Capala, Ngài đã tuyên bố với tôn
giả Ananda là ba tháng nữa, Ngài sẽ nhập Niết bàn. Ngài không chấp nhận
lời yêu cầu của Ananda, xin Ngài sống thêm một kiếp nữa, vì hạnh phúc,
vì an lạc của chúng sanh. Đức Phật giảng cho ông Ananda về tính vô
thường của mọi sự vật trên thế gian này, và bảo ông Ananda tập hợp chúng
Tỳ kheo ở Vaisali lại ở Tinh Xá Mahavana, để nghe Phật thuyết pháp.
Rồi Đức Phật nói với chúng Tỳ kheo những
lời lẽ như sau: “Này các Tỳ kheo! Mọi pháp đều vô thường. Hãy siêng
năng phấn đấu. Như Lai sắp nhập Niết bàn. Từ nay trong vòng 3 tháng nữa,
Như Lai sẽ nhập Niết bàn. Tuổi Ta đã già, cuộc sống con người ngắn
ngủi. Ta sẽ vĩnh biệt các người. Hãy tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác và
sống đạo đức. Người nào sống không phóng dật trong giới luật, người đó
sẽ được giải thoát khỏi sanh tử luân hồi và chấm dứt mọi đau khổ”.
Và một lần cuối cùng, nhìn thành phố Vaisali, Đức Phật nói chúng Tỳ kheo:
“Giới, định, và tuệ, giải thoát tối hậu. Đó là những điều Như Lai thực hiện”.
32. Buổi ăn cuối cùng của Đức Phật
Từ Vaisali, Đức Phật cùng với tôn giả
Ananda và chúng Tỳ kheo lên đường đi Kusinara. Dọc đường, Đức Phật cùng
chúng Tăng dừng lại ở nhiều nơi, tiếp xúc với dân chúng, thuyết pháp độ
sanh.
Ở Pava, người thợ rèn Cunda (Thuần Đà)
thết tiệc trai Đức Phật và chúng Tăng. Cunda chuẩn bị riêng cho Đức Phật
một món ăn đặc biệt, gọi là sùkaramaddava. Đức Phật khuyên Cunda dành
riêng dĩa thức ăn đó cho Đức Phật, và phần còn lại của dĩa phải đem chôn
đi. Và nói: “Chỉ có Như Lai mới ăn và tiêu hóa được thức ăn này mà
thôi”.
Ăn xong, Đức Phật bị kiết lỵ nặng. Ngài
tuy mệt nhưng vẫn giữ tinh thần bình thản và quyết định lại lên đường đi
Kusinara, cách Pava khoảng 6 dặm. Đức Phật tắm lần cuối cùng ở sông
Kakutthi, và sau khi nghỉ một lát, Ngài nói với Đại đức Ananda: “Có thể
có người trách Cunda về bữa cơm cuối cùng dọn cho Ta, vì sau bữa ăn đó
Ta sẽ nhập Niết bàn, và Cunda có thể ăn năn hối hận. Nhà ngươi cần nói
cho Cunda biết rằng, có hai bữa ăn cúng dường cho Như Lai, đem lại công
đức lớn nhất cho người cúng dường. Đó là bữa ăn cúng dường Như Lai trước
giờ Như Lai thành đạo và bữa ăn cúng dường Như Lai trước giờ Như Lai
nhập Niết bàn. Hãy nói cho Cunda biết rằng, nhờ đã cúng dường Như Lai
bữa ăn cuối cùng trước khi Như Lai nhập Niết bàn, Cunda được phúc đức
lớn, quả báo lớn, nhờ đó mà Cunda được thọ mạng lâu dài, tái sanh ở cõi
lành, giàu có, tiếng tăm, được sanh lên cõi trời và có quyền lực lớn.
Này Ananda, ngươi hãy nói như vậy để loại bỏ mọi nỗi ân hận của Cunda,
nếu có”.
Nói xong, Đức Phật đến vườn cây Sala ở
Kusinara, nơi có bộ tộc Mallas ở, và bảo Đại đức Ananda chuẩn bị chỗ
nằm, để Đức Phật yên nghỉ, đầu hướng Bắc, nằm nghiêng mình, chân phải để
trên chân trái, bình thản, tỉnh táo.
33. Cách tốt đẹp nhất để tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai
Thấy các cây Sala trổ hoa trái mùa, và
các biểu hiện khác của niềm tin tưởng, quý mến, tôn trọng Như Lai, Đức
Phật bèn nói với các Tỳ kheo có mặt như sau:
“Này Ananda, không nên tôn trọng, đảnh
lễ, tán thán, quý mến Như Lai theo kiểu như vậy. Nhưng bất cứ Tỳ kheo
hay Tỳ kheo ni nào, Ưu bà tắc hay Ưu bà di nào mà sống đúng với Chánh
pháp, tự mình ứng xử hợp với đạo, có hành động chân chánh, thì chính
người đó tôn trọng, đảnh lễ, tán thán và quý mến Như Lai một cách tốt
đẹp nhất. Do đó, này Ananda, các người phải tu tập như vậy. Mọi người
hãy sống đúng với chánh pháp, tự mình ứng xử hợp với đạo, có hành động
chân chánh”.
34. Bốn địa điểm chiêm bái
Rồi Đức Phật nói tới bốn địa điểm có liên hệ tới Đức Phật, mà Phật tử có thể đến chiêm bái. Đó là:
- Nơi Đức Phật giáng sinh, ở vườn Lumbini (Lâm tỳ ni) tại vùng biên giới Ấn Độ – Nepan.
- Nơi Đức Phật thành đạo ở Bodhi Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng).
- Nơi Đức Phật bắt đầu chuyển thành bánh xe Pháp (Sarnàth) tức là Vườn Nai gần Benarès.
- Nơi Đức Phật nhập Niết bàn ở Kusinàra (nay là Kasia, cách 32 dặm nhà ga Gorakbpur).
Đức Phật dạy rằng: “Những người nào qua
đời trong quá trình đi chiêm bái, với lòng có đức tin, thì sẽ được sanh
lên các cõi trời”.
35. Đức Phật hóa độ cho người cuối cùng: du sĩ Subhadda
Bấy giờ có du sĩ Subhadda, đang sống ở
Kusinara, biết tin Đức Phật sẽ nhập Niết bàn vào canh cuối cùng của đêm
nay ở Kusinara. Du sĩ có suy nghĩ như sau: “Các đạo sư lớn tuổi, các du
sĩ thường nói với ta rằng sự kiện Như Lai, bậc toàn giác xuất hiện ở đời
là hiếm có, rất hiếm có. Vào canh cuối cùng đêm nay, Đức Phật Thích Ca,
bậc Toàn giác sẽ nhập diệt. Ở đây ta có lòng tin Đức Phật, có thể là
Ngài sẽ thuyết pháp cho ta để ta được giác ngộ”.
Rồi du sĩ Subhadda đi đến rừng cây Sala,
và xin Đại đức Ananda cho được gặp Đức Phật. Nhưng ông Ananda nói là
Đức Phật đang mệt, không thể tiếp được. Subhadda ba lần thỉnh cầu, Đại
đức Ananda đều không chấp nhận. Nhưng Đức Phật nghe câu chuyện giữa Đại
đức Ananda và du sĩ Subhadda, bèn nói với Đại đức Ananda rằng: “Hãy để
cho Subhadda vào. Ông ta đến đây để mong được nghe pháp, được giác ngộ,
chứ không phải để làm phiền Ta, và những lời Ta nói, Subhadda sẽ có thể
hiểu được”.
Đức Phật nói cho Subhadda nghe về con
đường đạo tám nhánh, và chỉ có những người tu học theo pháp và luật của
Như Lai, mới thực hành con đường đạo tám nhánh và mới có thể trở thành
đệ nhất Sa môn, đệ nhị Sa môn, đệ tam Sa môn, đệ tứ Sa môn. Subhadda vô
cùng hoan hỷ và xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Đồng thời xin
được xuất gia làm Tăng, ngay bây giờ trước mặt Đức Phật. Tuy rằng theo
luật, đáng lý, Subhadda vốn là du sĩ ngoại đạo, phải trải qua 4 tháng
thử thách và sau đó, nếu Tăng chúng chấp nhận, mới được thọ giới Tỳ
kheo. Nhưng vì trường hợp rất đặc biệt, Đức Phật đặc cách cho Subhadda
miễn trải qua 4 tháng thử thách và bảo Tôn giả Ananda truyền thụ giới Tỳ
kheo cho Subhadda. Subhadda sau một thời gian tu học tinh tấn, trở
thành một A la hán. Ông là người được Phật hóa độ cuối cùng.
36. Những lời dạy cuối cùng của Đức Phật
Đức Phật thấy Đại đức Ananda buồn khóc,
bèn thân mật an ủi, tán thán đức hạnh của Đại đức Ananda như là một thị
giả, một đệ tử kiểu mẫu, và khích lệ Đại đức phấn đấu tinh tấn để sớm
được giải thoát, trở thành A la hán. Sau đó, Đức Phật nói với Đại đức
Ananda đi báo cho dân chúng Mallas biết là Như Lai sắp nhập Niết bàn vào
canh cuối đêm nay tại rừng cây Sala.
Được tin đông đảo dân chúng Mallas, đàn
ông, đàn bà, người già, thanh niên, trẻ con tấp nập kéo đến rừng cây
Sala bày tỏ lòng tôn kính, thương tiếc và vĩnh biệt Đức Phật lần cuối
cùng. Sau đây là những lời dặn của Đức Phật với chúng đệ tử, trước khi
ngài nhập Niết bàn.
“Này Ananda, có thể các ngươi nghĩ rằng:
Chỉ còn lại giáo phái cao cả mà không còn bậc Đạo sư, chúng ta không
còn có bậc Đạo sư nữa. Không! Ananda, các ngươi không được nghĩ như vậy,
Pháp và Luật mà ta đã dạy, tuyên bố sẽ là đạo sư của các ngươi, sau khi
Ta nhập Niết bàn.”
“Này Ananda, Tăng chúng nếu muốn, có thể bỏ các giới luật phụ và nhỏ, sau khi Ta nhập Niết bàn”.
“Này các đệ tử của Ta, nếu các ngươi còn
có nghi ngờ gì về Phật, Pháp, Tăng hay về con đường đạo, về phương pháp
thì hãy hỏi Ta, đừng để sau này hối tiếc, nghĩ rằng, đối diện với Như
Lai mà không hỏi được Như Lai câu nào!”
Đức Phật nói xong, chúng đệ tử đều im lặng, Đức Phật hỏi tới ba lần, chúng đệ tử đều im lặng.
Đức Phật nói: “Có thể vì các ngươi tôn
trọng bậc đạo sư mà không đặt câu hỏi chăng? Thì hãy để một người nói
thay vậy”. Một lần nữa, chúng đệ tử vẫn im lặng.
Đại đức Ananda bạch Phật rằng: “Tuyệt
vời thay! Hy hữu thay! Thưa đức Thế Tôn. Trong hàng đệ tử chúng con ở
đây, không có một người nào nghi ngờ và thắc mắc gì đối với Phật, Pháp,
Tăng, con đường đạo và phương pháp”.
Đức Phật nói: “Này Ananda, nhà ngươi nói
vì niềm tin đối với Như Lai, Như Lai biết rõ là, trong chúng đệ tử có
mặt tại đây, không có người nào còn nghi ngờ thắc mắc đối với Pháp,
Tăng, con đường đạo và phương pháp. Trong số năm trăm đệ tử này, này
Ananda, người kém nhất cũng đã chứng quả Dự Lưu, không còn thoái chuyển
nữa, cuối cùng chắc chắn sẽ được giác ngộ”.
Câu nói cuối cùng của Đức Phật là: “Hỡi
các đệ tử, Ta khích lệ các người, mọi pháp hữu vi đều biến hoại. Hãy
tích cực phấn đấu!”. Thế rồi đức Thế Tôn im lặng. Ngài lặng lẽ nhập
định, tuần tự trải qua các cấp thiền từ thấp tới cao, rồi cuối cùng chủ
động nhập Niết bàn.
37. Lễ Trà tỳ và sự phân chia xá lợi của Phật
Thi hài Đức Phật được dân chúng Mallas
trân trọng đưa tới Makutabandhana, và để ở đó bảy ngày trước khi tổ chức
lễ trà tỳ chính thức (hỏa táng). Tôn giả Maha Kassapa cũng về đây để
đảnh lễ vĩnh biệt Đức Phật lần cuối cùng và chủ trì lễ hỏa táng. Sau lễ
trà tỳ, dân chúng Mallas thu thập xá lợi để cúng dường. Các nước lân cận
và nhất là vua Ajatasattu cũng đòi một phần Xá lợi. Vì ban đầu dân
chúng Mallas không chịu, cho nên có nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh
xung quanh việc phân chia xá lợi. Nhưng cuối cùng, các bên cũng thỏa
thuận được với nhau là xá lợi Phật chia làm tám phần, phân phối cho dân
chúng Mallas, vua Ajatasattu xứ Magadha, bộ tộc Liechavi ở Vaisali, bộ
tộc Sakya ở Kapitavastu, bộ tộc Bulaka ở Calakalna, bộ tộc Krandya ở
Ramagrama, những người Bà la môn ở Visudvipa, những người Mallas ở Pava.
Bà la môn Dona, người tổ chức thành công
việc phân chia Xá lợi, dành lấy cho mình cái bình đựng Xá Lợi. Những
người Maurya ở Pipphalirana, vì đến chậm, chỉ nhận được tro còn lại của
giàn hỏa. Các bên được phân chia Xá Lợi, đều xây tháp ở quốc gia mình để
cúng dường. Như vậy, có tất cả 10 tháp: tám tháp đựng Xá Lợi của Phật,
một tháp xây trên bình chứa Xá Lợi, và một tháp thờ tro của giàn hỏa.
Kết luận
Trên đây là sơ lược tiểu sử Phật Thích
Ca, căn cứ vào các nguồn tư liệu chính thống của kinh sách Đạo Phật.
Trong tiểu sử đó, phần nào là sự thật lịch sử, phần nào là huyền thoại
và thần thoại, do các thế hệ đệ tử và tín đồ sùng kính Phật thêm vào về
sau này, đó là điều chúng ta không thể xác định được. Thế nhưng, dựa vào
các tài liệu rải rác và được hệ thống hóa lại, chúng ta có thể có mấy
nhận định sau đây về nhân vật Thích Ca, khác với các giáo chủ các tôn
giáo khác như thế nào.
1. Phật không phải là
Thượng đế tạo thế và cứu thế. Phật, theo đúng nghĩa của từ Phật, là bậc
giác ngộ, và ai giác ngộ được như Phật đều gọi là Phật. Vì vậy, theo
Phật giáo thì đã có nhiều Phật trước Phật Thích Ca và sau Phật Thích Ca,
cũng sẽ có nhiều Phật ra đời nữa. Đạo Phật thủy chung bác bỏ quan niệm
siêu hình về một cái nhân ban đầu, từ con số không mà sinh ra được thế
giới, vạn vật, v.v. Chủ thuyết của Đạo Phật là mọi sự đều do nhiều nhân,
nhiều duyên sinh ra, gọi là thuyết nhân duyên sinh. Phật cũng không
phải là một đấng cứu thế, vì Phật “Chỉ dạy về con đường và nếu các người
đi theo con đường này, mọi đau khổ sẽ đoạn tận”. (Pháp Cú, kệ 275).
Phật luôn luôn nhắc nhở đệ tử là tự mình
làm cho mình trở nên trong sạch. Và cũng tự mình làm cho mình dơ bẩn.
Chứ không ai làm cho ai được trong sạch hay dơ bẩn cả.
“Tự mình điều ác làm,
Tự mình làm nhiễm ô.
Tự mình ác không làm
Tự mình làm thanh tịnh
Tịnh không tịnh tự mình
Không ai thanh tịnh ai”. (Pháp Cú, kệ 165).
Chính vì những lý lẽ trên mà nhiều đạo
giáo khác cho rằng đạo Phật là vô thần, theo nghĩa đạo Phật không công
nhận có Thượng đế tạo thế và cứu thế. Nhưng ít có tôn giáo nào đề cao
con người và tình thương con người như đạo Phật.
Thậm chí, có người nói đạo Phật không
phải là tôn giáo, bởi vì đã là tôn giáo thì phải công nhận thế giới do
Thượng đế sáng tạo và người phải có linh hồn. Nhưng đạo Phật đồng thời
bác bỏ cả thuyết Thượng đế và thuyết linh hồn.
Nhưng đạo Phật vẫn là một tôn giáo, ở
chỗ, thứ nhất, nó có một Giáo chủ, một đức Bổn sử là Phật Thích Ca, mặc
dù đã nhập diệt cách đây hơn 2500 năm, nhưng vẫn là đối tượng quy ngưỡng
của hàng triệu triệu tín đồ Phật tử hiện nay trên khắp thế giới. Thứ
hai, nó có một hệ thống giáo lý được ghi lại trong ba tạng kinh điển có
nguyên tắc bằng hai cổ ngữ chính là Pali và Sanskrit, và hiện nay đã
được dịch ra hầu hết các ngôn ngữ chính trên thế giới. Thứ ba, nó có một
giáo đoàn tăng sĩ, chấp nhận và thực hành mọi quy tắc được Phật chế
định ngay lúc khi Ngài còn tại thế, và được ghi lại trong giới bổn
Patimokkha.
2. Phật luôn luôn
khuyến cáo đệ tử là phải tin ở sức mình, ở khả năng của mình thành tựu
đích giác ngộ và giải thoát tối hậu. Trong những ngày cuối cùng của cuộc
đời mình, Phật nói với tôn giả Ananda, người đệ tử thân cận của mình
như sau: “Hãy dựa vào bản thân mình, như là ngọn đèn sáng cho chính
mình. Hãy dựa vào sức của bản thân mình là chính. Hãy dựa vững vàng vào
Chánh Pháp. Đừng có tìm một chỗ dựa nào khác ngoài bản thân mình”.
Có thể nói, đặc sắc của Phật Thích Ca
như là một giáo chủ, là không áp đặt một quyền lực nào hết lên trên con
người. Phật không bao giờ cường điệu tính yếu hèn, tính tội lỗi nơi con
người, trái lại, Phật luôn luôn nhấn mạnh con người có đầy đủ bản chất
hướng thiện, đồng thời có đầy đủ khả năng tự hoàn thiện mình. Tự mình cố
gắng và phấn đấu, thì mình sẽ được giác ngộ và giải thoát. Đó là lời
khuyên thường được nhắc đi, nhắc lại của Phật Thích Ca.
3. Phật Thích Ca không
phải là một nhà cách mạng và hoạt động xã hội theo ý nghĩa hiện đại của
từ đó, nhưng quan điểm xã hội của Phật rất rõ ràng. Phật không tán thành
chế độ đẳng cấp xã hội ở Ấn Độ. Giáo hội Tăng già do Phật sáng lập
không phân biệt đẳng cấp xã hội. Phật nói: “Hỡi các Tỳ kheo, cũng như
các con sông lớn, sông Hằng Hà, sông Yamuna, sông Aciravati, sông
Sarabhu, sông Mahi, khi chúng đổ vào biển thì chúng mất tên gọi trước
đây của chúng, và được gọi cùng một tên là biển cả mà thôi, cũng như
vậy, bốn đẳng cấp Sát đế lợi, Bà la môn, Vệ xá, và Thủ đà la, một khi họ
đã đến với Pháp và Luật do Như Lai giảng thuyết, từ cuộc sống gia đình
đến cuộc sống không nhà thì họ cũng đều mất tên gọi trước đây của họ, bộ
lạc cũ của họ, và được gọi cùng một tên là tu sĩ”.
Trong hàng ngũ đệ tử của Phật khi Phật
còn tại thế, xuất gia cũng như tại gia, đều có đủ các hạng người thuộc
đủ mọi đẳng cấp, từ các vua chúa lớn nhất của các vương quốc hùng mạnh
tại Ấn Độ thời bấy giờ như vua Bimbisara, vua Ajatassattu, vua Pasenadi
v.v.. cho đến các giáo sĩ Bà La Môn nổi danh là thông minh, cao đạo như
anh em Kassapa, hai ông Sariputta và Moggalana cho đến anh thợ cạo thuộc
bộ tộc Sakya là Upali, ngưòi dâm nữ nổi danh tài sắc thành Vaisali là
Ambapali, tên cướp khét tiếng tàn ác là Angulimala ở Kosala.
Tất cả mọi người, không kể trí, ngu,
sang, hèn, nếu thành tâm cầu đạo, ăn năn lỗi trước, đều có thể tu đạo,
và chứng đạo, trở thành bậc Thánh giữa chúng sanh, chứng ngay Niết Bàn
trên cõi thế. Phật luôn luôn nhấn mạnh tính bình đẳng giữa người và
người với nhau. Phật nói về những người thuộc đẳng cấp Bà La Môn, vốn
thường tự xem mình là tầng lớp xã hội thượng đẳng: “Là Bà La Môn hay là
tiện dân không phải là do sinh đẻ mà là do hành động của bản thân mình.
Người Bà La Môn hay là tiện dân không phải là do sinh đẻ mà là do hành
động của bản thân mình. Người Bà La Môn không phải sinh ra từ lửa, nhờ
có hai thanh gỗ ma xát nhau, cũng không phải từ trên trời rơi xuống hay
là từ gió bay ra, cũng không phải từ dưới đất chui lên. Những người Bà
La Môn cũng sinh ra từ bụng mẹ hoàn toàn giống nhau như người Thủ Đà la
vậy. Mọi người đều có quan năng trong cơ thể tương tự nhau, không có gì
khác nhau cả. Sao lại có thể có những người tự cho mình thuộc loại hay
giống như người đặc biệt?”.
Phật không có thành kiến về giới tính,
tuy rằng Phật cho rằng bản chất người phụ nữ là yếu đuối, và Phật đã tỏ
ra dè dặt khi cho thiết lập đoàn thể nữ tu sĩ đầu tiên. Nhưng sau khi
xuất gia, nhiều nữ tu sĩ đã trở thành nổi danh về đạo đức cao khiết và
học lực uyên thâm. Cũng như hai ông Sariputta và Moggalana là Thượng thủ
của Tăng chúng thời Phật, hai bà Khema và Gotami cũng được tôn là
Thượng thủ của Ni chúng. Hai bà cũng đều chứng quả A la hán.
Giáo hội Tăng già do Phật Thích Ca sáng
lập ra là một đoàn thể thật sự dân chủ. Giáo hội đó không biết đến giáo
quyền. Giáo hội đó dựa trên tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái,
gọi là lục hòa (sáu điều hòa hợp).
4. Phật Thích Ca là một
giáo chủ rất rộng lượng và khiêm tốn, Phật thường ví Phật Pháp như cái
bè qua sông, như ngón tay chỉ mặt trăng hay là con đường dẫn tới Chân
lý, chứ bản thân Phật pháp không phải là chân lý tối hậu. Đã là cái bè
qua sông thì có thể có nhiều thuyền, nhiều bè khác nhau cùng qua sông;
đã là ngón tay chỉ mặt trăng thì có thể có nhiều ngón tay cùng một lúc
chỉ mặt trăng; đã là con đường dẫn tới chân lý thì có thể có nhiều con
đường khác nhau dẫn tới đích là Chân lý tối hậu.
Hai nữa, giác ngộ và giải thoát là một
thực nghiệm cá nhân, nghĩa là không ai có thể giác ngộ hay giải thoát
thay cho ai được cả. Có những điều mình làm được nhưng người khác không
làm được, mình làm dễ nhưng người khác làm khó, trong hoàn cảnh này làm
được, nhưng trong hoàn cảnh khác lại không. Một tôn giáo tầm cỡ thế giới
như đạo Phật không thể cứng nhắc hay hẹp hòi được. Đấy là một lý do vì
sao trong đạo Phật, có lắm tôn nhiều phái, và giữa các phái với nhau,
trong quá khứ cũng như hiện nay, tuyệt đối không bao giờ có sự lấn áp
trên thế mạnh dù rằng có nhiều lúc Phật giáo có ưu thế hơn, được chính
quyền trọng đãi như quốc giáo (như trong hai triều đại Lý, Trần ở Việt
Nam).
Những Tăng Ni Phật giáo, nếu sống đúng
theo giới luật nhà Phật, là những người vô sản hoàn toán. Họ không có
quyền lực, cũng không có tiền bạc. Họ chỉ có hai điều: lòng Từ bi và Trí
tuệ. Nhưng với hai vũ khí đó, đạo Phật trong một thời, đã từng chinh
phục trái tim và khối óc của đại bộ phận nhân dân thế giới cổ đại và
phong kiến [*], và hiện nay nó vẫn là một tôn giáo thế giới với hàng
trăm triệu tín đồ.
[*] Toàn bộ thời kỳ từ nửa thế kỷ IV đến
cuối thế kỷ VIII sau Công nguyên có thể được gọi là kỷ nguyên Phật giáo
của lịch sử Trung Hoa. Trên thực tế, có thể gọi đó là kỷ nguyên Phật
giáo cuả lịch sử châu Á. Và có thể nói, của cả thế giới, bởi lẽ vào thời
kỳ đó, khoảng hơn một nửa dân số thế giới là tín đồ đạo Phật. Đạo Phật
trải rộng trên toàn khắp châu Á, trừ hai vùng Siberi và Cận Đông, tạo
thành cho cả châu lục này một sự thống nhất về văn hóa chưa từng có.
(East Asia-The Great Tradition, – Đông Á – Truyền thống vĩ đại, tr.
147-148, Edwin O Reischauer and John K. Faichanks, Harvard University)
Trên đây là 4 đặc điểm về nhân cách của
Phật Thích Ca, như là một giáo chủ. Các Tăng sĩ, tu sĩ Phật giáo của bất
cứ một nước nào, trước đây cũng như hiện nay đều phải lấy đó làm gương.
Không thể tưởng tượng được một Tăng sĩ Phật giáo, dù cao niên, dù bác
học đến đâu mà có thái độ và giọng nói giáo quyền, sống không giản dị,
không thiểu dục, trí túc, lại kích động, chống đối và bạo loạn, vì những
mục đích danh lợi cá nhân, bày trò dị đoan để lôi kéo quần chúng, trong
khi Phật Thích Ca tuyệt đối ngăn cấm không được làm như vậy, cho rằng
đó là một việc làm xấu hổ, không nên làm.
Tăng sĩ phải là gương sáng của đạo đức
và trí tuệ, là người thầy dạy giáo pháp và đạo đức và giới luật. Nhà
chùa phải là trung tâm của trí tuệ và đạo đức, chứ không phải là nơi chỉ
có cúng kiến và lễ bái. Kinh sách Phật phải được giảng diễn cho người
đời hiểu và làm theo, chứ không phải để riêng cho giới tu sĩ đọc tụng.
Đó là hướng tiến tới của đạo Phật chân chính sẽ còn tồn tại lâu dài
trong lòng người Việt Nam, trong cuộc sống của người Việt Nam, trên đất
nước Việt Nam chúng ta.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.