THIỀN PHÁI LÂM TẾ CHÚC THÁNH


Tâm Lễ Vương Học
29/09/2011 10:54 (GMT+7)
Số lượt xem: 444408
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

Chúng ta tiếp nhận huyết thống, gốc rễ từ Tổ tiên, nhưng nếu không có Ông Bà, Cha Mẹ sinh đẻ, nuôi nấng thì không có chúng ta hôm nay, nên phận làm con cần phải biết về danh tánh, gia phả, giòng họ và nơi sinh cơ lập nghiệp của Tổ tiên mình.



  Ðối với người Phật Tử cũng vậy.  Ðức Phật thị hiện tại thế gian để khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật, nhưng nếu không có Thầy, Tổ truyền đăng tục diệm, truyền giới, truyền pháp thì mạng mạch Phật pháp không thể tồn tại cho đến hôm nay.  Bởi thế cho nên người học Phật cũng cần phải tìm hiểu về tông phái mình để báo ân Thầy, Tổ.  Chính trong niệm báo ân đó mà mỗi khi thuyết pháp, truyền giới, tụng giới, chúng ta đều niệm câu: “Nam Mô Tây Thiên, Ðông Ðộ, Nam Ðộ lịch đời Tổ Sư Bồ Tát”.  Vậy Tổ Tây Thiên gồm những ai?  Tổ Ðông Ðộ, Nam Ðộ gồm những vị nào chúng ta cần phải biết.

Trong phạm vi bài này sẽ trình bày 2 phần:

  • Sơ lược sự hình thành các tông phái
  • Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh

Sau 49 năm thuyết pháp độ sanh, trước khi nhập niết bàn, Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật truyền y bát cho:

Ngài Ma Ha Ca Diếp làm Tổ thứ 1

Ngài A Nan làm Tổ thứ 2

Ngài Thương Na Hòa Tu làm Tổ thứ 3

Ngài Ưu Ba Cúc Ða làm Tổ thứ 4

Ngài Ðề Ða Ca làm Tổ thứ 5

Ngài Di Dá Ca làm Tổ thứ 6

Ngài Bà Tu Mật làm Tổ thứ 7

Ngài Phật Ðà Nan Ðề làm Tổ thứ 8

Ngài Phục Ðà Mật Ða làm Tổ thứ 9

Ngài Hiếp Tôn Giả làm Tổ thứ 10

Ngài Phú Na  Dạ Xa làm Tổ thứ 11

Ngài Mã Minh làm Tổ thứ 12

Ngài Ca Tỳ Ma La làm Tổ thứ 13

Ngài Long Thọ làm Tổ thứ 14

Ngài Ca Na Ðề Bà làm Tổ thứ 15

Ngài La Hầu La Ða làm Tổ thứ 16

Ngài Tăng Già Nan Ðề làm Tổ thứ 17

Ngài Già Da Xá Ða làm Tổ thứ 18

Ngài Cưu Ma La Ða làm Tổ thứ 19

Ngài Xà Dạ Ða làm Tổ thứ 20

Ngài Bà Tu Bàn Ðầu làm Tổ thứ 21

Ngài Ma Noa La làm Tổ thứ 22

Ngài Hạc Lặc Na làm Tổ thứ 23

Ngài Sư Tử làm Tổ thứ 24

Ngài Bà Xá Tư Ða làm Tổ thứ 25

Ngài Bất Như Mật Ða làm Tổ thứ 26

Ngài Bát Nhã Ða La làm Tổ thứ 27

Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma làm Tổ thứ 28.

Tổ Tổ tương truyền, từ Tổ thứ 1 là ngài Ma Ha Ca Diếp đến Tổ thứ 28 là Ngài Bồ Đề Đạt Ma, khoảng 975 năm.  Đó là 28 đời Tổ Tây Thiên vậy.

Năm 517 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma vâng lời đi giáo của thầy mình là Tổ Bát Nhã Ða La dùng thuyền rời Ấn Ðộ. 3 năm sau (năm 520) Ngài tới Trung Hoa. Tại Trung Hoa Ngài diễn xướng pháp môn Thiền Tông nên Ngài trở thành Sơ Tổ Ðông Ðộ và Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa.  Ðó là lý do tại sao tại các chùa Trung Hoa và Việt Nam đều có Tổ Ðường thờ Ngài (Hình tượng Ngài đang quảy 1 chiếc giày cỏ – Vua Hậu Ngụy sai Tống Văn đi sứ Ấn Ðộ về gặp Ngài đang quảy 1 chiếc giày đi như bay qua núi Thông Lãnh.  Hỏi đi đâu thì Ngài trả lời là về Ấn Ðộ.  Sau về tâu với Vua mở quan tài của Ngài ra xem thì thấy chỉ còn một chiếc giày. Chiếc giày nầy được các môn đồ của Ngài đem về thờ tại chùa Thiếu Lâm).

Năm 520, Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa (ngày 21 tháng 9 năm Canh Tý, niên hiệu Phổ Thông năm đầu), vào đời nhà Lương, dưới triều vua Lương Võ Đế.  Sau vì không đủ nhân duyên truyền pháp, Ngài bỏ sang nước Ngụy nhằm đời Hậu Ngụy vua Hiếu Minh Đế, ngày 23 tháng 11 niên hiệu Chánh Quang năm đầu.  Ngài đến chùa Thiếu Lâm động Thiếu Thất (Nằm trong dãy Tung Nhạc huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam.  Dãy Tung Nhạc có 36 ngọn núi.  Phía đông có ngọn Đại Thất, phía Tây có ngọn Thiếu Thất.  Tại đây chùa Thiếu Lâm được xây năm 495, 25 năm trước khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa).

Tại động Thiếu Thất, suốt 9 năm Ngài ngồi đối vách tham thiền (cửu niên diện bích tham thiền).  Người đương thời gọi môn nầy là Bích Quán và gọi Ngài là Bích Quán Bà La Môn.

Trước khi nhập diệt, Ngài truyền y bát lại cho Ngài Huệ Khả làm Tổ thứ 2 và có dặn rằng: “Trong truyền tâm ấn để khế hợp chỗ tâm chứng, ngoài truyền y bát để định tông chỉ vì ở đời có người cho rằng ta là người Ấn, ông là người Trung Hoa, lấy gì để làm minh chứng.  Nhưng hai trăm năm sau khi ta diệt độ, lúc đó Phật pháp đã thịnh hành, lòng người đã thuần thành, y bát nầy dừng lại, không truyền.  Hơn nữa y bát là vật chất, đầu mối của sự tranh dành”.  Rồi Ngài nói bài kệ:

Ngô bổn lai tư độ

Truyền Pháp cứu mê tình

Nhất hoa khai ngũ diệp

Kết quả tự nhiên thành

(Ta sang đến cõi nầy

Truyền pháp cứu mê tình

Một hoa nở năm cánh

Nụ trái tự nhiên thành)

Sau khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma nhập diệt (543). Ngài Huệ Khả kế thừa làm Tổ thứ 2 Thiền Tông Trung Hoa, Ngài Tăng Xán làm Tổ thứ 3, Ngài Đạo Tín làm Tổ thứ 4, Ngài Hoằng Nhẫn làm Tổ thứ 5, Ngài Huệ Năng làm Tổ thứ 6.  Từ Nhị Tổ Huệ Khả truyền đến Lục Tổ Huệ Năng là 5 đời, phù hợp với câu “Nhất hoa khai ngũ diệp” – khoảng 200 năm.

Sau khi Lục Tổ Huệ Năng diệt độ (713-TL) Thiền Tông Trung Hoa dần dần chia thành năm tông phái (Ngũ gia thiền):

  • Tông Quy Ngưỡng do Thiền Sư Đại Viên ở Quy Sơn làm Sơ Tổ.
  • Tông Lâm Tế do Thiền Sư Nghĩa Huyền ở Lâm Tế làm Sơ Tổ.
  • Tông Tào Động do Thiền Sư Lương Giới ở Động Sơn làm Sơ Tổ.
  • Tông Vân Môn do Thiền Sư Văn Yến ở Vân Môn làm Sơ Tổ.
  • Tông Pháp Nhãn do Thiền Sư Văn Ích ở Pháp Nhãn làm Sơ Tổ.

Tông Lâm Tế do Thiền Sư Nghĩa Huyền ở Lâm Tế làm Sơ Tổ, truyền đến đời thứ 21, có Thiền sư Vạn Phong Thời Ủy  biệt xuất bài kệ truyền pháp như sau:

Tổ đạo giới định tôn

Phương quảng chứng viên thông

Hạnh siêu minh thiệt tế

Liểu đạt ngộ chơn không

Như nhựt quang thường chiếu

Phổ châu lợi ích đồng

Tín hương sanh phước huệ

Tương kế chấn từ phong.

Tại Việt Nam, dưới đời chúa Nguyễn Phúc Tần niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 3 – 1665, có một cao tăng người Quảng Đông theo tàu buôn đến tại phủ Quy Nhơn (Bình Định bây giờ).  Ngài họ Tạ, húy Siêu Bạch, pháp tự Hoán Bích, hiệu Nguyên Thiều, thuộc đời pháp thứ 33 dòng Lâm Tế chánh tôn.  Tại phủ Quy Nhơn, Ngài mở trường truyền pháp và khai sơn chùa Thập Tháp Di Đà (tọa lạc tại làng Thuận Chánh, huyện Tuy Viễn – Được gọi là Thập Tháp vì sau chùa có mười ngôi cổ tháp của người Chàm).  Sau Ngài ra Thuận Hóa (huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên) lập chùa Hà Trung. Khoảng 10 năm sau Ngài lên kinh đô Huế lập chùa Quốc Ân và xây tháp Phổ Đồng (tọa lạc tại ấp Phước Quả, phường Trường An thành phố Huế).  Hiện nay chùa Thập Tháp Di Đà tại Bình Định, chùa Quốc Ân tại Huế đều là những Tổ đình được sắc tứ mà oai phong vẫn còn đến hôm nay.

Ở tại chùa Quốc Ân được ít lâu, Ngài phụng mệnh vua Anh Tôn (Nguyễn Phúc Trăn) sang Trung Hoa để thỉnh cao tăng và pháp khí, pháp tượng. Chúng ta không biết rõ là những cao tăng nào đã được Ngài Nguyên Thiều thỉnh qua nước ta lúc đó, nhưng theo bia ký có ghi lại một số Thiền Sư Trung Hoa có mặt tại Việt Nam vào giai đoạn này như:

  • Thiền Sư Hải Trừng Chuyết Chuyết ở chùa Ninh Phúc Bắc Ninh (1633 Đàng Ngoài – Thăng Long)
  • Thiền Sư Lục Hồ Viên Cảnh và Đại Thâm Viên Khoang ở Quảng Trị
  • Thiền Sư Giác Phong, khai sơn chùa Thiên Thọ (tức chùa Báo Quốc), Thuận Hóa
  • Thiền Sư Minh Hoằng Tử Dung, khai sơn chùa Ấn Tôn (tức chùa Từ Ðàm) Thuận Hóa.
  • Thiền Sư Từ Lâm, khai sơn chùa Từ Lâm, Thuận Hóa.
  • Thiền Sư Minh Vật Nhất Trí, khai sơn chùa Kim Cang Đồng Nai.
  • Thiền Sư Minh Hải Pháp Bảo, khai sơn chùa Chúc Thánh, Quảng Nam.
  • Thiền Sư Quả Hoằng Hưng Liên, khai sơn chùa Tam Thai, Quảng Nam.
  • Thiền Sư Pháp Hóa (hiệu Minh Hải Phật Bảo) khai sơn chùa Thiên Ấn, Quảng Ngãi.
  • Thiền Sư Tế Viên, khai sơn chùa Hội Tôn, Phú Yên.
  • Thiền Sư Thạnh Liêm, khai sơn chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa.
  • Thiền Sư Minh Hoàng Định Nhiên.
  • Thiền Sư Minh Hành Tại Toại trú trì chùa Phật Tích, Bắc Ninh và chùa Ninh Phúc, Bút Tháp Bắc Ninh.

Ngài Minh Hành có biệt xuất bài kệ truyền pháp:

Minh chân như tính hải

Kim tường phổ chiếu thông

Chí đạo thành chánh quả

Giác ngộ chứng chơn không

(Thấy chân như biển rộng

Ánh vàng chiếu vô cùng

Đạt đạo thành chánh quả

Giác ngộ chứng chơn không)

Trú trì tại chùa Hà Trung không bao lâu thì Ngài Nguyên Thiều viên tịch, thọ 81 tuổi.  Chúa Nguyễn Phúc Chu tặng Ngài thụy hiệu là Hạnh Đoan Thiền Sư.  Trước khi viên tịch Ngài có để lại bài kệ:

Tịch tịch cảnh vô ảnh

Minh minh châu bất dung

Đường đường vật phi vật

Liêu liêu không vật không.

(Lặng lẽ gương không chiếu bóng

Sáng trưng ngọc chẳng thâu hình

Rõ ràng vật không phải vật

Mênh mông không chẳng là không)

Vào đầu thế kỷ 17 (Trung Hoa đang ở gia đoạn chuyển tiếp giữa hai triều đại nhà Minh và nhà Thanh. Và nước ta đang trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh), một số đông các vị cao tăng từ Trung Hoa đến Việt Nam hoằng hóa, mở ra các tòng lâm, đạo tràng truyền giới, truyền pháp thật hưng thạnh đã góp phần rất lớn cho sự phát triển Phật Giáo tại nước nhà, tạo ảnh hưởng quan trọng trong việc phục hưng đạo Phật cho đến ngày nay.  Tuy nhiên trong giai đoạn nầy Đạo Phật nước ta từ cách lễ nhạc, truyền pháp, hành đạo còn mang nặng sắc thái Trung Hoa, cho đến khi ở Đàng Ngoài có Thiền sư Chân Nguyên và Đàng Trong có Thiền Sư Liễu Quán thì Đạo Phật mới dần dần có màu sắc Việt Nam.

Thiền sư Chân Nguyên thế danh là Nguyễn Nghiêm, quê ở làng Tiền Liệt, huyện Tiên Hà, tỉnh Hải Dương, xuất gia năm 19 tuổi, tu hạnh đầu đà, đắc pháp với Thiền Sư Minh Lương ở chùa Vĩnh Phúc núi Côn Cương được Thiền Sư Minh Lương đặt Pháp danh là Chân Nguyên.  (Thiền Sư Minh Lương và Thiền Sư Minh Hành là đệ tử của Thiền Sư Hải Trừng Chuyết Chuyết, người có công đem Thiền Phái Lâm Tế từ Trung Hoa truyền ở Đàng Ngoài trước tiên).  Ngài là người có tài đức thường được vua Lê Hi Tông triệu vào cung để thuyết pháp và được vua ban cho hiệu là Vô Thượng Công. Năm 1722 lúc 76 tuổi Ngài được vua Lê Dụ Tông  phong chức Tăng Thống và ban hiệu là Chính Giác Hòa Thượng.  Ngài tịch vào tháng 10 âm lịch năm 1726, thọ thế 80 tuổi.  Ngài và các cao đồ của Ngài như Như Sơn, Như Trí, Như Hiện, Như Trừng, Tịnh Quang, Tuệ Hiền, Huệ Nguyên…đã có công phục hưng lại Thiền phái Trúc Lâm tại Đàng Ngoài, phục hồi nền văn học Phật Giáo nước ta.

  • Ngài Như Sơn soạn Kế Đăng Lục (1715)
  • Ngài Như Trí trùng san Thiền Uyển Tập Anh (1715)
  • Ngài Tịnh Quang trùng san Thánh Đăng Lục (1750)
  • Ngài Tuệ Hiền trùng khắc Khóa Hư Lục
  • Ngài Huệ Nghiêm trùng san Thương Số Ngữ Lục

Ngài Như Trừng và Như Hiện dịch ra chữ Nôm những văn bản từ trước chỉ được lưu truyền bằng chữ Hán như Sa Di Thập Giới, Hai Mươi Bốn Thiên Oai Nghi… Sách Tam tổ Thực Lục cũng do những hậu duệ trong pháp phái trùng san năm 1765.

Thiền Sư Liễu Quán pháp danh Thiệt Diệu, sanh năm 1670 trong một gia đình nghèo tại làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, Miền Trung.  Ngài mồ côi mẹ từ năm lên 6 tuổi, Được cha cho học đạo với Hòa Thượng Tế Viên ở chùa Hội Tôn.   Năm 12 tuổi thọ Sa Di giới với Hòa Thượng Thạch Liêm tại chùa Thiền Lâm và thọ Cụ túc giới với Đại Lão Hòa Thượng Từ Lâm năm ngài 27 tuổi.  Ngài là người có chí cầu học, du phương, tham vấn khắp các thiền lâm.  Năm 1702 Ngài đến chùa Ấn Tôn núi Long Sơn, Thuận Hóa bái yết Hòa Thượng Minh Hoằng Tử Dung cầu pháp tham thiền.  Hòa Thượng Tử Dung có dạy Ngài tham khảo công án:

“Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?”

(Muôn pháp về một, một về chỗ nào?)

Ngài lãnh thọ yếu chỉ “thoại đầu” lui về Phú Yên tỉnh cư, tham cứu một thời gian dài mà chưa phá vỡ được công án ấy, trong lòng lấy làm hỗ thẹn.  Một hôm nhơn đọc sách Truyền Đăng Lục đến câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ” (Chỉ vật truyền tâm, người không hiểu được), Ngài hốt nhiên tỏ ngộ.

Từ đó, Ngài đi khắp nơi để hoằng dương chánh pháp, xả thân hành đạo, cứu khổ, độ mê.  Liên tiếp trong 3 năm Quý Sửu (1733) Giáp Dần (1734) Ất Mão (1735) Ngài đã không quản gian lao, khó nhọc, nhận lời của chư Tôn môn, các tể quan, Cư sĩ ở Huế chủ tọa 4 Đại Giới Đàn.  Đến năm Canh Thân (1740) Ngài đưọc thỉnh làm chủ tọa Giới Đàn Long Hoa để truyền trao giáo pháp cho đàn hậu tấn.  Đến mùa xuân năm Nhâm Tuất (1742) tuy đã 72 tuổi, Đại Chúng lại thỉnh cầu Ngài làm Đường Đầu Hòa Thượng cho Đại Giới Đàn tổ chức tại chùa Viên Thông.

Lúc bấy giờ, thân tứ đại đã già yếu, biết sắp xả báo thân, Ngài bèn họp đồ chúng lại dạy rằng “Nhơn duyên đã mãn ta sắp đi đây”.  Lúc ấy Đại chúng đảnh lễ, ai nấy đều đau buồn, than khóc, Ngài khuyên rằng:  “Các ngươi đừng khóc, chư Phật ra đời còn nhập niết bàn, Ta nay đi lại rõ ràng, về tất có chỗ, không việc gì phải khóc”.

Buổi sáng mai, nhằm ngày 21 tháng 11 âm lịch năm Nhâm Tuất (1742), gọi thị giả mang giấy bút tới, Ngài ngồi dậy ngay thẳng cầm bút viết bài kệ rằng:

Thất thập dư niên thế giới trung

Không không sắc sắc diệc dung thông

Kim triêu nguyện mãn hoàng gia lý

Hà tất bôn mang vấn tổ tông.

(Ngoài bảy mươi năm cõi sắc không

Sắc không không sắc thảy dung thông

Hôm nay nguyện mãn về quê cũ

Nào phải ân cần hỏi tổ tông).

Viết kệ xong, Ngài dặn đồ chúng rằng: “Sau khi Ta đi các Ngươi phải nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng của cuộc đời mà siêng năng tu tập trí tuệ, chớ quên lời dặn của Ta”.  Dặn dò đồ chúng xong, Ngài an nhiên thị tịch trong tư thế kiết già (lúc 2 giờ chiều ngày 21 tháng 11 năm Nhâm Tuất tại chùa Viên Thông dưới chân núi Ngự Bình, thọ 72 tuổi).  Chúa Nguyễn Phúc Khoát hay tin đến lễ bái và ban cho Ngài bia ký thụy hiệu là Đạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hòa Thượng.

Nhục thân của Ngài được tôn trí nơi bảo tháp cách chùa Thuyền Tôn độ hơn 1 km về phía đông nam.  Ngôi tháp nầy do chúa Nguyễn Phúc Khoát xây, mặt tiền có tôn trí 2 câu đối để tưởng nhớ công hạnh của Ngài.

“Bảo đạc trường minh bất đoạn môn tiền lưu lục thủy

Pháp thân độc lộ y nhiên tọa lý khán thanh sơn”

(Tiếng mõ vang lừng, trước ngõ tuôn trào dòng suối biếc.

Pháp thân vòi vọi, quanh tòa cao ngất dãy non xanh).

Ngài đắc pháp với Hòa Thượng Minh Hoằng Tử Dung, trở thành đời pháp thứ 35 dòng Lâm Tế chánh tôn.  Ngài là Tổ khai sơn chùa Thuyền Tôn tại ấp Ngũ Tây, làng An Cựu bên trái núi Thiên Thai, Thừa Thiên – Huế.  Thiền phái Lâm Tế Liễu Quán do Ngài làm Sơ Tổ được truyền theo bài kệ truyền pháp do Ngài biệt xuất sau đây:

Thiệt tế đại đạo

Tánh hải thanh trừng

Tâm nguyên quảng nhuận

Đức bổn từ phong

Giới định phước huệ

Thể dụng viên thông

Vĩnh siêu trí quả

Mật khế thành công

Truyền trì diệu lý

Diễn xướng chánh tông

Hạnh giải tương ưng

Đạt ngộ chơn không”

(Đường lớn thực tại

Biển thể tính trong

Nguồn tâm thấm khắp

Gốc đức vun trồng

Giới định cùng tuệ

Thể dụng viên thông

Quả trí siêu việt

Hiểu thấu nên công

Truyền giữ lý mầu

Tuyên dương chánh tông

Hành giải song song

Đạt ngộ chơn không)


Thiền sư Liễu Quán và các hậu duệ của Ngài đã làm cho thiền phái Lâm Tế từ Trung Hoa trở nên sinh động, phát triển ra khắp miền Trung và miền Nam Việt Nam.  Nhờ vậy mà dân chúng được thấm nhuần ảnh hưởng tốt đẹp của đạo Phật và tạo điều kiện cho sự chấn hưng Phật Giáo Việt Nam từ lúc đó cho tới bây giờ. Các vị cao tăng lãnh đạo trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất như các Đức Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam Tăng Thống… đều xuất thân từ môn phái nầy.

Cùng với sự hình thành và phát triển của Thiền Phái Lâm Tế Liễu Quán tại Huế là Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại Hội An, Quảng Nam do Pháp Bảo Đại Sư khai sáng.

Ngài pháp danh thượng Minh hạ Hải, tự Đắc Trí hiệu Pháp Bảo, người tỉnh Phước Kiến, Trung Hoa, là một trong những cao tăng được ngài Nguyên Thiều mời qua Việt Nam dưới thời vua Anh Tôn Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691).

Sau khi tham dự giới đàn truyền giới tại chùa Linh Mụ, Ngài vào núi Ngũ Hành Sơn (8 km, đông nam Đà Nẵng) lập một am nhỏ ẩn tu.  Tại đây Ngài có làm một bài kệ:

Minh thiệt pháp toàn chương

Ấn chơn như thị đồng

Vạn hữu quy nhất thể

Quán liễu tâm cảnh không

Giới hương thành chánh quả

Giác hải dũng liên hoa

Tinh tấn sanh phước huệ

Hạnh trí giải viên thông

Ảnh nguyệt thanh trung thủy

Vân phi nhật khứ lai

Đạt ngộ vi diệu tánh

Hoằng khai tổ đạo trường.

Bài kệ này được khắc vào bia đá và văn bia hiện được dựng trước chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng.

Sau thời gian ẩn tu, Ngài vào khu phố của người Hoa Kiều ở thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam khai sơn chùa Chúc Thánh và khai sáng một dòng thiền mới là Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh.

Cổng Tam quan Tổ Đình Chúc Thánh

Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh do Ngài khai sáng được truyền thừa thứ tự theo bài kệ truyền pháp sau đây:

Minh thiệt pháp toàn chương

Ấn chơn như thị đồng

Chúc thánh thọ thiên cửu

Kỳ quốc tộ địa trường.

Đắc chánh luật vi tuyên

Tổ đạo giải hạnh thông

Giác hoa bồ đề thọ

Sung mãn nhân thiên trung.

(Hiểu thấu pháp chân thật

Ấn chơn như hiện tiền

Cầu thánh quân tuổi thọ

Chúc đất nước vững bền

Giới luật nêu trước tiên

Giải và hạnh nối liền

Hoa nở cây giác ngộ

Hương thơm lừng nhân thiên).

(Bài kệ trên là pháp danh. Bài dưới là pháp tự)

Bài kệ của Tổ Minh Hải được tôn trí tại chùa Phổ Quang Western Australia

Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh hiện đã truyền đến thế hệ thứ 11-12 tức đời pháp thứ 44-45 của tông Lâm Tế và đã phát triển trên khắp năm châu.

Chùa Chúc Thánh (hiện tọa lạc tại phường Cẩm Phô, thị xã Hội An, Quảng Nam) với hai câu đối treo ở tiền đường:

Chúc Nam quốc chí tôn, tứ hải nhân dân hàm khể thủ

Thánh Tây Phương ngự tọa, nhất đàn tăng chúng tổng quy y.

là Tổ đình của môn phái Chúc Thánh.

Tổ Minh Hải viên tịch ngày 07 tháng 11 năm Bính Dần, thọ 72 tuổi.  Xá lợi của Ngài được tôn trí nơi bảo tháp trong khuôn viên chùa.

Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh lấy ngày 7 tháng 11 hằng năm làm ngày kỵ Tổ.

Ngày  nay  thiền  phái Chúc Thánh do Tổ Minh Hải  khai sáng đã  phát  triển  khắp  mọi nơi. Ở Hải Ngoại, chùa Pháp Hoa tại tiểu bang South Autralia nước Úc Ðại Lợi do Hoà Thượng Thích Như Huệ khai sơn, chùa Viên Giác tại Hannover, Ðức Quốc do Thượng Tọa Thích Như Ðiển khai sơn, chùa Pháp Bảo tại tiểu bang New South Wales nước Úc Đại Lợi do Hòa Thượng Thích Bảo Lạc khai sơn… đều là những tòng lâm, đạo tràng hưng thạnh thuộc môn phái Chúc Thánh, đã và đang mang lại biết bao lợi ích cho nền văn hoá bản địa, cho xã hội và con người.

Tháp Tổ Minh Hải

Tổ Đình Chúc Thánh tại Hội An trước khi được trùng tu ( 2005 )

(Ghi chú: Bài viết được tổng hợp từ các nguồn tài liệu tu học và huấn luyện của Gia Đình Phật Tủ, các tài liệu về lịch sử Phật giáo như Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Thích Mật Thể,  Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, các sử liệu về Thiền tông của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Trúc Lâm Thiền Phái Tại Huế của Thích Tín Nghĩa, Hai Ngàn Năm Việt Nam & Phật Giáo của Lý Khôi Việt, The Shaolin Monastery, The Shaolin Kung Fu of China, Herbert Fechter… Phần dịch các bài kệ được trích từ Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang).


Âm lịch

Ảnh đẹp