-Sanchi
-Ajanta và Ellora
-Nalanda
Lời kết
Lời mở đầu:
Kính bạch chư Tôn Đức,
Con xin đê đầu đãnh lễ cảm niệm công đức
chỉ dạy của chư Tôn Đức và nguyện cố gắng tu học hơn nữa để báo đáp hồng
ân Chư Phật Tổ và công lao dạy dỗ của chư Tôn Đức.
Kính nguyện Chư Phật gia hộ chư Tôn Đức
pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ để dìu dắt chúng con trên bước đường
tu học.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát
Ma Ha Tát.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát tác đại chứng
minh.
Tỳ Khưu Ni TN Minh Tâm cẩn bút
-ooOoo-
Kính gởi quí Phật tử,
Nhận được sự góp ý, phê bình, khuyến khích
và ủng hộ của các Phật tử xa gần, tôi vô cùng cám ơn và cố gắng hết sức
sửa chữa những khuyết điểm; mong các tác phẩm sau này sẽ càng ngày càng
hoàn hảo hơn.
Với ý nghĩ mở rộng thêm tầm kiến thức Phật
Giáo cho các Phật tử mới bước chân vào đạo, cần hiểu sâu thêm về lịch sử
Phật Giáo, tôi cố gắng dịch quyển "Buddhist Shrines In India" do nhà xuất
bản Patiala House tại New Delhi ấn hành năm 1951, và đã được tái bản lần I
vào năm 1956, lần II vào năm 1968, và lần III vào năm 1994.
Dù quyển sách này đã xuất bản lâu năm,
nhưng với văn phong dễ hiểu, gọn gàng, xúc tích, sẽ không làm người đọc
mệt mỏi, nhàm chán khi đọc một tác phẩm thuộc dạng nghiên cứu, tài liệu.
Kính mong các bậc cao minh, thiện hữu trí
thức giúp đỡ và phê bình.
Kính chúc quí Phật tử tăng tiến tu học,
phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề.
Kính nguyện đem công đức này hồi hướng cho
tất cả pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.
Tỳ Khưu Ni TN Minh Tâm đệ bút.
Lời giới
thiệu:
Thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên là thế kỷ
hoàng kim của các tôn giáo Á Đông. Những biến cố mang tính cách lịch
sử vĩ đại đã lần lượt xảy ra tại các nước Đông Phương: Khổng Tử và Lão Tử
tại Trung Hoa, Zoroaster tại Iran (Ba Tư), Mahavira và Đức Phật Thích Ca
tại Ấn Độ.
Trong vùng lốc xoáy tôn giáo đó, đaọ Phật
do Đức Thích Ca sáng lập, đã đứng vững và tiếp tục lớn mạnh như một ngọn
đuốc sáng để đáp ứng nhu cầu tâm linh của loài người. Đaọ Phật đã
đem đến cho con người một đời sống tâm linh hoàn hảo. Lẽ dĩ nhiên,
đaọ Phật cũng không thoát ra ngoài qui luật chung của vũ trụ "thành, trụ,
hoại, không," và cũng đã trãi qua không biết bao nhiêu biến cố thăng trầm
của lịch sử các dân tộc và tôn giáo; nhưng đạo Phật vẫn tồn tại và còn tồn
tại mãi trong dòng sinh mệnh của các đất nước đạo Phật đã đi qua và để lại
dấu ấn.
Nói đến đạo Phật, thiết tưởng chúng ta
phải nhắc đến vị giáo chủ đã sáng lập ra tôn giáo đó.
Vào thế kỷ thứ 6, năm 566 trước Công
Nguyên, tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatsu) của một tiểu vương quốc tại Ấn
Độ, Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) đã giáng sanh trong sự chờ đón trọng
thể huy hoàng của hoàng gia và dân chúng. Thái tử là con của đức vua
Tịnh Phạn (Sudhodana) và hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi). Thái tử ra đời
tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), gần sát biên giới Nepal và Ấn Độ.
Một đạo sĩ đã tiên đoán rằng "Thái tử,
hoặc sẽ trở thành một đaị vương cai trị tứ châu thiên hạ, hoặc sẽ xuất gia
tu hành đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác." Vua cha nghe vậy,
vội tìm đủ mọi cách ngăn chận. Nhưng những phương cách đó đều vô
hiệu, ngay cả người vợ tài sắc của Thái tử là công nương Da Du Đà La
(Yasodhara) và đưá con mới chào đời La Hầu La (Rahula) cũng không thể dẹp
tan được ý nghĩ thoát ly mọi ràng buộc thế tục của Thái tử. Thái tử
đã nhìn thấy được cảnh sanh, lão, bệnh, tử của con người, đã hiểu rõ sự vô
thường thay đổi của vạn hữu hàm linh và Thái tử muốn đi tìm phương pháp
giải thoát khổ đau cho chính mình và nhân loại. Không lâu sau đó,
Thái tử đã thoát ly hoàng cung, rời xa mái ấm gia đình, dấn thân vào cát
bụi.
Sau 11 năm tầm sư học đaọ, khổ hạnh đủ
mùi, tham bái cầu đạo với nhiều danh sư, Bồ Tát Tất Đạt Đa vẫn không thấy
thoả mãn. Ngài nhận thấy phương cách tu tập, lý thuyết của các đạo
sư vẫn tiêu cực bế tắc. Ngài liền bỏ lối tu tập đó và một mình một
bóng đến ngồi tham thiền bên bờ sông Ni Liên Thiền (Uruvila). Qua 49
ngày đêm nhập định, Bồ Tát Tất Đạt Đa hoát nhiên đại ngộ, chứng thành quả
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tôn hiệu là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sau khi chứng đắc chân lý, Đức Phật đã đến gặp năm anh em Kiều Trần Như
tại vườn Lộc Uyển. Bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật nói về pháp
Tứ Đế được gọi là Chuyển Pháp Luân (Dhamma - Chakrapravartana). Giáo
lý Tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) xuyên suốt Bát Thánh Đạo hay Bát Chánh Đạo
(Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh
Tấn, Chánh Định, Chánh Niệm) đã hướng dẫn bao nhiêu người giải thoát từ
dòng sông đau khổ đến bến bờ cực lạc hạnh phúc.
Suốt 45 năm, Đức Phật và hàng đại
đệ tử
của Ngài đã đi khắp lãnh thổ Ấn Độ, từ bờ sông Hằng đến những làng
quê hẻo
lánh, cốt yếu để truyền bá chánh pháp giải thoát lầm mê cho chúng
sanh. Ánh sáng đạo Phật truyền đến đâu thì bóng tối vô minh tan đến đó.
Hàng triệu triệu người đã tìm thấy hạnh phúc và giải thoát. Đức Phật
nhập diệt tại thành Câu Thi Na (Kusinagara) năm 486 trước Công
Nguyên. Năm ấy, Ngài được 80 tuổi.
Đạo Phật đã phát triển rực rỡ tại Ấn Độ,
nhất là tại thành Câu Xá La (Kosala) và Ma Kiệt Đà (Magadha) còn được gọi
là trung tâm Phật Giáo. Nhưng sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 200
năm, đạo Phật cũng theo những biến cố lịch sử mà có nhiều thăng trầm
thay đổi. Trong những biến cố lịch sử đó, trận chiến thảm khốc với
quân Kalinga của vua A Dục (Asoka) là bước ngoặt nổi tiếng trong lịch sử
Phật Giáo Ấn Độ.
Vua A Dục đã rùng mình tỉnh giấc
mộng đế
vương khi nhìn xác người ngựa đẫm máu nằm chết la liệt ở chiến
trường. Hình ảnh đẫm máu đó đã khích động mãnh liệt lòng vị vua bạo tàn
đó, khiến
ông ta hối hận đã gây ra cảnh tương tàn hủy diệt sanh linh. Từ đó,
A
Dục Vương đã chuyển hoá tâm hồn, tìm hiểu đạo Phật và qua giáo lý,
A Dục
Vương đã thuần hoá từ từ trở thành một vị vua nhân đức nhất của
lịch sử Ấn
Độ.
Những thánh tích Phật Giáo còn sót lại
trên lãnh thổ Ấn Độ đều có dấu ấn trùng tu lại của vua A Dục; nhờ thế mà
ngày nay chúng ta có thể học và hiểu rõ thêm về những di tích lịch sử Phật
Giáo qua những bia ký và thánh địa.
Những
Thánh Địa
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã để lại dấu
chân Ngài trên toàn lãnh thổ Ấn và hình bóng Ngài đã khắc sâu trong tâm tư
nhân loại. Trong thời kỳ chánh pháp hưng thịnh, các địa danh quan
trọng đều được nhắc tới. Bốn thánh địa nổi tiếng của Phật Giáo nói
riêng và của Ấn Độ nói chung là: Vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) nơi Đức Phật
giáng sanh, Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya) nơi Đức Phật thành đạo, Lộc Uyển
(Sarnath) nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên, và Câu Thi Na
(Kusinagara) nơi Đức Phật nhập diệt.
Bốn địa danh quan trọng khác cũng
được đề
cập đến trong lịch sử Phật Giáo là bốn nơi Đức Phật đã thi triển
thần
thông để giáo hoá điều phục chúng sanh. Những địa danh đó là:
Sravasti (thủ phủ của Kosala) nơi Đức Phật đã thi triển thần thông điều
phục Ca Diếp (Puruna Kasyapa), người lãnh đạo phái Tirthika (đạo
thờ thần
lửa). Nơi thứ hai là Sankasya, Đức Phật đã lên tầng trời
thứ 33 để giáo hoá cho hoàng hậu Ma Gia (mẫu thân của Ngài).
Nơi thứ ba là Rajagriha (thủ phủ của Ma Kiệt Đà), nơi đây Đức Phật
đã điều
phục con voi say do Đề Bà Đạt Đa sai khiến ra giết Đức Phật. Nơi
thứ
tư là Vệ Sá Ly (Vaisali), nơi đây Đức Phật đã thọ dụng bát mật ong
do đàn
khỉ dâng cúng.
Những địa danh nổi tiếng này và những biến
cố trong cuộc đời Đức Phật đã là đề tài cho hàng ngàn tác phẩm nghệ thuật
Phật Giáo từ xưa cho đến nay.
Những địa danh này đã lôi cuốn không biết
bao nhiêu khách thập phương đến chiêm bái, và nhiều ngôi đền, tháp, bia ký
cũng được xây dựng chung quanh những thánh địa này. Tuy nhiên, trong
thời kỳ đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ, một vài thánh địa đã bị hoang phế tàn
rụi theo cát bụi và thời gian.
Ngày nay, các nhà khảo cổ Ấn Độ đang trên
đường khai quật lại di tích và trùng tu lại các thánh địa.
Thánh địa thứ nhất:
Lâm Tỳ
Ni (Lumbini)
Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Đức Phật giáng
sanh, là một thánh địa ở vùng Rummindei, cách một dặm về phía Bắc vùng
Paderia và hai dặm phía Bắc vùng Bhagwanpur nước Nepal. Ngày nay các
nhà khảo cổ xác định Lâm Tỳ Ni nằm về phía Bắc quận Basti của xứ Uttar
Pradesh.
Theo tài liệu sử Phật Giáo, Lâm Tỳ Ni tọa
lạc cách thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) 12 dặm. Sử chép rằng, "Theo
tục lệ, Hoàng Hậu Ma Gia phải trở về quê mẹ để sanh nở. Khi đến động
hoa Lâm Tỳ Ni, bà cảm thấy trong người sảng khoái lạ thường. Cảnh
vật xinh đẹp tươi mát chào đón, chim muông hót ríu rít trên cây, gió hiu
hiu thổi làm tâm hồn người dịu êm nhẹ nhàng, Hoàng Hậu thong thả dạo bước
ngắm nhìn thưởng thức cảnh trí thiên nhiên.
Khi đến tàng cây Sa La, Hoàng Hậu dơ tay
vịn cành hoa sà thấp trước mặt và kỳ lạ thay, Thái tử giáng trần trong tư
thế đứng của người mẹ. Chư Thiên tung hoa chào đón, bẩy con rồng
phun nước thơm tắm rửa Thái tử và Thái tử đi 7 bước dõng dạc tuyên
bố rằng: "Ta là đấng Vô Thượng Đạo Sư của Trời Người." (Thiên thượng
thiên hạ, duy Ngã độc tôn). Từ vườn Lâm Tỳ Ni, Thái tử được các cung
nô hầu hạ trở về thành Ca Tỳ La Vệ.
Quang cảnh giáng sanh của Thái tử Tất Đạt
Đa là đề tài cho hàng ngàn tác phẩm nghệ thuật Ấn mà ngày nay người ta đã
tìm thấy trong điêu khắc và tranh vẽ.
Nhận dạng được địa danh của Lâm Tỳ
Ni,
thiết tưởng chúng ta phải nhớ đến công ơn của vua A Dục. Hai mươi
năm sau ngày đăng quang lên ngôi hoàng đế, Vua A Dục đã đích thân
đi chiêm
bái đãnh lễ các thánh địa và chính Vua đã sai người đúc một cột
trụ khắc
lên dòng chữ "Địa danh này là nơi Đức Phật giáng sanh." Vua A Dục
cũng đã giảm 5% thuế hằng năm cho dân chúng vùng này. Đó là một
đặc
ân của vua A Dục đối với dân cư địa phương nơi Đức Phật giáng
sanh. Bên cạnh cột trụ này, người ta còn thấy một ngôi đền xưa cũ khắc
chạm hình
ảnh quang cảnh giáng sanh của Đức Phật.
Lâm Tỳ Ni đã trở thành một thánh địa quan
trọng hàng đầu đối với người Phật tử. Ngàn năm trước, những du tăng
Trung Quốc đều lần lượt viếng thăm Lâm Tỳ Ni. Chung quanh cột trụ do
vua A Dục sai đúc, các vị du tăng cũng đã tự đắp lấy những bia đá lớn nhỏ
đánh dấu những cuộc viếng thăm cúng dường. Về sau, chính phủ Nepal
ra lệnh khai quật vùng này để tìm thêm tài liệu chứng cứ.
Thánh địa thứ hai:
Bồ
Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya)
Thánh địa nổi tiếng thứ hai trong lịch sử
Phật Giáo là Bồ Đề Đạo tràng, nơi Đức Phật thành đạo. Nơi đây Đức
Phật đã tọa thiền suốt 49 ngày đêm dưới tàng cây pipala, bên cạnh dòng
sông Ni Liên Thiền. Vì hiện tượng bất diệt đó, địa danh này đã trở
thành Bồ Đề Đạo Tràng, và cây cổ thụ pipala được đặt tên là cây Bồ Đề (có
nghĩa là "giác ngộ, bodhi tree").
Có thể nói, Bồ Đề Đạo Tràng đã trở thành
một cái nôi của lịch sử văn hoá Phật Giáo và các đệ tử Phật đều ao ước
được ít nhất một lần đến chiêm bái nơi này. Tòa cỏ Đức Phật ngồi
thiền, cây Bồ Đề đều được chăm sóc kỹ lưỡng. Những bia tháp và những
cột đá lớn nhỏ chung quanh Bồ Đề Đạo Tràng, do các du tăng Ấn Độ, Trung
Quốc và các nước khác tự đắp lấy cúng dường khi đến chiêm bái thánh địa
này, và tài liệu ghi chép của ngài Tam Tạng Huyền Trang, đã cho chúng ta
hình dung ra được quang cảnh sầm uất rực rỡ của địa danh này trong quá khứ
hơn 2500 năm trước. Cây Bồ Đề bây giờ là cây cháu cây chắt của hàng
ngàn cây Bồ Đề gốc, nhưng cành lá vẫn xum xuê, thân cây to lớn rắn chắc.
Chính ngài Alexander Cunningham và một số
các nhà bác học khác là những người đầu tiên khai quật những bia ký và cột
trụ tại Bồ Đề Đạo Tràng này. Đại tháp Bồ Đề đã được trùng tu lại
nhiều lần với một kinh phí rất to lớn. Vua A Dục cũng đã xây dựng
một ngôi đền tại thánh địa này. Ngôi đền do vua A Dục xây đã được
miêu tả nhiều trong nghệ thuật Ấn; tuy nhiên di tích của ngôi đền này đã
không còn tìm thấy dấu vết nữa.
Ngôi đại tháp Bồ Đề chúng ta thấy hiện nay
là ngôi tháp mới được trùng tu lại sau này. Theo sự miêu tả của ngài
Tam Tạng Huyền Trang thì đại tháp Bồ Đề đã được xây dựng từ thế kỷ thứ 7
sau Công Nguyên theo mô hình của một đại bảo tháp tại Miến Điện (Burma).
Hiện nay, ngôi đại bảo tháp tại Bồ
Đề Đạo
Tràng cao gần 160 bộ và xây theo hình tứ giác. Trên đỉnh là một
ngọn tháp
nhọn. Trong tháp, người ta khắc chạm hình tượng Đức Phật thành
đạo. Phiá Bắc của ngôi tháp là một con đường hẹp cách mặt đất 4 bộ.
Người
ta miêu tả đó là con đường nhỏ mà Đức Phật, sau khi thành đạo, đã
đi thiền
hành qua lại trên con đường này. Ngoài ra, lại còn có nhiều hình
hoa
sen được chạm trỗ trên con đường đó vì người ta tin rằng mỗi bước
chân Đức
Phật đi đều có hoa sen nở tung ra đến đó. Người ta còn thấy một
mảng
đá cát đỏ cạnh cây Bồ Đề, tượng trưng cho đệm cỏ mà hơn 2540 năm
trước,
Đức Phật đã ngồi và chứng đạo. Còn rất nhiều những kiến trúc chạm
trỗ khác khắc ghi lại hình ảnh của Đức Phật và các đại đệ tử, các
Phạm
Thiên. Những kiến trúc thẩm mỹ đó đã hấp dẫn hàng triệu người đến
chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng mỗi năm càng ngày càng đông, tạo nên một
luồng
sóng du lịch khổng lồ về quê Đức Phật giúp cho nền tài chánh quốc
phòng Ấn
thêm một phần lợi tức đáng kể.
Thánh Địa thứ ba:
Sarnath
Một thánh địa đáng ghi nhớ nữa trong lịch
sử Phật Giáo là thánh địa Isipitana hay Sarnath. Nơi đây, trong sự
tĩnh lặng của vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã khai giảng bài pháp đầu tiên cho
5 anh em ông Kiều Trần Như trước kia cùng tu khổ hạnh với Ngài. Nội
dung bài thuyết pháp nói về những khổ đau của kiếp người và những phương
cách giải hóa những thống khổ đó. Sự kiện này đã được mệnh danh là
"Chuyển Pháp Luân," có nghĩa là Đức Phật chuyển bánh xe pháp đầu tiên đánh
dấu một kỷ nguyên huy hòang rực rỡ của một tôn giáo kéo dài bền vững trên
2500 năm cho đến nay.
Sarnath là nơi xuất phát tôn giáo
do Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập. Vì thế, Sarnath đã trở thành trung
tâm Phật giáo lớn nhất tồn tại trên 1500 năm. Trong những thế kỷ
đầu
tiên của thời kỳ Phật giáo hưng thịnh, dưới triều đại vua A Dục,
Sarnath
đã trở thành một nơi tranh luận nổi tiếng giữa các tông phái và
đạo giáo. Hai ngài Pháp Hiền và Trần Huyền Trang đã đến chiêm bái thánh
tích này vào
thế kỷ thứ 5 và thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Hai ngài đã để lại
cho
chúng ta nhiều tài liệu giá trị về lịch sử thánh địa này. Nơi đây,
vua A Dục cũng đã sai người xây dựng một cột trụ đánh dấu khu vực
ẩn cư
trong nhiều tòa nhà lớn nhỏ khác nhau của hơn 1500 vị tăng sĩ Phật
giáo
đến Sarnath. Trong những di tích còn sót lại đó, người ta phải
nhắc
đến một ngôi đền tuyệt mỹ có tượng Phật bằng đồng trong hình tướng
chuyển
Pháp luân, một ngôi cổ tháp và một cột trụ bằng đá. Tất cả đều do
vua A Dục xây dựng. Thánh địa này đã phát triển rực rỡ trong nhiều
triều đại và cũng đã được trùng tu lại nhiều lần. Theo bia ký và
những chứng cứ khảo cổ, người ta biết rằng ngôi đền có tượng Đức
Phật
Chuyển Pháp Luân đã được trùng tu lại theo lệnh của hòang hậu
Kumaradevi
vào phân nửa đầu thế kỷ thứ 12 trước Công nguyên. Chẳng bao lâu
sau,
địa danh này bị quân đội của Muhammad Ghori, của đạo quân Huns và
Mahmud
Ghazni phá hủy hòan tòan, nhưng Sarnath lại được trùng tu do công
sức của
các tín đồ Tăng Ni Phật giáo khắp nơi. Tuy nhiên về sau, vì đạo
Phật
đã suy tàn tại Ấn Độ, Sarnath, một địa danh lịch sử nổi tiếng và
huy hòang
một thời đã bị tiêu hủy mất dấu trong đổ nát hoang tàn của cát bụi
thời
gian.
Ngày nay, viện khảo cổ Ấn đã tổn
phí sức
lực và tài chánh thật nhiều trong công cuộc khai quật và trùng tu
lại
thánh địa Sarnath. Khi chúng ta đến Sarnath từ hướng Varanasi,
chúng
ta sẽ thấy một mặt phẳng bát giác bằng gạch nung nhô lên khỏi mặt
đất. Mặt phẳng này là di tích còn sót lại của một ngôi tháp trước kia
đánh dấu
nơi Đức Phật đến gặp 5 anh em ông Kiều Trần Như. Ngôi tháp bát
giác
này được trùng tu lần sau cùng bởi tiểu vương Akbar năm 1588,
thuộc triều
đại Gupta.
Trong số những di tích tàn rụi còn
sót lại
không bị các đạo quân tàn phá là ngôi tháp Dhamekh cao hơn mặt đất
150 bộ. Ngôi tháp này được xây cất bằng nguyên liệu bền cứng, những
khối đá khổng
lồ bằng gạch và mang hình dáng cột trụ. Những hình tượng khắc trên
mặt tháp cho chúng ta biết ngôi tháp Dhamekh được xây vào triều
đại Gupta
thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Danh từ "Dhamekh" phát xuất từ
nguyên từ Phạn ngữ "Dharmekh - chánh pháp". Cách ngôi tháp này
không
xa về hướng Tây là một ngôi tháp nhỏ do vua A Dục xây cất. Tháp
vua
A Dục xây, theo lời miêu tả của ngài Trần Huyền Trang, có thể là
nơi Đức
Phật tọa thiền thuyết pháp cho 5 anh em Kiều Trần Như. Xa hơn một
tí
về phía Bắc, là một côt trụ hình đầu sư tử được khắc chạm rất công
phu. Cột trụ sư tử này hiện nay được trưng bày tại viện bảo tàng khảo
cổ gần
đó. Tại ngôi tháp này, chúng ta còn thấy sót lại những mảnh đá lớn
của nền nhà chánh điện và những cột lớn nhỏ của một cổng chính dẫn
lối vào
chánh điện ngôi tháp. Ngòai ra, chúng ta còn thấy rất nhiều mãnh
vỡ
của các tượng Phật và Bồ tát mang dấu ấn điêu khắc của nhiều triều
đại
khác nhau. Một bức tượng Phật đẹp nhất tạc bằng đá cát khắc hình
Đức
Phật Chuyển Pháp Luân là bức tượng tuyệt mỹ mang dấu nghệ thuật
điêu khắc
triều đại Gupta.
Tất cả những bức tượng điêu khắc vào thời
đại này đều khắc theo tám biến cố lịch sử của cuộc đời Đức Phật như Đức
Phật giáng sanh, thành đạo, chuyển Pháp luân, nhập Niết bàn, thi triển
thần thông, v.v. Đáng kể nữa là một bức tàn lọng bằng đá khắc trọn
vẹn bài pháp Tứ Đế bằng tiếng cổ Pàli.
Dù đã bị tàn phá nhiều theo thời gian,
Sarnath vẫn còn hấp dẫn du khách tìm về Ấn Độ để tưởng nhớ lại hình ảnh
Đức Từ Phụ và giáo âm của Ngài vẫn vang vọng bất diệt trong lòng người con
Phật.
Thánh địa thứ tư:
Kusinagara
Kusinagara
hay Kusinara (Câu Thi na) là nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thâu thần
tịch diệt năm Ngài 80 tuổi dưới hai tàng cây Sa La. Địa danh này sau
được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Utta Pradesh.
Giống như các thánh địa khác liên quan đến
những biến cố lịch sử đời Đức Phật, Kusinagara đã trở thành một thánh địa
quan trọng để các Phật tử đến chiêm bái đãnh lễ.
Vào thời điểm đó, hàng ngàn tự viện và bảo
tháp đã được xây dựng lên chung quanh thánh địa này. Tuy nhiên,
không rõ vì lý do gì, có thể bị đạo quân Hồi giáo phá hủy hay do thời gian
phai tàn xóa dấu mà thánh địa này đã bị hoang phế tàn rụi. Hai ngài
Pháp Hiền và Huyền Trang, khi đến chiêm bái thánh địa này, cũng phải thốt
lên lời ta thán bi thiết khi nhìn cảnh vật hoang liêu đổ nát của
Kusinagara.
Qua những cuộc khai quật để tìm lại dấu
vết, người ta đào được một số những mảnh vỡ vụn của các tượng Phật, những
cột trụ loang lỗ. Tuy nhiên, căn cứ trên những dấu hiệu của các di
tích còn sót lại đó và những bia ký thì chắc chắn nơi đây là thánh địa
nhập Niết bàn của Đức Phật. Ngôi tháp Đại Bát Niết Bàn mà vua A Dục
xây cất cũng không có thể tìm thấy được nữa và có thể ngôi tháp này đã bị
chôn vùi dưới nền tinh xá Niết bàn xây dựng ở triều đại Gupta.
Trong số những di tích đó, người ta tìm
được một bức tượng Đức Phật trong tư thế nhập Niết bàn. Bức tượng
này cũng bị vỡ vụn và đã được nhà điêu khắc Carlleyle khéo léo hàn gắn
chạm trỗ lại. Ngôi đại bảo tháp Ramabhar được dựng ngay tại địa điểm
làm lễ trà tỳ kim thân Đức Phật và xá lợi Ngài được phân chia ra làm tám
phần đồng nhau cho tám vương quốc lớn mạnh nhất thời đó.
Hiện nay các nhà khảo cổ vẫn còn tiếp tục
công cuộc khai quật thánh địa Kusinagara, mong sẽ tìm thêm tài liệu chứng
cứ hơn nữa để làm sáng tỏ thêm một địa danh linh thiêng đã được đón nhận
kim thân Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Thánh địa thứ năm:
Sravasti
Sravasti, thủ phủ của vương quốc Kosala
ngày xưa, được các Phật tử tôn sùng vì nơi đây hơn 2540 năm trước, Đức
Phật đã thi triển thần thông giáo hóa các đạo sư thờ thần lửa.
Theo các sử liệu ghi chép lại, Đức Phật đã
thi triển các phép lạ như trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, trên thân
ra lửa, dưới thân ra nước, hay mặt trời mặt trăng chiếu sáng cùng một lúc
trên bầu trời, và nhiều hóa thân của Đức Phật. Những phép lạ đó đã
là đề tài cho nhiều tác phẩm nghệ thuật Ấn từ các thời đại cổ xưa cho đến
nay.
Ngay trong thời Đức Phật, Sravasti
đã là
một trung tâm Phật giáo sầm uất phồn thịnh. Chính nơi đây, trưởng
giả Cấp Cô Độc đã rãi vàng mua hết đất vườn hoa của Thái Tử Kỳ Đà
để xây
dựng tinh xá cúng dường Đức Phật và chư tăng. Câu chuyện rãi vàng
mua đất của ông Cấp Cô Độc đã khích động mãnh liệt đến các tầng
lớp quí
tộc vua chúa, khanh hầu, trưởng giả và đó cũng là đầu đề về lòng
sùng bái
tuyệt đối của ông Cấp Cô Độc cũng như các tác phẩm nghệ thuật Ấn
sau này. Càng về sau, nhiều tinh xá, bảo tháp xây cất rải rác chung
quanh địa danh
này khiến Sravasti thêm nổi tiếng và phồn vinh.
Các nhà khảo cổ tin rằng Sravasti thuộc
địa phương Saheth - Maheth nằm sát biên giới quận Gonda và Bahraich của xứ
Utta - Pradesh. Nơi đây họ đã tìm thấy vài bia ký liên quan đến tinh
xá Kỳ Viên ở Sravasti.
Địa danh Saheth - Maheth gồm có hai vùng
riêng biệt. Vùng lớn nhất, Maheth, rộng 400 mẫu, ngày xưa là một
tỉnh lỵ trù phú. Saheth thì chỉ rộng có 32 mẫu, nằm độ 0.25 dặm phía
Tây Nam của Kỳ Viên tinh xá. Những cuộc khai quật tại vùng Maheth đã
cho chúng ta biết được rằng xưa kia Maheth là một thành phố rất giàu có
đông đúc. Saheth, tuy nhỏ hơn, nhưng lại nổi tiếng hơn vì nơi đây
Đức Phật đã dừng chân để giáo hóa và còn sót lại nhiều nền nhà của tinh
xá, tự viện, bảo tháp; cho nên đa số các tăng sĩ, du khách đều ghé tới
Saheth để chiêm bái tham quan.
Những di tích trưng bày đó mang dấu hiệu
thời đại Mauryan cho đến những năm đạo Phật bắt đầu suy tàn tại Ấn Độ thế
kỷ thứ 12 sau Công nguyên. Tại đây, người ta thấy một ngôi tháp cổ
nhất được xây cất từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, chứa đựng xá lợi Phật
và một tượng đầu Đức Phật tạc ở thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên thuộc
triều đại Bala. Tượng đầu Đức Phật này giờ được trưng bày tại bảo
tàng Ấn Độ ở Calcutta. Hòang hậu Kumaradevi, vợ vua Govinda-Chandra
là người cuối cùng bảo trợ tài chánh kinh phí xây dựng trùng tu lại Kỳ
Viên tinh xá năm 1128-29.
Đạo Phật bây giờ đã suy tàn nhiều tại Ấn
Độ và địa danh Sravasti, một thời nổi tiếng huy hòang trong lịch sử Phật
giáo Ấn, đã bị gót giầy đạo quân Hồi giáo tàn phá thiêu hủy thành bình
địa.
Thánh địa thứ sáu:
Sankasya
Một địa danh thiêng liêng khác có liên
quan đến cuộc đời Đức Phật là Sankasya, nơi Đức Phật thi triển thần thông
lên cung trời Đao Lợi thứ 33 thuyết pháp giáo hóa thân mẫu của Ngài là
Hòang hậu Ma Gia và chư Thiên. Đức Phật đã giảng A Tỳ Đạt Ma Luận
trên cung trời Phạm Thiên. Sự kiện này đã xảy ra sau khi Đức Phật
thi thố phép lạ ở Sravasti.
Sankasya, còn được gọi là Sankisa hay
Sanisa Basantapur, thuộc quận Farrukhabad của Utta Pradesh. Địa
phương này được biết xác thực là nhờ vào bia ký của vua A Dục khắc trên
tượng một con voi đánh dấu thánh địa này.
Không riêng chỉ có hai ngài Pháp
Hiền và
Huyền Trang đến chiêm bái thánh địa Sankasya, mà có nhiều tăng sĩ
Trung
Hoa khác cũng đến viếng thăm thánh địa này -- nhưng những tài liệu
do họ
để lại cũng không còn đầy đủ chứng cứ để xác minh rõ hơn về địa
danh này. Ngôi làng hiện giờ ở thánh địa này nằm trên một ngọn đồi, cao
độ 41 bộ và
rộng cỡ 1,500 mét vuông. Cách đó về hướng Nam độ 0.25 dặm là một
ngôi tháp do hòang hậu Devi ra lệnh xây cất. Rải rác chung quanh
ngọn đồi này là những đống gạch đá vỡ vụn và những di tích sót lại
của
cổng thành, đòn ngang, xà nhà, v.v. Những tàn tích này không đủ dữ
kiện để
chúng ta xác định lịch sử của thánh địa Sankasya.
Tượng con voi do vua A Dục sai đúc là di
tích quan trọng nhất đánh dấu địa danh Sankasya và những cuộc khai quật
trong tương lai hy vọng sẽ đem lại cho chúng ta nhiều điều lý thú hơn về
Sankasya.
Thánh địa thứ bảy:
Rajagriha
Rajagriha, thủ phủ của vương quốc Ma Kiệt
Đà hùng mạnh, có thể nói rất nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo vì nhiều
nguyên do. Không những Rajagriha là nơi Đức Phật đã dừng chân lại
nhiều lần trong cuộc đời hành đạo của Ngài, mà nơi đây cũng chính là nơi
Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), em họ của Đức Phật, đã âm mưu nhiều lần để giết
Ngài. Hơn nữa, tại thủ phủ này, ở động Sattapanni trên ngọn đồi
Vaibhara, Đại Hội Kiết tập lần thứ I đã được tổ chức tại đây dưới sự chủ
tọa của ngài Ưu Bà Li (Upali) và ngài A Nan (Ananda). Những điểm
chính yếu của giáo lý và giới luật của Phật giáo đều nêu lên trong kỳ Đại
Hội Kiết Tập này. Vì thế, Rajagriha đã trở thành một địa danh nổi
tiếng và quan trọng trong sự thành lập và phát triển Tăng đòan Phật giáo.
Là một thành phố nổi tiếng ngày xưa,
Rajagriha bây giờ là một phố thị trong quận Patna của xứ Bihar, bao bọc
chung quanh là những ngọn đồi núi chập chùng. Rajagriha còn được gọi
là Vaibhara, Vipula, Ratna, Chatha, Udayagiri và Sonagiri. Dưới chân
ngọn đồi về phía Bắc của phố thị Rajagriha ngày xưa là vương quốc của vua
A Xà Thế (Ajatasatru), con vua Bình Sa vương (Bimbisara). Sau đời
vua A Xà Thế, thái tử Udayin kế vị ngai vàng và dời kinh đô Kusumapura đi
nơi khác và đời vị vua kế tiếp là Kalasola lại dời kinh đô về Pataliputra,
do đó Rajagriha dần dần đã mất đi vai trò quan trọng của nó trong vương
quốc. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều biến đổi thăng trầm trong chính
trường và tôn giáo, Rajagriha vẫn luôn được nhắc đến trong lịch sử Phật
giáo Ấn Độ và lịch sử các đạo giáo khác.
Những di tích của thành phố cổ xưa
Rajagriha còn sót lại rất ít. Qua những di tích và bia ký vỡ vụn,
các nhà khảo cổ tin rằng thánh địa này đã từng là địa điểm sinh họat của
nhiều tôn giáo khác nhau. Ngay cả động Sattapanni, nơi kiết tập Đại
Hội Phật giáo lần thứ I, cũng mờ dấu vết. Theo kinh điển và sử liệu,
động Sattapanni, nằm về phía Bắc sườn đồi Baibhara và nhà bác học Stein có
lý khi ông cho rằng vị trí động đá này tọa lạc phía Bắc trên một mảnh đất
rất rộng có nhiều hang động nhỏ. Một kiến trúc đặc biệt đáng kể,
Jarasandha Ki Baithak, trên sườn đồi Vaibhara phía Đông, có những hầm nhà
lớn nhỏ không đồng đều nhau, được mô tả là nơi ẩn cư của Đức Ma Ha Ca Diếp
(Mahakasyapa), vị chủ tọa kỳ Đại Hội Kiết Tập lần thứ I. Về sau, các
hang động này đều là chỗ ở của các đạo sĩ Kỳ Na giáo (Jainism) một thời.
Ngọn núi Gridhrakutta một thời là nơi ẩn
cư tu hành của Đức Phật, nằm gần sát bên thành phố Rajagriha và theo một
số dữ kiện lịch sử cũng như các dân địa phương cư ngụ tại vùng này, thì
động Sonbhandar phía Đông đồi Vaibhara có mỏ vàng chưa khai phá tại đây.
Rajagriha, bây giờ là một thắng cảnh hấp
dẫn các du khách trong và ngòai nước đến viếng, không những là địa điểm
nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo mà còn là một địa danh có nhiều ngọn
suối nóng chữa bệnh và an dưỡng.
Thánh địa thứ tám:
Vaisali (Vệ
Xá Ly)
Trong thời Phật giáo hưng thịnh, Vaisali,
thành phố của vương quốc Lichchhavi hùng cường, là cái nôi của nền văn hóa
triết thuyết Phật học.
Đức Phật đã từng dừng chân du
thuyết của
Ngài 3 lần nơi thành phố này. Nơi đây Đức Phật đã thọ nhận bát mật
ong do đàn khỉ dâng cúng và nơi đây cũng là địa phận Đức Phật
tuyên bố 3
tháng nữa Ngài sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn. Hơn nữa, Vaisali cũng là
nơi
kiết tập Đại Hội Phật Giáo lần II hơn 100 năm sau ngày Thế Tôn
nhập diệt. Đối với tín đồ Kỳ Na giáo, Vaisali cũng là một thánh địa vì
Đức Mahavira,
vị đạo sư đời thứ 14 của Kỳ Na giáo ra đời.
Vaisali là một thành phố thuộc quận
Muzaffarpur của Bihar. Vào triều đại Gupta, Vaisali là một thủ phủ
phồn vinh náo nhiệt. Khách thương, tàu bè, hải cảng buôn bán tấp
nập. Các cửa tiệm, nhà băng, công sở, mở cửa suốt ngày đêm. Các kho
chứa thóc gạo, lụa là, v.v. của hòang cung đều đầy ngập. Vaisali,
thời đó, đã gíup cho triều đại Gupta một thế đứng vững vàng trên vũ đài
chính trị cho đến triều đại Mauryan, Vaisali vẫn còn là một thủ đô quan
trọng.
Hai ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đã đến
chiêm bái thánh địa này. Theo lời của ngài Huyền Trang, Vaisali chỉ
rộng cỡ 10, 12 dặm vuông. Chung quanh Vaisali có vô số những tháp,
bia đá không biết cơ man nào mà kể. Nhưng thời gian đã tàn nhẫn xóa
sạch những di tích ấy và chỉ còn sót lại ở khu Kolhua, cách 2 dặm về phía
Tây Bắc thành phố Raja Bisal Ka Garh, một trụ đá tạc tượng sư tử cao hơn
mặt đất 22 bộ.
Trụ đá sư tử này có vẻ giống các trụ đá
vua A Dục sai xây đắp nhưng không có một bút tích hay bia ký nào cho chúng
ta xác định rõ trụ đá này thuộc thời đại vua A Dục cả. Gần trụ đá
này, về phía Nam, có một hồ nước nhỏ, mà tương truyền rằng đó là vũng nước
mà hàng 2000 năm xưa, đàn khỉ đã đào để lấy nước dâng Đức Phật uống mỗi
ngày. Vì thế, hồ nước này có tên gọi là Rama-Kund hay là
Markata-Hraka, có nghĩa là "hồ nước của lòai khỉ." Về phía Tây Bắc,
một nền đất của một ngôi đền còn sót lại. Ngôi đền này ngày xưa được
vua A Dục sai xây cất bằng gạch nung và một ngôi tháp có dấu hiệu vua A
Dục xây còn sót lại trên mảnh đất hoang sơ một thời trù phú và quan trọng
này.
Thời gian đã làm phai mờ và rụi tàn bao
nhiêu đền đài, bảo tháp, nhưng những thánh địa Phật Giáo vẫn luôn luôn là
quê hương tìm về của những người con Phật.
Những Địa Danh Quan Trọng
Trong thời kỳ Phật giáo phát triển
và hưng thịnh, ngoài những thánh địa linh thiêng liên quan đến cuộc đời
Đức Phật, những địa danh quan trọng trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ như
Sanchi, Nalanda cũng góp phần không nhỏ cho sự huy hòang của Chánh Pháp.
Những tự viện, tinh xá ở Gandhara, Taxila,
Purushapura, West Pakistan, East Pakistan đều là những trung tâm văn hóa
Phật giáo. Ngòai những nét thẩm mỹ và kiến trúc độc đáo ra, các
trung tâm văn hóa Phât giáo này còn là nơi xuất phát những anh kiệt của
Phật giáo tạo nên những cuộc tranh luận triết lý văn học rất sôi nổi phấn
khởi hào hùng; tiêu biểu là trung tâm Phật giáo Sanchi, Nalanda, Ajanta và
Ellora.
Những địa danh này, cũng theo qui luật vô
thường của vạn vật mà biến thiên dời đổi. Những di tích còn sót lại
đó không đủ đem lại ánh sáng rọi vào quá khứ vàng son của những địa danh
này. Tuy nhiên, dù đã mờ nhạt đi trong lịch sử, những địa danh quan
trọng này vẫn còn đủ sức hấp dẫn những học giả, tăng ni, tín đồ Phật giáo
nối gót nhau lần dò về những miền xa xôi hẻo lánh để tìm lại một chút dư
âm thời cực thịnh của Phật Giáo Ấn Độ.
Sanchi
Sanchi
là một trong những địa danh nổi tiếng quan trọng của lịch sử Phật giáo Ấn
Độ. Địa danh này không có chút liên quan đến cuộc đời Đức Phật,
nhưng Sanchi là một trung tâm văn hóa Phật giáo rất nổi tiếng và phồn
thịnh thời Phật giáo cực thịnh. Theo sử liệu và văn chương truyền
thuyết Phật gíao, Sanchi là nơi hội tụ các tinh hoa nghệ thuật của Ấn Độ,
và có thể nói, Sanchi là tác phẩm kiến trúc, điêu khắc tuyệt mỹ nhất của
nước Ấn.
Theo sử liệuTích Lan, vua A Dục đã cưới
con gái một thương buôn giầu có và hạ sanh được một thái tử đặt tên là
Mahinda. Thái tử Mahinda là một người mộ đạo Phật và rất được Vua
Cha và Hòang Mẫu thương yêu. Khi vua A Dục già yếu, ngài muốn đưa
hai người con trai và con gái của ngài qua Tích Lan truyền đạo, và tháp
Sanchi đã được xây cất trên ngọn đồi vùng lân cận Vidisa, khi thái tử
Mahinda dừng chân lại nghỉ ngơi trên đường qua Tích Lan hoằng hóa đạo
Phật.
Dù tài liệu có đúng hay không thì những
bia ký, tháp tự ở Sanchi đều mang dấu ấn thời vua A Dục và người ta cũng
tin rằng chỉ có vua A Dục, vị đại thí chủ hòang gia đó mới đủ tài sức để
phát triển Sanchi thành một trung tâm văn hóa Phật giáo phồn vinh và nổi
tiếng.
Hầu hết các tháp tự ở Sanchi đều tọa lạc
trên một ngọn đồi cao bao bọc bởi một tường đá rắn chắc vào thế kỷ thứ 10
sau Công nguyên. Những ngôi tháp, bia ký này đều có dấu ấn từ thế kỷ
thứ 3 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên, tính từ đại
tháp Sanchi cao 50 bộ và đường kính của vòm tháp Sanchi là 100 bộ là tháp
lớn nhất đến ngôi tháp nhỏ nhất cao không quá 01 bộ, thì những tháp tự lớn
nhỏ này tạo cho ngọn đồi một thế đứng hùng mạnh sừng sững.
Ngôi đại tháp ở Sanchi được xây
cất bởi
gạch đá thời vua A Dục, gồm có những cột trụ cao bằng đá rắn chắc
chạy dài
bao quanh ngôi tháp, và cổng chính của tháp được xây cất và chạm
trỗ một
cách điêu luyện đầy thẫm mỹ độc đáo như hình bên cạnh. Hai cột trụ
đứng chạm kinh văn nguyên bản tiếng Phạn xưa. Đầu cột tạc 2 con
voi
đỡ 3 xà ngang, có chỗ trạm chỗ hình voi, sư tử, kinh văn, v.v.
tượng trưng
những sinh hoạt văn học triết lý của các thời kỳ chánh pháp, tượng
pháp
Phật giáo Ấn Độ. Bốn mặt đại tháp có 4 cổng gồm 1 cổng lớn và 3
cổng
nhỏ. Ba cổng nhỏ kia cũng xây cất và chạm trỗ giống như cổng lớn
với
các hình tượng voi, sư tử, nam nữ, ngựa, v.v. miêu tả theo những
thần
thọai về cuộc đời và giáo pháp của Thế Tôn. Những thuyết thần
thọai
hóa cuộc đời Đức Phật miêu tả trong kinh Bổn Sanh Bổn Sự được các
nghệ
nhân Ấn đúc kết chạm trỗ điêu khắc trên các cổng thành và tường
tháp. Đáng chú ý nữa là hình tượng vua A Dục được chạm khắc trên một
cổng thành,
miêu tả lại quang cảnh vua A Dục viếng thăm chiêm bái cây bồ đề ở
Bồ Đề
Đạo Tràng. Hình ảnh vua A Dục ở Sanchi là hình ảnh duy nhất được
chạm trỗ do các nghệ nhân và thần dân của Vua khắc lại để tưởng
nhớ đến
công ơn của một vị đại thí chủ của Phật giáo đã hết lòng ủng hộ
công cuộc
hoằng dương chánh pháp.
Những tác phẩm nghệ thuật này đều phản ảnh
lòng nhiệt thành mộ đạo của thần dân địa phương vùng Sanchi. Họ đã
tổn phí rất nhiều và phải mất nhiều năm mới hòan thành các tác phẩm kiến
trúc tuyệt mỹ này. Từng đường khắc, từng nét chạm, từng nét vẽ đều
mang trong nó tâm hồn yêu nghệ thuật, lòng sùng kính, dâng hiến và biết ơn
của người nghệ sĩ. Các nghệ nhân này làm công việc đó không phải vì
lợi danh, địa vị, cho nên tâm tư họ thỏai mái, an lạc hướng trọn tâm hồn
cho nghệ thuật. Vì thế, các tác phẩm đều tóat lên một sức sống mãnh liệt
khiến người xem cảm thấy rung động sâu xa như đang sống trong ánh sáng Đạo
Vàng Giải Thóat.
Trong số những tháp tự này, có 3 ngôi tháp
được người ta chú ý nhiều nhất.
Tháp thứ nhất là ngôi tháp thứ 3,
nằm về
hướng Đông Bắc của ngôi Đại Tháp, mặc dù là tháp nhỏ nhất nhưng là
ngôi
tháp kiểu mẫu. Trong căn phòng tôn thờ xá lợi, Tướng Cunningham đã
khám phá ra những xá lợi của ngài Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền
Liên, hai vị
đại đệ tử của Phật. Hai vị này rất nổi tiếng. Ngài Xá Lợi Phất
là "Trí Tuệ Đệ Nhất." Ngài Mục Kiền Liên là "Thần Thông Đệ Nhất."
Các xá lợi của hai vị đại đệ tử Phật được các nhóm khảo cổ mang về Anh
Quốc, trưng bày ở bảo tàng thành phố Luân Đôn, và sau đó mang trả
về lại
tôn thờ ở Sanchi trong ngôi tháp số 3 này. Ngày xưa, ngôi tháp số 3
này thường hay bị đào xới khai quật.
Ngôi tháp thứ 2, nằm trên sườn đồi phía
Tây. Ngôi tháp này không có xá lợi, không có cổng chính, nhưng còn
lưu giữ lại một số những đồ dùng của các nghệ nhân ngày xưa để quên lại,
và những đồ dùng vật liệu này giúp cho người ta biết được cách đây hơn
2500 năm, các nghệ nhân đã đúc tượng chạm vẽ thế nào. Các nét điêu
khắc ở ngôi tháp này có vẻ tân tiến hơn lối kiến trúc của Đại Tháp.
Ngôi tháp nhỏ cuối cùng gần chân đồi phía
Tây là nơi tôn thờ xá lợi của ngài Ca Diếp. Ngòai sự đặc biệt này,
ngôi tháp còn đặc biệt với những cột trụ, đầu cột, bức tường chạm khắc các
hình ảnh vô cùng tuyệt xảo độc đáo.
Nhiều tháp nhỏ rải rác chung quanh Đại
Tháp được tìm thấy. Trong đó, người ta đào được nhiều mảnh vụn vỡ
của các tượng, bia ký, v.v. Ở Sonari cách Sanchi vài dặm, nhiều di tích
được tìm thấy. Ở Satdhara, cách đó ba dặm, người ta lại tìm thấy xá
lợi của ngài Xá Lợi Phất trong 2 ngôi tháp nhỏ, giống như xá lợi tìm thấy
ở tháp vùng Sanchi. Còn rất nhiều tháp ở vùng Bhojpur, vùng Andher
mà các dấu ấn đều mờ nhạt không thể giúp chúng ta xác định được các tháp
xây cất vào triều đại Asoka hay sau thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
Trong số các tháp tự đó, đáng kể nhất là
cột trụ đá vua A Dục với tượng 4 sư tử đâu lưng vào nhau, gần cổng chính
Đại Tháp Sanchi phía Nam. Trên đầu cột trụ, có khắc hàng chữ tuyên
bố lệnh "Cấm phân rẽ, phá họai Tăng Đòan, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc"
của vua A Dục. Ngòai ra, ngôi đền số 17, số 18 xây cất vào khỏang từ
thế kỷ thứ 7 đến thời kỳ thứ 12 sau Công nguyên, với những tượng Phật, cột
trụ đá, những bức tường chạm trỗ cũng góp phần vào công trình tuyệt mỹ ở
Sanchi.
Những tháp tự ở Sanchi đã được giữ gìn,
phục hồi lại rất cẩn thận và khéo léo bởi các nghệ nhân điêu khắc và các
nhà khảo cổ bác học. Người có công nhất trong cuộc trùng tu khai
quật này là ngài John Marshall, vị cựu tổng giám đốc Viện Khảo Cổ Quốc Gia
Ấn Độ. Ông đã tu bổ, sửa chữa, phục hồi lại các di tích và những du
khách khi đến Sanchi đều có thể tưởng tượng như đang trở về thời quá khứ
vàng son của Chánh Pháp với những ngôi tháp hùng vĩ sừng sững một góc
trời.
Ajanta và
Ellora
Hai địa danh nổi tiếng đáng kể nữa là
Ajanta và Ellora tọa lạc ở vùng Maharashtra. Trong một thung lũng
nhỏ hẹp là hang động đẹp tuyệt vời Ajanta với những di tích của những ngôi
đền và tự viện.
Từ những tảng đá thiên nhiên, những nghệ
nhân đã đẽo gọt, khắc chạm thành những tượng Phật, Bồ Tát hay những tác
phẩm nghệ thuật vô cùng tinh xảo. Những bức tường, cột trụ đá, trần
động đều được chạm trỗ thật tinh vi xuất sắc mang dấu ấn nghệ thuật Phật
giáo kéo dài suốt 800 năm và không có một di tích nào ở Ấn Độ có thể so
sánh được với những tuyệt tác này.
Những hang động ở Ellora thì được khai
quật và tìm thấy trên một cao nguyên tòan đá rất rộng lớn. Không
giống như Ajanta, Ellora tượng trưng cho sự tổng hợp nghệ thuật của 3 nền
tôn giáo lớn ở Ấn Độ. Đó là: Phật giáo, Bà La Môn giáo, và Kỳ Na
giáo. Ngôi đền Kailasa nổi tiếng của đạo Bà La Môn là tiêu biểu xuất
sắc nhất của nền nghệ thuật thế giới với những trần nhà, hành lang thiết
kế mỹ thuật, những bức tường thần sống động qua những nét chạm trỗ điêu
khắc, những tranh ảnh họa theo những truyền thuyết, tất cả những di tích
đó đều được đẽo gọt từ những lòng đá mà ra, khiến cho ngôi đền trong hang
động Ellora thêm lừng danh nổi tiếng.
Những hang động ở Ajanta mang dấu
ấn những
thế kỷ cuối cùng của kỷ nguyên trước Thiên Chúa, và theo thứ tự
niên đại,
Ajanta đã góp phần vào sự phát triển nghệ thuật, mỹ thuật, điêu
khắc, xây
cất những kỳ tích. Hang động số 9 và số 10 là những hang động lâu
đời nhất nằm sâu tận trong lòng những dãy động đá ở Ajanta. Từ
những
dãy động đá này suốt đến hang động thứ 19 và 26, người ta thấy vô
số những
hình ảnh, tượng khắc Đức Phật theo nhiều cách thiết họa khácnhau.
Các tượng, tranh ảnh vẽ Đức Phật trong tư thế ngồi kiết già thiền định
hay
trong dáng đứng Chuyển Pháp Luân. Những nghệ nhân thời xưa đã dâng
trọn trái tim nghệ thuật và sự tôn kính sùng bái lên Thế Tôn qua
nét vẽ và
chạm khắc của họ.
Hang động thứ 16, 17, và 02 là những hang
động quan trọng nhất. Hang động thứ 16 và 17 được xây cất từ năm 500
sau Công nguyên và hang động thứ 1 và thứ 2 được xây cất một thế kỷ sau
đó. Những hang động này rất đẹp nhờ những cột trụ đá chạm trỗ và sự
thóang mát của các dãy hành lang rộng lớn. Nhưng sự huy hòang tráng
lệ của Ajanta đúng ra là do số lượng khổng lồ của tranh vẽ. Những
họa sĩ nổi tiếng đã vẽ những sự tích đời Đức Phật theo kinh Bổn Sanh Bổn
Sự và thêm vào đó là những tranh ảnh vẽ chân dung Đức Phật, các vị Bồ Tát
và các Phạm Thiên.
Trong số những hang động trần
thiết ở
Ellora, 12 hang động dọc theo hướng Nam được trần thiết theo những
truyền
thuyết Phật giáo, ngòai ra là những hang động theo kiểu Bà La Môn
giáo và
Kỳ Na giáo. Những di tích ở Ajanta và Ellora thường có dấu chân
của
các nhà bác học, khảo cổ và nghệ nhân đến chiêm ngưỡng và học hỏi
hơn là
các du khách, vì hang động này nằm ở vị trí sâu và cao hơn trên
rừng núi. Tuy nhiên, Ajanta và Ellora vẫn được liệt kê vào danh sách các
danh lam
thắng cảnh nổi tiếng ở Ấn Độ.
Nalanda
Tu viện
Nalanda chiếm một vị trí vô cùng
quan trọng trong lịch sử Phật giáo cận đại. Theo truyền thống,
Đức Phật đã viếng thăm tu viện Nalanda vài lần và lịch sử ngôi tu
viện này
có thể mang dấu ấn triều đại vua A Dục. Tuy nhiên, những cuộc khai
quật cũng chưa đủ chứng minh về thời gian xây dựng tu viện này và
những
chứng cứ như bia ký, dấu ấn, vài di tích còn sót lại trùng hợp với
một số
điển tích thì tu viện Nalanda phồn vinh và nổi tiếng từ thế kỷ thứ
5 cho
đến cuối thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên. Cũng chính nơi đây, nhà du
tăng nổi tiếng Trung Hoa, Trần Huyền Trang, đã đến ở lại vài lần.
Ngài đã ghi lại nhiều dữ kiện và sơ đồ của nhiều kiến trúc khác nhau của
tu viện Nalanda, một tu viện cũng là học viện có sức chứa đựng hơn
10,000
tăng sĩ tu tập hàng năm tại đây để tu hành, nghiên cứu kinh điển
và tranh
luận. Ngài Tam Tạng Huyền Trang cũng ghi nhận sự cúng dường
ủng hộ của vua Harsha và nhiều vị vua các triều đại kế tiếp. Ngài
Nghĩa Tịnh (I Tsing), một nhà sư Trung Hoa, cũng đến tham quan tu
viện
Nalanda và ghi nhận lại các tăng sĩ trụ xứ tại Nalanda đã được sự
yểm trợ
ủng hộ của hơn 200 ngôi làng chung quanh và dưới sự tài trợ của
nhiều vị
vua.
Nalanda được đi vào lịch sử Phật giáo thế
giới vì nơi đây các đạo sư Silabhadra, Santarakshita và Atisa Dipankara đã
một thời tu học và góp phần làm rạng danh tu học viện Nalanda.
Sự hoang tàn đổ nát của Nalanda đã khiến
du khách đến xem phải bàng hòang tiếc nuối cho một tu viện Phật giáo lừng
danh một thời, nay chỉ còn lại vài di tích của những điện thờ, tháp và
tăng phòng. Quang cảnh những di tích còn sót lại đó cũng cho chúng
ta biết là trước kia, những tháp và điện thờ chiếm chiều dài từ Bắc đến
Nam, những tăng xá cho chư Tăng trú ngụ thì trãi dài từ sườn đồi phía Đông
đến phía Tây của cả mấy dãy đồi to lớn. Dù bây giờ Nalanda đã tàn
rụi, nhưng vẫn cho chúng ta hình dung được quang cảnh sầm uất, phồn thịnh
đông đúc của sự sinh họat hàng chục ngàn tăng sĩ cách đây mấy thế kỷ.
Ngôi tháp số 3 là một kiến trúc đồ sộ tọa
lạc ở giữa sườn đồi phía Tây Nam và được bao bọc chung quanh vô số những
tháp nhỏ. Ngôi tháp đầu tiên chỉ là một ngôi tháp nhỏ, nhưng dần dần
được xây cất lớn rộng ra. Ngôi tháp hiện giờ đã được xây rộng ra cả
đến 7 lần, mỗi lần xây to rộng ra và chạm trỗ điêu khắc thẫm mỹ hơn, khác
lạ hơn. Chân tháp vẫn là hình vuông theo kiến trúc của ngôi tháp đầu
tiên, nhưng đến khi xây cất lại lần thứ 5 thì các nghệ nhân đã khắc chạm
tô vẽ thêm 4 mặt tháp với những miếng gạch lớn khắc kinh văn Phật giáo ở
trên với bút tự ở thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên.
Về phía Bắc ngôi đại tháp này là những dãy
tu viện đã được trùng tu xây sửa lại nhiều lần. Ở đây du khách vẫn
còn thấy dấu vết của rất nhiều điện thờ, tháp nhỏ, v.v. Tại một bảo tàng
viện gần đó, rất nhiều di tích, mãnh vỡ các tượng Phật, Bồ tát được trưng
bày. Những di tích này được tìm thấy trong những cuộc khai quật tu viện
Nalanda.
Những tài liệu về bia ký tìm thấy ở
Nalanda cũng không phải là ít. Người ta tìm thấy những bia ký bằng
đồng, bằng đá, bằng gạch và những con dấu, những bút tự bằng đất
nung. Những bia ký bằng gạch khắc với những bài kinh hay giáo lý Thập
Nhị Nhân
Duyên và những bài thần chú đà la ni, những bia ký này đều được
tàng trữ
gìn giữ cẩn thận và trưng bày tại Bảo Tàng Khảo Cổ Ấn Độ.
Nalanda vẫn còn nổi tiếng nhờ sự
yểm trợ
ủng hộ của nhiều vị vua chúa, hòang tộc như các vua
Narasimhagupta,
Kumaragupta đệ nhị, Vainyagupta và Vishnugupta của triều đại hòang
gia
Gupta, Sarvavarman và Avantivarman của triều đại Maukhari,
Bhaskaravarman
của Kamarupa, Harshvardhana của Kanauj và rất nhiều thế hệ các vua
chúa
khác đã liên tục cúng dường tài trợ tu viện Nalanda trong suốt mấy
thế kỷ. Người ta còn tìm thấy một bia ký bằng đá khắc tên hòang tộc của
vua
Yasovarman của Kanauj, và một bia ký bằng đồng có tên các Vua dòng
Pala
như vua Dharmapala, vua Devapala, vua Balaputradeva của triều đại
Sailendra. Trong đời các vị vua dòng Pala, vua Mahipala đệ nhất là
người cuối cùng tài trợ công cuộc tu bổ lại tu viện Nalanda cùng
sự góp
sức của tu sĩ Vipulasrimitra.
Giáo lý Nguyên Thủy và Đại Thừa Phật giáo
được các cao tăng truyền dạy tại Nalanda, nhưng về sau ảnh hưởng của Mật
Tông Phật giáo đã lan rộng ra trong giới tu sĩ, và có pha trộn những kỳ bí
của Mật Tông Bà La Môn giáo khiến cho nền giáo lý học thuật Phật giáo có
phần đổi thay bất lợi, không đúng. Sau này, vì sự chia rẽ mâu thuẫn
trong Tăng đoàn, Hồi giáo đã thừa dịp xâm lấn và phá hủy những địa danh
nổi tiếng của Phật giáo, và một tôn giáo chân chính, lừng danh với triết
thuyết của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni đã bị phai tàn theo thời gian, mờ
dấu vết ngay chính tại quê hương Đức Phật.
Lời kết:
Phật giáo là một tôn giáo lớn ở Á Châu. Qua nhiều thăng trầm biến đổi trong lịch sử, Phật giáo cũng bị nhiều tôn
giáo khác lợi dụng pha trộn tà thuyết sai lầm vào chánh đạo.
Tuy nhiên, những tirết lý về Tứ Đế, Thập
Nhị Nhân Duyên, Bát Nhã, Niết Bàn tịch tĩnh vẫn luôn đứng vững và sáng
chói trên vòm trời học thuật tôn giáo, và những thánh địa vẫn mãi mãi là
nơi tìm về nguồn suối Giải Thóat của những người con Phật trên khắp thế
giới.
Dịch xong ngày 25/5/1998
Thích nữ Minh Tâm