Ở Nam Bộ trước nay tồn tại một số địa danh có thành tố “thủ” đứng trước như: Thủ Dầu Một, Thủ Đồn Sứ, Thủ Nhơn, Thủ Chánh (Bình Dương),
Thủ Đức, Thủ Thiêm, Thủ Đào, Thủ Hy, Thủ Huấn, Thủ Khúc, Thủ Tắc, Thủ Tọa, Thủ Thuật (TP. Hồ Chí Minh), Thủ Thừa, Thủ Đoàn (Long An), Thủ Triệu, Thủ Cẩm, Thủ Chánh (Tiền Giang), Thủ Chiến Sai (An Giang), Thủ Tam Giang (Cà Mau)...Nguồn gốc các địa danh này thường gây tranh cãi trong giới nghiên cứu, trong đó có địa danh Thủ Dầu Một.
Theo Huỳnh Tịnh Paulus Của thì:”Thủ ngữ là chức quan giữ cửa biển, đồn thủ tại cửa biển”[1] (1896). J.F.M. Génibrel ghi trong tự điển của mình là:”Quan thủ ngữ: Capitaine de port” (quan canh giữ đồn biển) (1898).[2] Eugène Gouin cũng chua nghĩa tương tự:”Thủ ngữ: Garder le port”(đồn canh phía biển) (1957)[3]. Về sau này, các nhà nghiên cứu cũng hiểu yếu tố “thủ” trong các địa danh theo nghĩa đó, như Sơn Nam :”Thủ là chăm sóc, giữ gìn, còn có nghĩa một đồn binh, đồn tuần tra”[4], Vương Hồng Sển:”Thủ ngữ, tấn thủ: chức quan giữ cửa biển, đồn thủ tại cửa biển” [5]. Theo Nguyễn Đình Đầu:”Thủ để thu thuế và giữ việc trị an” [6], được đặt tại những nơi xung yếu để giữ an ninh trật tự [7]. Chú giải của Lý Việt Dũng trong bản dịch Gia Định thành thông chí:” Thủ sở, thủ ngự sở, gọi trại thành thủ ngự là nơi đóng đồn trên bộ để đề phòng giặc kiêm luôn thu thuế khóa như Thủ Thiêm, Thủ Đức, Thủ Đoàn, Thủ Dầu Một, Thủ Thừa...”.[8] Chỉ thuần túy có chức năng thu thuế:”Thủ ngự là viên chức trông coi một thủ (nhỏ hơn tuần ty) để thu thuế” [9]. Hay có cách hiểu khác đi một chút như Bùi Đức Tịnh:”Danh từ chỉ đồn canh gác dọc theo các đường sông” [10]. Hoặc như Nguyễn Đình Tư bổ sung cách hiểu về “thủ” là trạm gác được lập ở những chỗ giáp giới với những vùng rừng núi, chỗ chính quyền chưa kiểm soát được về mặt hành chính. Thủ được thiết lập dọc theo các con suối, đường độc đạo, bến đò ngang, mục đích là kiểm soát sự đi lại và thu thuế.[11] Thủ ngự có hai nghĩa:”1.Chức quan võ phụ trách đội quân canh giữ biên giới. 2. Chức quan trông coi một thủ, nhỏ hơn tuần ty, giữ việc thu thuế”.[12]
Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi là địa danh chỉ các đơn vị hành chính các cấp: hạt Thủ Dầu Một (1869), tỉnh Thủ Dầu Một (1899), thị xã Thủ Dầu Một (1975).
Trước nay có 3 cách giải thích về nguồn gốc địa danh này. Thuyết thứ nhất cho rằng, địa danh Thủ Dầu Một có nguồn gốc từ tiếng Khmer “Thun Đoón Bôth” có nghĩa là “gò có đỉnh cao nhất”[13]
Vương Hồng Sển đã bác bỏ giả thiết trên khi cho rằng:”Chữ “đoán” không đúng giọng Thổ, phải nói “doeum” có nghĩa là cây. Bôth, theo từ điển, pannetier viết doeum pou là “banian” tức cây lâm vồ, cây bồ đề, nơi Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, và người Miên trọng nể cây lâm vồ lắm. Thul là gò”[14]
Thuyết thứ hai giải thích địa danh Thủ Dầu Một là địa danh thuần Việt, được cách ghép theo phương thức: thủ (đồn, trạm) + tên thực vật + số từ [15].
Trong Gia Định thành thông chí (1820) đã thấy ghi nhận về địa danh Dầu Một [16]. Trong Đại Nam nhất thống chí cũng có chép về địa danh này:”Chợ Phú Cường ở thôn Phú Cường, huyện Bình An, tục danh chợ Dầu Một ở bên lỵ sở huyện, xe cộ ghe thuyền tấp nập đông đảo” [17]. Như vậy, địa danh Dầu Một đã tồn tại trước địa danh Thủ Dầu Một.
L. De Grammont, sĩ quan quân đội Pháp, từng chỉ huy đồn binh Thủ Dầu Một những năm 1861, 1862 đã có những ghi chép về chợ Phú Cường hay chợ Thủ Dầu Một, đoạn bến sông Sài Gòn:”...Những thân cây dầu trần và rất cao tạo thành vòng đai của cảng. Dưới chân chúng, một cây đa đã có hơn trăm tuổi đứng hùng vĩ như hình ảnh kẻ vươn tay che chở bảo vệ vùng đất này”.[18]
Tác giả Sơn Nam cho biết, ở địa điểm chợ Thủ Dầu Một ngày nay, trước kia là một bến xe trâu, thuận lợi để tắm trâu và rửa xe. Nơi đây có quán trà Huế, quán cơm, dần dần thành chợ. Chỗ mé sông (ngang dinh chủ tỉnh)[19] có một cây dầu lớn, trốc gốc sau cơn bão (có lẽ là bão năm Thìn 1904-NTL), ngọn cây gây cản trở giao thông tận giữa lòng sông. Người Pháp phải huy động dân phu để giải tỏa, gốc to “đôi ba người ôm”.[20]
Hiện nay, trong khuôn viên của Tỉnh ủy Bình Dương và Trường Sĩ quan Công binh (phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một) cũng còn một số cây dầu. Hay như đoạn đường Bạch Đằng, chỗ gần Trường Trung học Mỹ thuật Bình Dương vốn trước đây có một số cây dầu bị đốn hạ khi mở rộng con đường này.
Ở ngã ba đường Nguyễn Tri Phương-Bùi Quốc Khánh, thuộc phường Chánh Nghĩa, hiện vẫn còn cây dầu đôi với tên gọi đã trở thành địa danh Dầu Đôi. Theo ông Chín Bé (77 tuổi), cư ngụ tại địa bàn này (khu 9, phường Chánh Nghĩa), cây dầu này do ông Năm Phe trồng cách nay trên 60 năm. Xưa vùng đất này thuộc làng Phú Cường, quận Châu Thành, tỉnh Thủ Dầu Một. Con đường này trước có tên là đường Bà Lụa. Hai bên đường có nhiều cây dầu, năm 1946 chúng bị chặt ngã ngang đường để ngăn bước tiến của quân Pháp. Trước đây, ở gần cầu Thủ Ngữ có trại đóng ghe của ông Út Gần và ông Năm Chọn, chuyên đóng ghe chài, sử dụng dầu rái từ thân cây dầu. Đến năm 1946, hai trại ghe này đã bị Pháp đóng cửa.
Trên đường Nguyễn Tri Phương, chỗ khu Lò Heo cũ hiện vẫn còn cầu Thủ Ngữ, nằm ở ranh giới phường Phú Cường và phường Chánh Nghĩa. Con rạch chảy từ ngã ba sông Sài Gòn vào có tên là rạch Thủ Ngữ, cạnh đấy là cung Thiên Hậu được xây dựng lại năm 1988 trên nền cũ của miếu Thiên Hậu (địa điểm cũ của chùa Bà Bình Dương trước năm 1923). Cây cầu này thời Pháp thuộc là cầu sắt, đã bị ta đánh sập một lần trong thời “tiêu thổ kháng chiến” năm 1946. Năm 1994 cầu được xây bê tông. Theo lời ông Chín Bé, thì địa điểm này là điểm canh phòng đường sông thời Nguyễn (?).[21]
Theo Đại Nam nhất thống chí, trên địa bàn tỉnh Biên Hòa còn có nhiều thủ như: Bình Lợi, Định Quán, Phước Vĩnh, Long An, Phước Khánh.[22] Ở địa bàn tổng Bình An có 4 thủ chính: Thủ Thiêm, Thủ Đức, Thủ Dầu Một, Thủ Băng Bột; trong đó quan trọng nhất là Thủ Dầu Một.[23]
Cách cấu tạo địa danh Dầu Một này cũng tương tự như các địa danh: Tràm Một, Xoài Tư (Tiền Giang), Xoài Đôi (TP. Hồ Chí Minh, Long An), Quéo Ba (Long An)...
Người Hoa gọi địa đanh Thủ Dầu Một là Cổ Long Mộc. Dầu rái gọi là mãnh hỏa du, còn gọi là dầu chai dùng để trét thuyền, nhúm lửa, trét thùng cây.[24]
Sách Phú Cường lịch sử văn hóa và truyền thống cách mạng cho biết, cách nay vài trăm năm, cây dầu mọc hoang phủ kín cả mấy ngọn đồi Phú Cường và Bà Lụa. Những rừng dầu lâu năm được cư dân ở đây khai thác gỗ để đóng đồ dùng sinh hoạt, đóng thuyền, khai thác nhựa để làm chất đốt và chất chai trét thuyền. Xóm Dầu Đặc (tức An Nhất thuyền), chuyên đóng ghe thuyền cho địa phương, nằm ở quãng từ chợ Thủ Dầu Một lên tới thành Quan. Xóm Dầu Vàng (tức thôn Phú Lợi Tây) tương ứng với khu vực ấpBộng Dầu.[25]
Đây là cách giải thích được đa số ý kiến các nhà nghiên cứu chấp nhận nhất.
Và thuyết thứ ba cho rằng địa danh Dầu Một là do Dầu Miệt (vùng có cây dầu) mà ra. Nếu chữ miệt có nghĩa là “vùng”, thì kiểu kết hợp trong địa danh Dầu Một / Miệt là không phù hợp. Ví dụ, phải nói là miệt vườn, miệt giồng, miệt biển, miệt trên, miệt dưới, miệt Thứ, miệt U Minh, miệt Đồng Tháp...
Như vậy, địa danh Thủ Dầu Một có thể hiểu là “cây dầu lớn/cả (duy nhất), mọc vượt lên trên, nằm bên cạnh đồn/thủ”
Tóm lại, địa danh Thủ Dầu Một có kiểu định danh: thủ + tên thực vật + tính chất. Việc nghiên cứu các địa danh có kiểu định danh này sẽ giúp tìm hiểu rõ hơn quy luật cấu thành các địa danh ở Nam Bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đình Tư, Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, 2008.
2. Nguyễn Quang Ân, Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới các đơn vị hành chính 1945-1997, Nxb Văn hóa-Thông tin, 1997.
3. Lê Trung Hoa chủ biên, Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn-Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, 2003.
4. Leâ Trung Hoa chuû bieân, Töø ñieån ñòa danh thaønh phoá Saøi Goøn-Hoà Chí Minh, Nxb Treû, 2003.
[1] Đại Nam quấc âm tự vị, Tome 2, Nhà in Văn Hữu, Gia Định, 1974, tr.415.
[2] Dictionnaire Vietnammien-Francais, Imprimerie de la Mission à Tân Định, Saigon , 1898, p.848.
[3] Dictionnaire Vietnammien Chinois Francais, Imprimerie D’Extrême-Orient, Saigon , 1957, p.1397.
[4] Địa chí tỉnh Sông Bé, Nxb Tổng hợp Sông Bé, 1991, tr.336.
[5] Tự vị tiếng Việt miền Nam, Nxb Văn hóa, 1993, tr.645.
[6] Địa chí Sông Bé, Sđd, tr.148.
[7] Địa chí Sông Bé, Sđd, tr.162.
[8] Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2006, tr.80.
[9] Trần Thanh Tâm, Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, 1996, tr.224.
[10] Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ, Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 1999, tr.34.
[11] Về một số địa danh trong sách “Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ”, Tạp chí Xưa và Nay, số 76B, tháng 6, 2000, tr.31.
[12] Phạm Văn Hảo chủ biên, Sổ tay từ ngữ lịch sử (quan chế), Nxb Khoa học xã hội, 2004, tr.257.
[13] Lê Văn Đức, Việt Nam tự điển, tập 2, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, tr.236.
Trong bài Thủ Dầu Một-Bình Dương, tên đất, tên làng (Văn nghệ Bình Dương, số 5, 1998), Trương Chi ghi là”Tuln Phombôt” với nghĩa là “đỉnh đồi cao nhất”.
Lê Trung Hoa, Nguồn gốc và ý nghĩa một số địa danh ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam . Trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam những vấn đề kinh tế-văn hóa-xã hội, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2004, tr.282.
Sách Bình Dương miền đất anh hùng (Nhiều tác giả, Nxb Trẻ-Hội Văn học nghệ thuật Bình Dương, 2006, tr.17) chép là “Thun Đoán Bôth” với nghĩa là “gò có đỉnh cao nhất”
[14] Vương Hồng Sển, Sđd, tr.645.
[15] Bùi Đức Tịnh, Sđd, tr.66; Lê Trung Hoa, Bđd, tr.282; Bình Dương miền đất anh hùng, Sđd, tr.17.
[16] Trịnh Hoài Đức, Sđd, tr.53.
[17] Đại Nam nhất thống chí-Lục tỉnh Nam Việt, Tập thượng, Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn hóa xb, Sài Gòn, 1973, tr.35.
[18] Huỳnh Ngọc Đáng, Phú Cường lịch sử văn hóa và truyền thống cách mạng, Sông Bé, 1990, tr.20.
[19] Nay là địa điểm của trụ sở Ủy ban Nhân dân và Tỉnh ủy Bình Dương, trên đường Bạch Đằng, nhìn ra sông Sài Gòn, thuộc phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một.
[20] Địa chí tỉnh Sông Bé, Sđd, tr.337.
[21] Thủ ngữ là viên chức trông coi một thủ, nhỏ hơn tuần ty, để thu thuế. Ở thành phố Hồ Chí Minh hiện vẫn còn cột cờ Thủ Ngữ nằm bên ngã ba sông Sài Gòn và rạch Bến Nghé, đối diện với bến Nhà Rồng (xem thêm Cột cờ Thủ Ngữ, Nguyễn Thanh Lợi, tạp chí Xưa & Nay số 58B, tháng 5, 1998, tr.15A). Tỉnh Tiền Giang hiện có 2 cây cầu cùng mang tên Thủ Ngữ. Cây cầu thứ nhất nằm trên đường tỉnh 869 (xã Hậu Thành, huyện Cái Bè), bắc qua kinh Thủ Ngữ. Cây cầu thứ hai nằm trên đường Hòa Tịnh-Xuân Đông (xã Xuân Đông, huyện Chợ Gạo), bắc qua rạch Thủ Ngữ (Địa chí Tiền Giang, tập II, Trần Hoàng Diệu-Nguyễn Quang Ân chủ biên, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang- Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, tr.848)
[22] Địa chí tỉnh Sông Bé, Sđd, tr.148.
[23] Địa chí Sông Bé, Sđd, tr.163.
[24] Trịnh Hoài Đức, Sđd, tr.337, 271. Nhưng trong mục từ “Thủ”, địa danh Thủ Dầu Một được phiên âm thành “Thổ Long Mộc” (Việt Hán từ điển tối tân, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr.821). Và chúng cũng thấy cách phiên âm này phổ biến trên thực tế hơn.
[25] Huỳnh Ngọc Đáng, Sđd, tr.10, 13-14.