TƯỞNG
NHỚ BÁC SĨ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM (1897
- 1969)
NGƯỜI
TRÍ THỨC PHẬT TỬ ƯU TÚ THẾ KỶ XX,
NGƯỜI SÁNG
LẬP GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM
Trong
sự nghiệp chấn hưng Phật giáo nước nhà, tại miền Trung,
vào những năm của thập kỷ 1930, bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình
Thám là người đã cống hiến nhiều công lao xuất sắc, đưa
Phật giáo miền Trung phát triển vững chắc và sâu rộng.
Để
ghi nhớ những công lao của một cư sĩ ưu tú của Phật giáo,
chư vị Tôn Đức Giáo phẩm Thừa Thiên-Huế đã tạc một
bức tượng bán thân cư sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám trong khuôn
viên Tổ đình Từ Đàm, Huế. Có thể nói đây là vị Cư
sĩ duy nhất từ trước đến nay có vinh hạnh lớn được
chư vị Tôn Đức quý mến và dựng tượng tưởng niệm.
Cư
sĩ Tâm Minh không chỉ đã cống hiến nhiều công lao chấn
hưng Phật giáo nước nhà, mà còn là người tiên phong sáng
lập các tổ chức giáo dục Thanh, Thiếu niên Phật giáo, nhờ
vậy Gia đình Phật tử có nhân duyên ra đời và phát triển
như ngày hôm nay.
Bác
sĩ Lê Đình Thám sinh năm Đinh Dậu (1897) tại làng Đông Mỹ
(Phú Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng nam,
xuất thân trong một gia đình khoa bảng, vọng tộc; thân sinh
là cụ ông Lê Đỉnh đã giữ chức Đông các điện Đại
học sĩ (một chức lớn trong Triều) kiêm chức Binh bộ Thượng
thư ( tương đương Bộ Trưởng Quốc phòng ngày nay) dưới
triều Tự Đức; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Hiệu (kế thất);
và người anh ruột là Lê Đình Dương, lớn hơn ba tuổi.
Tuổi thiếu
niên
Lúc
nhỏ, bác sĩ cùng anh trực tiếp học chữ Hán với cụ thân
sinh. Hai người tiếp thu rất nhanh, thông đạt kinh sách, làm
được thi phú, nhưng bác sĩ Thám tỏ ra xuất sắc và nổi
tiếng ở quê nhà.
Thời
kỳ đi học, từ cấp I đến Đại học, bác sĩ luôn đứng
đầu lớp và chiếm giải Khôi nguyên trong tất cả các kỳ
thi. Ông Lê Thanh Cảnh, bạn học của bác sĩ và là hội viên
An Nam Phật học, có đăng bài viết trên tạp chí Quốc Học
- Huế, kể lại câu chuyện: Lê Đình Thám đã giải một bài
toán mà thầy dạy là ông Le Bris, người Pháp, không giải
được, khiến ông này vô cùng thán phục và đã nhấc bổng
trò Thám lên cao mà nói to: “Đây là thầy của tôi”. Cũng
trong bài viết này, ông Lê Thanh Cảnh còn kể lại, bác sĩ
Thám có một thiên năng nhớ bài rất nhanh, chỉ nhẩm qua hai
lần là thuộc không sót một chữ.
Tuy
học hành xuất chúng nhưng cách cư xử của người học trò
Lê Đình Thám với bạn bè cùng lớp rất chân tình, hòa ái,
được thầy yêu, bạn mến.
Đường đời
Bác
sĩ Lê Đình Thám tốt nghiệp Thủ khoa y sĩ Đông Dương tại
Hà Nội năm 1916. Thời bấy giờ đó là ước mơ của bao người
mong được công thành, danh toại để hưởng phú quý vinh hoa,
nhưng đối với người thanh niên ấy hưởng thụ không phải
là mục đích mà lại luôn trăn trở trước cảnh nước mất,
nhà tan. Thực dân Pháp biết bác sĩ Thám xuất thân trong một
gia đình có truyền thống yêu nước cho nên chúng rất chiếu
cố đến bác sĩ, đã thuyên chuyển bác sĩ đi nhiều tỉnh
như những cuộc lưu đày.
Trong
thời gian từ năm 1916 đến năm 1925, bác sĩ Thám thay đổi
chỗ công tác các bệnh viện như Bình Thuận, Sông Cầu, Quy
Nhơn, Tuy Hòa.
- Năm
1926, bác sĩ lại bị đổi về Hội An, Quảng Nam, tại đây
bác sĩ Lê Đình Thám cùng vớinhững người yêu nước khác
đứng ra làm lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Vì lý do này,
người Pháp lại đẩy bác sĩ ra tỉnh Hà Tĩnh.
- Năm
1928, bác Thám mới được chuyển về Huế giữ chức Y sĩ
trưởng Viện bào chế và Vi trùng học Pasteur.
- Năm
1930, bác sĩ đỗ thêm bằng bác sĩ Y khoa ngạch Pháp quốc.
- Năm
1933, làm Giám đốc bệnh viện Bài lao Huế.
- Năm
1945, Chính phủ Trần Trọng Kim mời bác sĩ Thám giữ chức
Giám đốc Y tế Trung phần kiêm Giám đốc Bệnh viện Huế.
-
Mùa Đông năm 1946, bác sĩ về quê ở Quảng Nam tham gia kháng
chiến
chống Pháp.
- Năm
1947, bác sĩ Thám giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến
miền Nam Trung bộ tại Liên khu V.
- Mùa
hè năm 1949, bác sĩ được mời ra Bắc và được đề bạt
giữ chức Chủ tịch Phong trào Vận động Hòa bình Thế giới
của Việt Nam.
Tinh thần phục
vụ xã hội
Bác
sĩ Lê Đình Thám được bạn bè và những người đồng liêu
đánh giá là người làm việc rất tận tụy, quên mình. Đối
với các bệnh nhân, ông đối xử ân cần, bình đẳng, không
phân biệt địa vị xã hội, người giàu, kẻ nghèo…
Là
một bác sĩ, bác Thám không ngừng trau dồi nghề nghiệp, đã
cùng bác sĩ người Pháp, ông Normet, Giám đốc Y tế Trung kỳ,
phát minh ra Sérum (dịch truyền) Normet cùng một số dược
liệu khác được y giới Pháp-Việt thời đó rất trọng vọng.
Năm
1933, trong thời gian giữ chức Giám đốc Bệnh viện Bài lao
Huế, bác sĩ Thám đã làm việc hết sức tận tình, nổi tiếng
là một danh y chẩn đoán và điều trị giỏi.
Cơ duyên đến
với đạo Phật
Các
tài liệu viết về tiểu sử của bác sĩ Lê Đình Thám đều
có đề cập đến giai thoại về cơ duyên bác sĩ đến với
Đạo Phật. Vào thời gian làm việc tại bệnh viện Hội An
năm 1926, khi đi tham quan thắng cảnh chùa Tam Thai (thường gọi
là chùa Non Nước), Đà Nẵng, bác sĩ đã đọc được bài
kệ của Tổ Huệ Năng khắc trên vách chùa:
Bồ
đề bổn vô thọ,
Minh
cảnh diệc phi đài.
Bổn
lai vô nhất vật,
Hà
xứ nhạ trần ai.
Phụng sự Chánh
pháp
Từ
đó, bài kệ này ăn sâu vào tâm thức, làm cho bác sĩ Lê Đình
Thám suy nghĩ và thôi thúc phải tìm hiểu cặn kẽ hơn. Vì
vậy, vào năm 1928, khi bác sĩ được đổi từ nhiệm sở ở
Hà Tĩnh về Huế giữ chức Y sĩ trưởng Viện Bào chế và
Vi trùng học Pasteur, bác sĩ đã lên chùa Trúc Lâm xin yết
kiến Hòa thượng Giác Tiên, được Hòa thượng khai ngộ về
ý nghĩa và nguyên nhân phát sinh bài kệ trên. Hoát nhiên tâm
đạo bừng sáng, bác sĩ đã thành kính xin quy y với Hòa thượng
Giác Tiên, được Hòa thượng ban cho pháp danh là Tâm Minh.
Từ khởi điểm này, cuộc đời của bác sĩ Thám gắn bó
với Phật giáo và hết mình phụng sự Chánh pháp.
Tiếp
theo từ năm 1929 đến năm 1932, với tinh thần tha thiết cầu
học, bác sĩ Lê Đình Thám còn thọ giáo với Hòa thượng
Phước Huệ, một bậc Cao Tăng đức độ và uyên thâm ở
chùa Thập Tháp, tỉnh Bình Định. Vào thời điểm này, ở
Trung Quốc, ngài Thái Hư Đại sư đang phát động công cuộc
chấn hưng Phật giáo nên đã tác động mạnh đến Phật giáo
Việt Nam, và thôi thúc bác sĩ Thám phải làm sao vực dậy
Phật giáo nước nhà đang bị ngủ quên.
Năm
1932, vâng lời của Chư tôn Thiền đức: Phước Huệ, Giác
Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Hạnh, Tịnh Khiết, bác sĩ Tâm Minh
- Lê Đình Thám đã quy tụ một số đồng lữ, những người
tha thiết với đạo, có địa vị và uy tín trong xã hội như
các cụ: Ưng Bàng, Nguyễn Đình Hòe, Nguyễn Khoa Tân, Viễn
Đệ, Nguyễn Khoa Toàn, Ưng Bình, Bửu Bác… (gồm 18 người),
đã đi đến việc thành lập Hội An Nam Phật Học (ANPH) (thời
Pháp đô hộ, miền Trung từ Thanh Hóa trở vào Bình Thuận
gọi là An Nam) do bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám là Hội trưởng.
Ban đầu Hội đặt trụ sở tại chùa Trúc Lâm, sau đó, khi
chùa Từ Đàm đại trùng tu xong, Hội dời văn phòng về đây.
Mấy năm tiếp theo, Hội ANPH mở rộng hệ thống tổ chức
đến các Chi hội, Khuôn hội rồi hầu hết các tỉnh miền
Trung và Cao nguyên (bây giờ là Tây nguyên)...
Mở các trường
Phật học
Trong
các hoạt động của mình, Hội ANPH rất chú trọng đến việc
đào tạo Tăng tài, do vậy các trường Phật học được thành
lập như sau:
- Năm
1933, mở trường ANPH tại chùa Vạn Phước, sau đó dời về
chùa Báo Quốc do HT. Trí Độ làm Đốc giáo.
- Năm
1935, mở trường Sơn Môn Phật Học, lớp Đại học mở tại
chùa Trúc Lâm do HT. Giác Tiên làm Giám đốc; lớp Trung học
mở tại chùa Tường Vân do HT. Tịnh Khiết làm Giám đốc.
Bác
sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám là người mẫn tiệp, uyên thâm
triết học Đông-Tây, nhất làvề Kinh Luận, do vậy được
Chư vị Cao Tăng mời dạy các trường nói trên. Trong cuốn
Việt Nam Phật giáo sử luận (tập III), trang 89 có ghi: “Lê
Đình Thám có lẽ là người cư sĩ đầu tiên ở thế kỷ
XX đã dự phần vào việc đào tạo Tăng tài. Phật học của
Ông được các bậc Tôn túc công nhận là thâm uyên, cho nên
Ông đã được mời vào giảng dạy trong các Phật học đường
Trúc Lâm và Tường Vân…”. Mặc dù có một kiến thức cao
rộng, nhưng cung cách của bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám rất
khiêm nhã và trân trọng, mỗi lần có giờ giảng, bác sĩ
luôn mặc áo tràng và đảnh lễ Chư Tăng trước khi lên bục
giảng.
Tốt
nghiệp khóa học đầu tiên của Phật học đường Báo Quốc
gồm có các Học Tăng tiêu biểu như Thiện Siêu, Trí Quang,
Thiện Minh, Thiện Hoa, Trí Tịnh, Nhật Liên… Chư vị này
về sau trở thành những vị giáo phẩm lãnh đạo cao cấp,
lèo lái con thuyền Phật giáo Việt Nam vượt qua phong ba bão
táp trong thời kỳ bị chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp năm
1963.
Nhà sáng lập
các tổ chức giáo dục
Thanh Thiếu
niên Phật tử
Vào
ngày 14 tháng 8 năm 1938, trong kỳ Đại hội đồng của Tổng
hội ANPH tại Huế, bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám đã phát
biểu: “Không có thành tựu bền vững nào lại không nhắm
tới hàng ngũ Thanh Thiếu niên. Họ là những người tiếp
nối chúng ta trong ngày mai…”. Một câu nói xuất phát từ
suy nghĩ sâu xa và có tầm nhìn chiến lược mà sau đó đã
hình thành các tổ chức giáo dục Thanh Thiếu niên Phật tử.
Bắt
nguồn từ mối quan tâm trên, vào mùa Thu năm 1940, bác sĩ Tâm
Minh - Lê Đình Thám đã thành lập Đoàn Thanh niên Phật học
Đức dục (ĐTNPHĐD) do đích thân bác sĩ điều khiển. Thành
phần Đoàn ĐTNPHĐD đầu tiên gồm có: Cố vấn: Bác sĩ Tâm
Minh Lê Đình Thám; Đoàn trưởng: anh Phạm Hữu Bình; Đoàn
phó: anh Đinh Văn Nam (nay là HT. Minh Châu); Thư ký: anh Ngô Điền;
và các ủy viên: anh Ngô Thừa, Võ Đình Cường, Đinh Văn Vinh,
Nguyễn Hữu Quán, Nguyễn Khải, Lê Kiểm, Phạm Quỵ, Hoàng
Ngọc Phu, Lê Đình Duyên. Năm sau có các anh mới: Ưng Hội,
Tráng Thông, Lâm Công Định.
Đoàn
TNPHĐD thành lập Phật học Tùng thư
để
xuất bản kinh sách mà phần lớn do ĐTNPHĐD biên soạn.
Ngày
Phật đản 8 tháng 4 năm Giáp Thân - 30.04.1944 (đến năm 1952
mới thống nhất làm lễ Phật đản vào ngày Rằm tháng Tư
theo Nghị quyết của Hội Liên Hữu Phật giáo Thế giới),
Đại hội Thanh Thiếu niên Phật tử tại rừng Quảng Tế,
Huế, đã đi đến thành lập Gia đình Phật Hóa Phổ (GĐPHP).
Các GĐPHP đầu tiên gồm có Gia đình Tâm Minh (do bác sĩ Lê
Đình Thám là Phổ trưởng); Gia đình Thanh Tịnh (do bác sĩ
Tôn Thất Tùng làm Phổ trưởng); Gia đình Tâm Lạc (do bác
Phạm Quang Thiện làm Phổ trưởng) và Gia đình Sum Đoàn (do
bác Nguyễn Hữu Tuân làm Phổ trưởng). Đến năm 1951, đại
hội GĐPHP tại chùa Từ Đàm, Huế đã quyết định đổi
danh xưng thành Gia đình Phật tử, như vậy GĐPHP là tiền
thân tiếp cận của Gia đình Phật tử Việt Nam.
Chủ
trương thành lập báo Viên Âm
Nhằm
truyền bá giáo lý Phật đà và thông tin các hoạt động Phật
sự, bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám đã chủ trương Nguyệt
san Viên Âm (nghĩa là tiếng nói tròn đầy), số đầu tiên
ra mắt độc giả vào ngày 01.03.1933, với chức danh Chủ nhiệm
kiêm chủ bút, các thành viên trong ĐTNPHĐD nói trên đều tham
gia viết bài. Đến tháng 5 năm 1942, bắt đầu từ số 48,
bác sĩ Lê Đình Thám giao hẳn tờ Viên Âm cho ĐTNPHĐD quản
lý và phụ trách biên tập.
Cuộc
đời bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám từ ngày quy y Tam bảo
ở chùa Trúc Lâm, Huế cho đến lúc trái tim nhân ái của Bác
sĩ ngừng đập vào ngày 23.04.1969 (nhằm ngày 07 tháng 03 năm
Kỷ Dậu), mộ táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội, trong
bất cứ hoàn cảnh nào, ở đâu, bác sĩ cũng đã thể hiện
một Phật tử tài năng và chân chính. Sự nghiệp phụng sự
Chánh pháp và công lao sáng lập các tổ chức giáo dục Thanh,
Thiếu niên Phật tử của bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám thật
rực rỡ, trường tồn mãi với Phật giáo nước nhà cũng
như với Gia Đình Phật Tử Việt Nam.
Võ
Đình Cường
(Đặc
san 50 kỷ niệm 50 năm GĐPT Việt Nam)
___________________________________________
CON NGƯỜI
và TƯ TƯỞNG
BÁC
SĨ TÂM MINH LÊ ÐÌNH THÁM
Đệ
tử tại gia xuất sắc nhất của Giác Tiên hẳn là Tâm Minh
Lê Đình Thám. Bác sĩ Lê Đình Thám là một người có tư
chất cực kỳ thông minh và trái tim đầy nhiệt tình. Ông
sinh năm 1897 tại Quảng nam, con của thượng thư bộ binh Lê
Đỉnh triều Tự Đức. Từ hồi nhỏ ông đã được học
Nho và đã làm được văn bài cùng thi phú cổ điển. Lớn
lên ông theo tân học, đậu thủ khoa trong tất cả các kỳ
thi từ cấp tiểu học đến Đại học. Ông tốt nghiệp thủ
khoa Đông Dương Y Sĩ khóa 1916, và Y Khoa Bác Sĩ khóa 1930.
Năm
1926 lúc còn làm y sĩ tại bệnh viện Hội An, trong một dịp
viếng chùa Tam Thai, ông được đọc bài kệ Bồ Đề Bản
Vô Thụ của Huệ Năng viết trên vách chùa. Đây là lần đầu
tiên ông tiếp xúc với văn học Phật giáo. Bài kệ đó gây
một ấn tượng sâu trong tâm não ông, nhưng mãi đến năm
1928, về làm việc tại Viện Pasteur Huế, ông mới gặp người
giải thích cho ông một cách thỏa đáng về bài kệ ấy. Người
đó là Thiền sư Giác Tiên.
Thấy
được diệu lý, ông phát tâm quy y Tam Bảo, thờ Giác Tiên
làm thầy, được pháp danh là Tâm Minh, pháp tự là Châu Hải.
Ông phát nguyện ăn chay trường từ đó. Lúc ấy ông mới
có ba mươi mốt tuổi, và Mật Khế đệ tử đầu của Giác
Tiên mới có hai mươi bốn tuổi. Hai ngưòi bạn đồng sư
này thân cận nhau và nâng đỡ nhau trong việc nghiên tầm kinh
luận.
Tâm
Minh Lê Đình Thám đã có căn bản Hán học lại có óc thông
minh nên đã đi rất mau trên con đường học Phật. Liên tiếp
trong ba năm (1929-1932) ông được học tập dưới sự chỉ
đạo của Giác Tiên và của thiền sư Phước Huệ, một cao
tăng nổi tiếng bác thông minh kinh luận vào bậc nhất thời
ấy. Tuy thì giờ học Phật của ông bị giới hạn bởi nghề
nghiệp y sĩ, ông đã vượt xa các bạn đồng học trong thời
gian ấy. Năm 1930 ông lại còn phải ra Hà Nội thi bằng Y Khoa
Bác sĩ ngạch Pháp nữa, vậy mà ông vẫn có đủ thì giờ
học Phật. Lê Đình Thám có lẽ là người cư sĩ đầu tiên
ở thế kỷ thứ hai mươi đã dự phần vào việc đào tạo
tăng tài. Phật học của ông được các bậc tôn túc công
nhận là thâm uyên, cho nên ông đã được mời vào giảng
dạy trong các Phật học đường Trúc Lâm và Tường Vân. Ông
luôn luôn mặc lễ phục (áo tràng) và đảnh lễ chư tăng
trước khi bước lên pháp tòa để giảng kinh cho họ. Lớp
học ở Tường Vân là một lớp trung đẳng; trong thính chúng
có nhiều bậc tỳ khưu học lực đã khá thâm hậu.
Trong
số những vị cư sĩ tham dự vào việc vận động thành lập
hội An Nam Phật Học, ta thấy có Ưng Bàn, Nguyễn Đình Hòe,
Nguyễn Khoa Tân, Viễn Đệ, Nguyễn Khoa Toàn, Ưng Bình, Bửu
Bác, Trần Đăng Khoa, Lê Thanh Cảnh, Lê Quang Thiết, Trương
Xướng, Tôn Thất Quyên, Nguyễn Xuân Tiêu, Hoàng Xuân Ba, Lê
Bá Ý và Tôn Thất Tùng. Trong bước đầu, Lê Đình Thám đảm
nhiệm chức vụ hội trưởng, nhưng ông không ngồi mãi ở
địa vị đó. Các vị khác như Nguyễn Khoa Tân, Ưng Bàng v.v…
cũng thay thế nhau là hội trưởng cho hội. Lê Đình Thám không
những làm cái trục trung ương của hội mà còn là linh hồn
của tạp chí Viên Âm nữa. Sở dĩ ông làm việc được một
cách bền bỉ là tại vì ông có đủ đức khiêm nhượng.
Ông làm một chất keo dính liền các phần tử khác biệt về
tuổi tác và về nhận thức chính trị.
Tuy
con đường của ông là con đường ôn hòa, bản chất của
ông không phải là bảo thủ. Anh ruột ông đã từng bị thực
dân Pháp đầy lên Ba Mê Thuột và hạnh hạ đến nỗi phải
tự sát ở đó vì đã tham dự vào việc khởi nghĩa của vua
Duy Tân. Trong suốt thời gian 1916-1923 làm việc tại các bệnh
viên Bình Thuận, Quy Nhơn và Tuy Hòa, ông thường bị nhà cầm
quyền theo dõi. Ông đã tham dự vào việc tổ chức truy điệu
chí sĩ Phan Châu Trinh tại Quảng Nam và đã bị thuyên chuyển
đi Hà Tỉnh vào cuối năm 1926. Ông đã giúp hội An Nam Phật
Học đạt được những nền tảng khá vững chãi cho cuộc
phục hưng Phật giáo vào những năm sáu mươi sau này.
Chữ
“Học” trong danh từ An Nam Phật Học, theo ông còn có nghĩa
là “Hành”. Tên chữ Pháp của hội, in trên bìa Viên Âm
SEERBA, nghĩa làSociété d’Annam! Hội đã liên tiếp mời các
thiền sư Giác Tiên (chùa Diệu Đế), Giác Nhiên (chùa Báo
Quốc) vàTịnh Hạnh (chùa Tường Vân) làm chứng minh đạo
sư cho hội đã có sự hậu thuẫn của cá bậc tôn túc ở
các tổ đinh và sự cộng tác của các vị tăng ni xuất sắc
thời đó như Mật Khế, Mật Nguyện, Đôn Hậu, Trí Độ,
Trí Thủ, Mật Thể, Diệu Hương và Diệu Viên.
VIỆT
NAM PHẬT GIÁO SỬ LUẬN (tập 3)
Nguyễn
Lang
Nhà
Xuất Bản Văn Học - Hà Nội 1979
http://www.thuvienhoasen.org/vnphatgiaosuluan3-28.htm
_______________________________________
CƯ SĨ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM (1897 - 1969)
Trọn một đời vì
đạo pháp và dân tộc
Cư
sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám sanh năm Đinh Dậu (1897) tại làng
Đồng Mỹ (Phú Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam, nay là tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ông xuất thân
trong một gia đình quyền quí nhiều đời làm quan. Thân sinh
là Binh Bộ Thượng Thư Lê Đỉnh ở triều Tự Đức.
Cùng
với anh là Y sĩ Lê Đình Dương trực tiếp học chữ Nho với
thân phụ. Cả hai anh em đều tỏ ra thông minh xuất chúng ngay
từ thuở niên thiếu. Riêng ông từ nhỏ, đã tỏ ra là người
có năng khiếu văn chương thi phú.
Trong
những năm theo học tại các trường tiểu học, trung học
và đại học, ông đã chiếm được cảm tình cả thầy và
bạn. Luôn luôn giành thứ vị thủ khoa trong các kỳ thi tốt
nghiệp cuối cấp.
Ông
tốt nghiệp Y sĩ Đông Dương (đậu Thủ Khoa) tại Hà Nội
năm 1916, và sau đó đậu Y khoa Bác sĩ năm 1930, ngạch Pháp
quốc, tại Y khoa Đại học đường Hà Nội.
Khi
ra trường với danh hiệu Y sĩ, đúng lúc phong trào Duy Tân
khởi nghĩa bị thất bại, bào huynh Y sĩ Lê Đình Dương bị
Pháp tù đày tại Buôn Mê Thuột. Ông bị tình nghi và luôn
bị theo dõi. Từ năm 1916 đến năm 1923, ông được bổ nhiệm
và làm việc tại các bệnh viện Hội An, Bình Thuận, Sông
Cầu, Qui Nhơn, Tuy Hòa. Chính trong thời gian này, ông nghiên
cứu thêm về triết lý Đông phương như Khổng, Lão và Phật
giáo... Năm 1926, ông phụ trách điều trị tại bệnh viện
Hội An (Quảng Nam). Nhân một buổi viếng cảnh tại chùa Tam
Thai tại Ngũ Hành Sơn, ông đọc được bài kệ của Tổ Huệ
Năng ghi trên vách chùa :
Bồ
đề bổn vô thọ,
Minh
cảnh diệc phi đài,
Bổn
lai vô nhất vật,
Hà
xứ nhạ trần ai.
Đây
là lần đầu tiên ông tiếp xúc với triết lý Phật giáo,
bài kệ trên đã gieo vào tâm thức ông một ấn tượng sâu
sắc về đạo Phật, mặc dầu thời điểm lúc ấy chưa cho
phép ông đến gần với cửa thiền.
Nhân
cụ Phan Chu Trinh mất, được tin ấy ông và những người
yêu nước khác, đã làm lễ truy điệu tại nơi đang làm việc,
tỉnh Quảng Nam. Mật thám Pháp biết được nên chuyển ông
ra làm việc ở Hà Tĩnh.
Năm
1928, ông lại được thuyên chuyển về Huế, đảm trách Y
sĩ trưởng Viện bào chế và vi trùng học Louis Pasteur, ông
phát minh ra Sérum Normet. Chính năm này, ông mới lên chùa Trúc
Lâm, cách kinh đô Huế khoảng 7 cây số ở sau đàn Nam Giao,
để thỉnh tôn ý về bài kệ trên với Hòa thượng trụ trì
là Ngài Giác Tiên. Sau khi hiểu thấu đáo bài kệ, ông đã
thực sự chuyển hướng đời mình: Phát nguyện quy y Tam bảo,
ăn trường trai từ đó và nghiên cứu học hỏi kinh điển
Phật giáo để hoằng hóa giúp đời. Với chí nguyện như
trên, ông được thọ tam quy ngũ giới với Hòa thượng Giác
Tiên, pháp danh là Tâm Minh, pháp tự là Chiêu Hải.
Năm
1929, ông thọ học thêm với Hòa thượng Phước Huệ chùa
Thập Tháp, Bình Định. Hòa thượng chỉ đạo ông nghiên cứu
các bài giảng của Ngài Thái Hư đại sư ở Trung Hoa về cách
thức tổ chức Phật giáo, và suy nghĩ cải cách thế nào cho
phù hợp với tình hình Phật giáo nước nhà. Ông đã đề
đạt ý kiến của mình lên chư Hòa thượng Phước Huệ, Giác
Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Hạnh, Tịnh Khiết... và đã được
các Ngài chấp thuận.
Năm
1930, ông trở ra Hà Nội thi bằng Y khoa Bác sĩ ngạch Pháp.
Khi trở về, ông vừa học Phật vừa làm ngành y mà vẫn vượt
xa các bạn đồng học trong thời gian ấy.
Năm
1932, Hội An Nam Phật Học ra đời, do các vị Hòa thượng
và ông đứng ra chịu trách nhiệm gánh vác công cuộc hoằng
dương chánh pháp. Trụ sở hội đầu tiên đặt ở chùa Trúc
Lâm, sau đó là chùa Từ Đàm. Ông làm Hội trưởng và các
Hòa thượng trong Ban Chứng minh là cố vấn cho Hội. Hội bắt
đầu truyền đạo với nhiều hình thức:
- Thuyết
pháp mỗi nửa tháng cho tín đồ nghe tại chùa Từ Quang.
-
Mở trường đào tạo tăng tài cho Giáo hội sau này.
-
Mở thêm các chi hội để gánh vác trách nhiệm hoằng dương
chánh pháp khắp các tỉnh.
-
Thành lập Thanh Niên Đức Dục (Phật học).
-
Xuất bản tờ báo Phật Giáo (Nguyệt san Viên Âm).
-
Thiết lập các tòng lâm để chư tăng tu học, và đào tạo
tăng tài.
Từ
năm 1930, bắt đầu xuất hiện những bài viết của ông trên
tờ nguyệt san Viên Âm. Ông tự tay viết cả truyện ngắn
(ký tên T.M), truyện dài (ký tên Châu Hải) và truyện hài
hước (ký tên Ba Rảm).
Bác
sĩ Tâm Minh tại Văn phòng
Ủy
ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới Việt Nam năm 1956 tại Hà Nội
Từ
năm 1934-1945 là những năm hoàn chỉnh các tổ chức của Phật
giáo và hệ thống đào tạo tăng tài, các lớp Phật học
cho thanh niên. Kết quả mà ông đã đóng góp được trong những
năm tháng ấy, vẫn mãi mãi được ghi nhớ: Một thế hệ
tăng sĩ tài ba đã nở rộ, làm nền tảng tuyên truyền phát
huy chánh pháp, đoàn kết Tăng Ni và Phật tử, bảo vệ Phật
giáo trước những khó khăn lúc bấy giờ. Chùa Từ Quang, nơi
làm giảng đường bước đầu để tuyên dương chánh pháp
cũng đã thấy bóng dáng của ông trong chiếc áo dài màu đen
và chiếc khăn đóng tươm tất, thành kính đảnh lễ chư Tăng
trước khi bước lên Pháp tòa để giảng kinh cho họ.
Năm
1946, cuộc chiến tranh chống Pháp bùng nổ, dân chúng Huế
tản cư, ông cùng gia đình di tản về Quảng Nam. Từ năm 1947
đến 1949 ông làm chủ Tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến
miền Nam Trung bộ. Tại Liên khu V của vùng kháng chiến, ông
tập họp một số đoàn viên của đoàn Phật học Đức Dục
có mặt trong vùng và thành lập tổ chức “Phật giáo và
Dân chủ mới” tại Bồng Sơn - Bình Định, nghiên cứu việc
tổng hợp giáo lý Phật giáo và triết học Mác-Lê Nin.
Mùa
hè năm 1949, ông tập kết ra Bắc. Sau đó được đề cử
làm Chủ tịch phong trào vận động Hòa Bình thế giới. Năm
1956, ông và Hòa thượng Trí Độ tham dự phái đoàn sang dự
đại hội Phật giáo Buddha Jayanti tại Ấn Độ.
Năm
1961, toàn bộ kinh Lăng Nghiêm mà ông đã dày công phiên dịch
và chú giải trong nhiều năm, đã được đăng tải trên báo
Viên Âm trước đây được ông hoàn tất và xuất bản tại
chùa Quán Sứ, Hà Nội. Sau đó, sách được gia đình ông tái
bản lưu hành rộng rãi ở miền Nam.
Trong
những năm ở Bắc, ngoài ngày giờ làm việc cho nhà nước,
ông đến chùa Quán Sứ để dịch kinh và giảng kinh, hướng
dẫn việc tu học giúp nhà chùa. Kết quả của những năm
tháng dày công quả vì đạo pháp và dân tộc ấy còn được
thể hiện qua các kinh sách uyên thâm như:
1.
Kinh
Thủ Lăng Nghiêm
2.
Luận Nhơn Minh
3.
Đại Thừa Khởi Tín Luận
4.
Bát Thúc Qui Củ tụng.
5.
Phật Học thường thức.
6.
Bát Nhã Tâm Kinh.
7.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam và Phật Tổ Thích Ca.
8.
Tâm Minh - Lê Đình Thám tuyển tập (gồm 5 tập).
Đời
người là vô thường, ông đã ngộ lý ấy và đã bình thản
ra đi ngày 23-4-1969 (nhằm 7-3 âl, năm Kỷ Dậu), sau khi đã
đàm đạo lần cuối cùng với Hòa thượng Đôn Hậu, tại
bệnh viện Việt - Xô, Hà Nội, thọ 73 tuổi và 42 năm
phụng sự Tam Bảo.
Như
Kim (tổng hợp)
(Gíac
Ngộ)
_____________________________________
TIỂU
SỬ
BÁC SĨ
TÂM
MINH LÊ ĐÌNH THÁM
Điều
Ngự Tử TÍN NGHĨA
1. Thân Thế
và Sự Nghiệp :
Bác
sĩ : Lê Ðình Thám
Pháp
danh : Tâm Minh
T
ự :
Châu Hải
Sanh
năm Đinh Dậu (1897) tại Quảng Nam.
Chánh
quán làng Đông Mỹ (Phù Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam. Là thứ nam của cụ Đông các Đại học
sĩ sung chức bộ Thượng thơ Lê Đỉnh (triều Tự Đức) và
cụ kế mẫu Phan Thị Hiếu.
Lúc
nhỏ theo Nho học, thụ huấn trực tiếp với cụ Thượng thơ
thân sinh ở nhà cùng với bào huynh Lê Đình Dương.
(Lê
Đình Dương là nhà Cách mạng, tham gia Việt Nam Quang Phục
hội cùng với cụ Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thành Tài.
Phụ trách lãnh đạo phong trào Duy Tân khởi nghĩa tại Nam
Ngãi. Bị bắt tại Ban Mê Thuộc năm 1926. Không chịu để
bị tra tấn, không chịu tủi nhục trước công sứ thực dân
Sabatier, nên đã dùng độc dược Cyanure de Mercure để tự
vẫn năm 1919, thọ 26 tuổi . Ông đã tốt nghiệp Á khôi
Đông Dương Y sĩ khóa đầu tiên năm 1915, tại trường Cao
đẳng Y khoa Đông Dương – Hà Nội).
Tuy
tuổi nhỏ, cả hai vị tỏ ra thông đạt kinh sách, văn bài
thi phú. Ứng đối nhanh nhẹn. Nổi tiếng là thần đồng.
Lớn
lên theo Tây học. Thông minh xuất chúng nên luôn luôn dẫn
đầu lớp. Được thầy yêu bạn quý từ cấp Tiểu học
cho đến Đại học. Cụ đỗ Thủ khoa Đông Dương Hà Nội
và Y khoa Bác sĩ ngạch Pháp quốc năm 1930 tại Y khoa Đại
học đường Hà Nội./span>
Ra
trường nhằm phong trào Duy Tân khởi nghĩa thất bại, bào
huynh thì bị bắt đày lên Ban Mê Thuộc. Cụ bị Pháp theo
dõi gắt gao. Trong thời gian phục vụ tại bệnh viện Bình
Thuận, Song Cầu, Qui Nhơn, Tuy Hòa (1915-1923), ngoài công tác
chuyên môn, cụ chỉ lo học hỏi và nghiên cứu thêm Nho, Y,
Lý và Số.
Năm
1926, về phụ trách Y sĩ điều trị tại bệnh viện Hội An,
trong dịp viếng thăm chùa Tam Thai (Ngũ Hành Sơn), tại Non Nước,
Đà Nẵng. Khi đọc đến bài kệ sau đây, ghi chú trên vách,
cụ liền chú ý đến Phật giáo :
Bồ
đề bổn vô thọ,
Minh
cảnh diệt phi đài,
Bổn
lai vô nhứt vật,
Hà
xứ nhạ trần ai ?
Tiếp
đó, cụ được tin nhà cách mạng Phan Chu Trinh từ trần ở
Sài Gòn, cụ cùng một số thân hào nhân sĩ và công chức
trí thức Quảng Nam tổ chức lễ truy điệu rất trọng thể
và cùng thọ tang cụ Phan. Một tháng sau bị đổi đi Hà Tĩnh
Năm
1926, được về Huế làm Y sĩ trưởng tại viện bào chế
và vi trùng học Pasteur; cọng tác với Bác sĩ Mormet, Giám đốc
Y tế Trung Phần, đã phát minh ra Sérum Mormet, được Y giới
Pháp Việt trọng vọng.
Cuối
năm ấy, cụ lên Trúc Lâm thọ giáo với tổ Giác Tiên về
tham nghĩa của bài kệ ở chùa Tam Thai, rồi phát tâm cùng
Thượng tọa Mật Khế nghiên cứu giáo lý, học hỏi kinh điển,
tụng kinh niệm Phật và phát nguyện trường trai, phát nguyện
quy y, thọ Ưu bà Tắc giới và có Pháp danh Tâm Minh từ đó.
Năm
1929-1932, sau hai năm thọ giáo với Hòa thượng Phước Huệ,
đồng thời chịu ảnh hưởng của cuộc trùng hưng Phật giáo
Trung Hoa của ngài Thái Hư Đại sư qua sách báo Hải triều
âm; cụ vâng lời Hòa thượng Phước Huệ, Giác Tiên, Giác
Nhiên, Tịnh Hạnh và Tịnh Khiết đứng ra triệu tập 18 vị
đồng sự pháp lữ thảo điều lệ thành lập hội An Nam Phật
Học, đặt trụ sở tại chùa Trúc Lâm, cụ làm Hội trưởng
dưới sự chứng minh của quý Hòa thượng nói trên. Cụ bắt
đầu thuyết pháp tại chùa Từ Quang. Giảng kinh luận tại
tư thất cho một số tín hữu nhiệt tâm cầu đạo
(Thượng
tọa Giải Ngạn, Thượng tọa Minh Châu, Sư bà Diệu Không,
lúc nầy chưa xuất gia, đều được theo họ khóa nầy).
Năm
1933, phụ trách Y sĩ Giám đốc Bài lao Huế, cụ là một danh
y uy tín nhất đế đô.
2. Về Phật
Học :
Khởi
công trùng tu tổ đình Từ Đàm làm trụ sở Trung ương cho
hội.
Cử
hành Đại lễ Phật Đản đầu tiên vô cùng trọng thể ở
chùa Diệu Đế, gây ảnh hưởng lớn lao đến mọi giới.
Chủ
trương xuất bản Nguyệt san Viên Âm, cơ quan ngôn luận và
truyền bá giáo lý của hội. Cụ làm chủ nhiệm kiêm chủ
bút của Nguyệt san.
Thiết
lập cơ sở đào tạo Tăng tài: Cấp Trung, Tiểu học tại
Bảo Quốc, Pháp sư Trí Độ làm Đốc giáo.
(Quý
Hòa thượng Thiện Hoa, Thiện Hòa, Thiện Siêu, Thiện Minh,
Trí Quang, Trí Tịnh, Nhật Liên, … đều xuất thân tại trường
nầy).
Cất
Đại học tại Tây Thiên do chính cụ trực tiếp giảng diễn
về Luận học, triết Đông và Tây.
(Quý
Hòa thượng Đôn Hậu, Trí Thủ, Mật Nguyện, Mật Hiển, Mật
Thể,… đều xuất thân từ trường nầy).
Xúc
tiến thành lập các tỉnh hội, chi hội, việc báo chí, việc
Phật học viện rất bề bộn, nhưng, cụ không bao giờ xao
lãng sự học, sự tu và trường sở mà cụ đã phụ trách
giảng diễn giáo pháp. Cụ có một lối diễn giảng đặc
biệt nên bất cứ trình độ nào, bất cứ hạng người nào
cũng đều thu thập có kết quả.
Xứng
đáng là một vị Pháp sư cư sĩ vừa Tông thông vừa Thuyết,
khéo đưa Phật pháp ra giữa ánh sáng như đưa viên ngọc quý
ra khỏi những thế tục vô minh che lấp.
Mùa
đông năm Bính Tý (1936), tổ giác Tiên viên tịch . Cụ
ý thức được trách nhiệm hoằng dương chánh pháp và duy
trì sinh hoạt giáo hội, nên trong lời ai điếu bổn sư,
cụ đã phát nguyện dõng mãnh như sau:
Kiến
tướng nguyện vọng, kiến tánh nguyên chơn, viên giác diệu
tâm ninh hữu ngã,
Chúc
pháp linh truyền, chúc sanh linh độ, thừ đương di huấn khởi
vô nhơn.
Nghĩa
là:
Tướng
các pháp tuy vọng, tánh các pháp vốn chơn, Hòa thượng đâu
có mất còn,
Chánh
pháp cần phải truyền, chúng sinh cần phải độ, di huấn
ấy (con) xin gánh vác.
Năm
1935, để thích ứng với nhu cầu của hội, bản điều lệ
của hội được điều chỉnh qua quyết định của Đại hội
đồng. Một ban Tổng trị sự được thiết lập tại Huế,
trực tiếp điều hành các tỉnh hội và năm nào cụ cũng
được hội tín nhiệm trong chức vụ Hội trưởng hoặc cố
vấn để điều hành Phật sự.
Cũng
mùa Thu năm ấy, cụ dời nhà lên số 51 đường Nguyễn Hoàng
(dốc Bến Ngự) để dễ dàng tiếp tục giảng kinh, viết
báo, quy tụ thanh niên Phật tử trí thức thành lập đoàn
thanh niên Học Phật Đức Dục. Sáng lập gia đình Phật hóa
Phổ (tiền thân của tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam
bây giờ), nhằm duy trì đạo đức, xây dựng chánh tín cho
đàn hậu thế.
Ngoài
ra, sau nhiều năm kinh sách, theo gương Phật giáo Trung Hoa, cụ
nghiên cứu kế hoạch, vận động phương tiện quyết tâm
xây dựng nền móng vĩnh cửu cho cơ sở đào tạo Tăng
tài.
Năm
1944, cụ sắp xếp chương trình để di chuyển Phật học viện
lên Kim Sơn. Thành lập Tòng lâm Kim Sơn Huế. Thời cuộc không
cho phép, công tác tạm ngưng sau hai năm sinh hoạt.
Năm
1945, cuộc đảo chánh Nhật, chánh phủ Trần Trọng Kim mời
giữ chức Giám đốc Y tế Trung phần kiêm Giám đốc Bậnh
viện Huế.
Năm
1946, chiến cuộc bùng nổ, dân chúng Huế tản cư. Cụ đưa
gia đình về lại Quảng Nam. Tham gia kháng chiến chống Pháp.
Năm
1947-1949, làm Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến miền
Nam Trung bộ tại Liên khu Năm.
Mùa
hạ năm 1949, được điện mời đi Bắc, đề bạt làm Chủ
tịch Phong trào Hòa bình Thế giới.
Mặc
dầu tình thế đảo điên, nhân tâm điên đảo, nhưng cụ
vẫn an nhiên diễn giảng, phiên dịch Phật pháp. Cuối cùng
bộ Thủ Lăng Nghiêm cũng được dịch và xuất bản năm 1961
tại chùa Quán Sứ - Hà Nội.
Cụ
từ trần ngày 23 tháng 04 năm 1969 (tức ngày mồng Bảy tháng
Ba năm Kỷ Dậu) tại Hà Nội, hưởng thọ 73 tuổi.
http://www.todinhtudamhaingoai.net/truclam/truclam/subacsiledinhtham.html
_____________________________
Cư sĩ Tâm
Minh
LÊ
ĐÌNH THÁM
Nếu
có dịp về Huế thăm lại tổ đình Từ Đàm, ngôi chùa lịch
sử, cái nôi của Phật giáo miền Trung, chắc hẳn lòng chúng
ta sẽ rung động trước hình tượng một cư sĩ được tôn
trí trong sân chùa Từ Đàm, hình tượng Bác Tâm Minh Lê Đình
Thám. Đó là tình cảm của Phật tử miền Trung cũng như Phật
tử cả nước dành cho Bác - Một vị đã khởi xướng và
thành tựu Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo miền Trung có ảnh
hưởng đến Phật giáo cả nước.
Riêng
về Gia Đình Phật Tử Việt Nam, Bác là người chủ xướng
công cuộc giáo dục thanh thiếu nhi Phật giáo mở đầu là
Đoàn Phật Học Đức Dục, sau đó là Gia Đình Phật Hóa Phổ,
tiền thân của Gia Đình Phật Tử Việt nam ngày nay.
Hôm
nay, khi học bài nầy chúng ta nhìn lại thật rõ cuộc đời
của Bác, tâm nguyện và công hạnh của Bác, những viên đá
đầu tiên, những viên đá vững chắc cho ngôi nhà Phật giáo
Việt Nam.
I.-
THÂN THẾ :
Bác
Lê Đình Thám tự là Châu Hải sanh năm Đinh Dậu 1897 tại
làng Đồng Mỹ (Phú Mỹ), tổng Phú Khương, Phủ Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam trong một gia đình nho phong. Thân phụ là Lê
Đĩnh làm quan dưới triều Tự Đức với chức Đông Các Đại
Học Sĩ sung chức Binh Bộ Thượng Thư và mẹ là cụ bà Phan
Thị Hiệu (kế thất).
Đương
thời : Thời thơ ấu bác cùng người anh là Lê Đình Dương
(sau này là Đông Dương Y Sĩ) cả hai đã trực tiếp học chữ
Hán với thân phụ, cả hai đều thông minh xuất chúng ngay
từ thuở còn thơ. Lớn lên cả hai đều học tại các trường
Pháp Việt. Trong những năm còn là học sinh hay sinh viên, Bác
đã được tình cảm của cả thầy lẫn bạn và luôn luôn
giành vị thứ hàng đầu trong các kỳ thi tốt nghiệp hoặc
cuối cấp.
II.-
SỰ NGHIỆP :
1.-
Thế nghiệp :
Bác
tốt nghiệp thủ khoa Đông Dương Y Sĩ khóa 1916 tại trường
Cao đẳng Y khoa Đông Dương Hà Nội và Y khoa bác sĩ ngạch
Pháp quốc khóa năm 1930 tại Y khoa Đại học đường Hà Nội.
Ra trường vào lúc phong trào Duy Tân khởi nghĩa bị thất bại,
bào huynh là Đông Dương Y sĩ Lê Đình Dương bị bắt đày
lên Ban Mê Thuộc và chết tại đó. Còn Bác thì bị tình nghi
theo dõi, trong suốt thời gian phục vụ tại các bệnh viện
: Bình thuận, Sông cầu, Qui nhơn, Tuy hòa, Hội an (1916-1926),
ngoài công tác chuyên môn, Bác chăm lo học hỏi và nghiên cứu
thêm về : Nho, Lão, Phật . . . Năm 1926 phụ trách tại bệnh
viện Hội An trong một dịp viếng chùa Non nước, sau những
bước thấp bước cao lên từng cấp đá trong khung cảnh kỳ
ảo và hùng vĩ của Ngũ Hành Sơn rộng mở, trong bầu không
khí mờ ảo của một cái động mang tên Huyền Không, vào
động thì có 4 câu thơ đập vào mắt Bác :
"Bồ
Đề bổn vô thọ
Minh
cảnh diệc phí đài
Bổn
lai vô nhất vật
Hà
xứ nhạ trần ai"
Cái
chơn không huyền diệu làm sao, tâm hồn mẫn tiệp của Bác
đã rung động trước bốn câu kệ bất hủ của Lục Tổ
Huệ Năng. Giây phút gặp gở kỳ thú đầu tiên của Bác và
Huệ Năng, chẳng khác nào cái sát na thời gian của người
gánh củi Tân châu lặng nghe :"Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ
tâm" trước một khách điếm năm nào.
Tiếp
đó được tin nhà cách mạng Phan Chu Trinh từ trần tại Sài
Gòn. Bác cùng một số thân hào nhân sĩ, công chức, trí thức
Quảng Nam tổ chức lễ truy điệu trọng thể và thọ tang
cụ Phan. Một tháng sau Bác được lệnh đổi đi Hà Tĩnh.
Năm 1926 được thuyên chuyển về làm Y sĩ trưởng tại viện
bào chế và vi trùng học Pasteur, cọâng tác với Bác sĩ Normet,
Giám đốc y tế Trung phần phát minh ra : "Sérum - Normet", được
Y giới Pháp Việt đương thời rất trọng vọng. Năm 1933 phụ
trách Y sĩ Giám đốc Bệnh viện Bài lao Huế, Bác là một
danh y uy tín nhất tại Đế đô.
Năm
1945 sau cuộc đảo chánh Nhật, chính phủ Trần Trọng Kim mời
Bác giữ chức vụ Giám đốc Y tế Trung phần, kiêm Giám đốc
Bệnh viện Huế.
2.-
Đạo nghiệp :
Cũng
năm ấy Bác lên chùa Trúc Lâm gặp Hòa Thượng Giác Tiên để
thỉnh giáo về thâm nghĩa của hai mươi chữ ngắn ngủi đã
khắc sâu vào tâm Bác như một công án thiền sư. Cuộc hội
ngộ đã khiến bác đê đầu quy y với Phật, với Pháp, với
Tăng, mà Hòa thượng Giác Tiên chùa Trúc Lâm là Bổn sư, với
pháp danh Tâm Minh rất xứng hợp với tấm lòng trong sáng của
Bác.
Năm
1929 - 1932 ba năm liềân thọ giáo với Hòa thượng Phước
Huệ một nhà Phật học uyên thâm tại chùa Thập Tháp Bình
Địnhä. Tiếp cận với các nhà thiện tri thức thời bấy
giờ. Bác cũng đã tiếp cận với phong trào chấn hưng Phật
giáo Châu Á do Ngài Thái Hư đại Sư khởi xứơng ở Trung
Hoa qua tạp chí "Hải Triều Ââm", Bác lại giật mình trước
tình trạng : Phật giáo Việt nam đang ngủ mê sau các thời
kỳ hưng thịnh : Đinh , Lê, Lý, Trần. Quý vị Hòa thượng
nhận thấy nơi Bác một đệ tử nhiệt thành, một đệ tử
đáng tin cậy, một đệ tử có căn cơ mẫn thiệp để giao
phó trách nhiệm, Bác sẵn sàng nhận lãnh y chỉ của các Hòa
thượng : Phước Huệ, Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Hạnh, Tịnh
Khiết, đứng ra triệu tập 18 vị họp Hội đồng dự thảo
điều lệ xin thành lập Hội An Nam Phật Học, đặt trụ sở
đầu tiên tại chùa Trúc Lâm do Bác làm Hội trưởng dưới
sự chứng minh sáng lập của quý Hòa thượng nói trên và
Bác bắt đầu thuyết pháp tại các chùa Từ Quang, Trúc Lâm,
Tây Thiên, Từ Đàm, Diệu Đế giảng kinh luận tại tư thất
cho một số tín hửu nhiệt tâm cầu đạo (Quý Hòa thượng
Giải Ngạn, Sư Bà Diệu Không, Hòa Thuợng Minh Châu lúc chưa
xuất gia đều được nối tiếp đào tạo trong các khóa giảng
nầy).
Về
Phật sự : Khởi công trùng tu chùa Từ Đàm trụ sở trung
ương của Hội.
Lễ
Phật Đãn đầu tiên được cử hành vô cùng trọng thể tại
chùa Diệu Đế gây ảnh hưởng lớn lao trong mọi giới.
Chủ
trương xuất bản nguyệt san Viên Âm cơ quan ngôn luận và
truyền bá giáo lý của Hội do Bác chủ nhiệm kiêm chủ bút.
Thiết
lập cơ sở đào tạo tăng tài : Cấp Trung Tiểu học tại
chùa Bảo Quốc do Hòa Thượng Trí Độ làm Đốc giáo (quý
Hòa thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa, Thiện Siêu, Trí Quang, Thiện
Minh, Trí Tịnh, Nhật Liên đều xuất thân tại trường nầy).
Cấp Đại học tại chùa Tây Thiên do chính Bác phụ trách
giảng dạy về luận học và triết học, Đông Tây (quý Hòa
thượng Đôn Hậu, Trí Thủ, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật
Thể đều xuất thân tại trường nầy).
Xúc
tiến thành lập các Tỉnh hội, chi hội, khuông hội khắp
nơi tại Trung phần, mở đầu là Tỉnh hội Thừa Thiên, Đà
Nẵng, Quảng Nam . . .
Năm
1934 tuy việc chuyên môn, việc Hội, việc báo chí, việc Phật
học viện rất bề bộn nhưng Bác không bao giờ xao lãng sự
học, sự tu và sở trường của bác là giảng diễn Phật
pháp, chính nhờ lối giải thích, trình bày Phật pháp một
cách sáng sủa, hợp căn cơ của Bác mà một số đông, cựu
học cùng tân học, bình dân cũng như trí thức đã hiểu đạo
Phật rất mau chóng và đúng đắn, Bác thật xứng đáng là
một vị Pháp sư cư sĩ, vừa tạng thông, vừa thuyết thông
khéo đưa Phật pháp ra giữa ánh sáng như đưa viên ngọc quý
ra khỏi thế lực vô minh đang vùi lấp.
Mùa
Đông 1934 Hòa thượng Giác Tiên viên tịch, ý thức được
trách nhiệm hoằng dương Chánh pháp và duy trì sinh hoạt Giáo
hội, nên trong lời ai điếu Hòa Thượng bổn sư, Bác đã
phát nguyện dõng mãnh như sau :
•
Kiến tướng nguyện vọng, kiến tánh nguyên chơn,viên giác
diệu tâm ninh hữu ngã.
•
Chánh pháp linh truyền, chúng sanh linh độ, thừa dương di huấn
khởi vô nhân.
Dịch
: Tướng các pháp tuy vọng, tánh các pháp vốn chơn. Hòa thượng
đâu có mất, Chánh pháp cần phải truyền, chúng sanh cần
phải độ, lời di huấn đó con xin nguyện gánh vác.
Năm
1935 để thích ứng với nhu cầu tiến triển của Hội, bản
điều lệ của Hội được tu chỉnh qua quyết nghị của Đại
Hội Đồng một Ban Tổng trị sự được thành lập tại Huế,
trực tiếp điều hành các Tỉnh hội và năm nào Bác cũng
được Đại hội tín nhiệm công cử vào chức vụ Hội trưởng
hoặc Cố vấn để điều hành Phật sự chung.
Hội
đặt trụ sở tại chùa Trúc Lâm, những Tỉnh hội, chi hội,
khuông hội theo gương Tỉnh hội Thừa Thiên tổ chức nhanh
chóng nhiều nơi ngoài sự tưởng tượng và mong ước của
các vị Hòa thượng và giáo phẩm Phật giáo. Một Ban Tổng
trị sự được hình thành để điều hành công việc. Bác
lại đứng ra vận động trùng tu tổ đình Từ Đàm để làm
trụ sở hoạt động của Hội.
Mùa
thu năm ấy (1935), bác quy tụ một số thanh niên Phât tử trí
thức thành lập Đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục, sáng
lập Gia Đình Phật Hóa Phổ, tiền thân của Gia Đình PhậtTử
ngày nay, nhằm duy trì đào tạo xây dựng chánh tín cho đàn
hậu thế.
Tạp
chí Viên Âm "tiếng nói tròn đầy" đã đi rất nhanh, không
chỉ ở trong nước khắp ba miền Trung, Nam, Bắc mà còn lan
rộng ra nước ngoài, ngày nay lật lại từng trang Viên âm
cũ kỷ nhiều người đã sửng sốt trước những bài giảng,
trước những bài luận thuyết sâu sắc kể cả phần văn
chương lẫn phần nội dung. Công đức này quả thật là vĩ
đại khi chúng ta nhìn bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội,
kỹ thuật 60 năm về trước của đất nước Việt Nam lạc
hậu và bị trị nầy.
Song
song với Viên Âm cơ quan ngôn luận hoằng dương chánh pháp,
một công trình vĩ đại khác đã thực hiện với tất cả
tâm huyết và nổ lực phi thường. Đó là công việc đào
tạo tăng tài, đào luyện những vị giảng sư, những vị
trụ trì, những tăng sĩ chuyên ngành giáo dục để giữ giềng
mối và phát triển Hội. Chùa Bảo Quốc, Chùa Tây Thiên, chùa
Diệu Đức trở thành những Phật học đường, những trường
Đại học Phật giáo. Những học tăng đầu tiên của Trung
học Phật giáo đã tạo dựng sự nghiệp Phật giáo đầu
tiên như thế nào trong mấy mươi năm nay cũng đủ cho chúng
ta thấy kết quả to lớn Phật học đường, về phần cư
sĩ thì có Đinh văn Nam (tức HT Minh Châu) bà Cao Xuân Sang (tức
Sư bà Diệu Không), Võ đình Cường, Đinh văn Vinh, Nguyễn
hữu Quán, Phạm hữu Bình, những thanh niên ưu tú sau khi nghe
những bài pháp của Bác đã đến với Đoàn Phật Học Đức
Dục. Chùa có, thầy có, cơ quan đào tạo tăng tài có, hội
hữu càng ngày càng đông, tín đồ càng ngày càng nhiều, bác
đã nghĩ đến công cuộc tiếp dẫn hậu lai.
Năm
1938, trong kỳ Tổng Hội đồng chính thức đầu tiên Hội
An nam Phật học ngày 14 tháng 8, Bác đã dõng dạc gióng lên
tiếng chuông :"Không có gì thành tựu vững bền nào lại không
nhắm đến hàng ngũ Thanh Thiếu niên. Họ là những người
tiếp nối chúng ta trong ngày mai. . ."
Rõ
ràng tâm niệm của Bác không khác gì nhân duyên thứ 10 của
Ngài Thật Hiền trong Phát Bồ Đề tâm văn. Và đó cũng là
đại nguyện thứ hai của Hoàng hậuThắng Man Đại Phương
Quảng. Điều nầy đã được ghi trong diễn văn bế mạc hội
nghị tuờng trình sinh hoạt của Hội, điều mà Huynh trưởng
Gia Đình Phật Tử Việt Nam không thể không biết đến. Nếu
cần có một văn kiện nào để chứ`ng minh sự có mặt của
chúng ta trong cọâng đồng Giáo hội thì đó cũng là cơ sở
của một văn kiện lập quy mà Bác Lê Đình Thám đã để
lại cho chúng ta như một lời di huấn.
Ngoài
ra theo gương Phật giáo Trung Hoa qua nhiều năm nghiên cứu kế
hoạch và vận động phương tiện, quyết tâm xây dựng nền
móng vĩnh cửu cho cơ sở đào tạo Tăng.
Tới
năm 1944 Bác sắp xếp di chuyển các Phật học viện lên thiết
trí tại Kim sơn, thành lập Tòng lâm Kim Sơn (Huế) nhưng thời
cuộc không cho phép công tác đành tạm ngưng sau hai năm hoạt
động.
Nhờ
công đức của Bác vừa tài thí, vừa pháp thí mà duy trì
được nguyệt san Viên Âm, Hội An Nam Phật Học và Phật Học
Viện đã vượt qua mọi thăng trầm vất vả, mọi chướng
ngại thế gian, gây được một thanh thế lớn giữa phong trào
phục hưng Phật giáo, phục hưng văn hóa dân tộc, kích động
Phật giáo Nam, Bắc đưa Phật giáo nước ta từ chỗ quên
lãng đến địa vị như ngày nay.
III.-
TINH THẦN PHỤC VỤ ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC
TRONG
QUẢNG ĐỜI CUỐI CÙNG CỦA BÁC
Mùa
Đông 1946 chiến tranh chống Pháp giành độc lập bùng nổ,
dân chúng Huế tản cư, Bác cùng gia đình cũng tản cư về
nguyên quán Quảng Nam. Đáp lời kêu gọi củ non sông, Bác
tham gia kháng chiến liên khu V. Với tinh thần phục vụ Dân
tộc, phục vụ Đạo pháp, trong lúc tham gia kháng chiến Bác
cũng vận động quy tụ một số Phật tử củ để thành lập
phong trào "Phật giáo và dân chủ mới" tại Bồng sơn Bình
Định.
Mấy
năm sau, năm 1949 mùa hạ, bác được điện mời ra Hà Nội.
Bác lãnh trách nhiệm Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế
giới của Việt Nam và ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới.
Môi trường mới, xã hội mới, nhân tâm cũng đổi mới, nhưng
tâm nguyện của Bác không thay đổi, bác tiếp tục diễn giảng,
phiên dịch Phật pháp và hoàn thành Bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm
đã bỏ dỡ trong các tập san Viên âm trước khi tản cư.
Năm
1961 việc phiên dịch thành tựu và Thủ Lăng Nghiêm kinh được
in ra vào mùa xuân năm ấy (năm Tân Sửu) tại chùa Quán Sứ
Hà Nội.
Sau
khi kinh Lăng Nghiêm được ấn hành thì Bác chuyên tham thiền,
trì kinh niệm Phật. Trước ngày thị tịch Bác đã mời Hòa
thượng Đôn Hậu đến để ôn lại những hoạt động cũ,
rồi yêu cầu hòa Thượng thuyết một thời kinh. Hòa thượng
đã nói về Vô thường, Vô ngã. Sau đó Bác đã thị tịch
một cách bình thản.
Bác
đã vĩnh viễn ra đi ngày 07 tháng 3 năm Kỷ Dậu (tức ngày
23.4.1969) để lại những công trình lớn lao đối với Phật
giáo Việt Nam và đối với nền giáo dục Thanh Thiếu Nhi.
IV.-
THAY PHẦN KẾT LUẬN
Để
thay phần kết luận, chúng ta hãy lắng lòng tỉnh tâm tưởng
niệm Bác (tất cả yên lặng theo dõi hơi thở - Giảng viên
đọc lại đoạn sau đây rất thong thả) : Kính thưa Bác, chắc
Bác đâu có ngờ rằng lời phát biểu về giáo dục Thanh thiếu
niên vang dội từ chùa Từ Đàm năm, 1938, chúng con tiếp nhận
như một di huấn thiêng liêng. Ngọn đèn tâm của Bác được
thắp sáng và truyền tiếp cho ngọn đèn tâm của chúng con,
mỗi lần đứng trước di ảnh của Bác, thành tâm đãnh lễ
Bác, ngọn đèn tâm của chúng con lại bùng cháy lên, chúng
con nguyện sẽ là những ngọn Vô tận đăng tiếp nối, cho
dù phải tiếp tục đối đầu với bảo táp mưa sa, với những
cơn gió lốc hải hùng của thời đại, xin Bác chứng minh.
(Vườn
Lam)
(http://www.vuonlam.us/B_GiaDinhPhatTu/B4_SuLieu/BacTamMinhLeDinhTham.htm)
________________________________
Cư
sĩ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM
Ông
Lê Đình Thám sinh năm Đinh Dậu (1897) tại làng Đô Mỹ (Phú
Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông
xuất thân trong một gia đình quyền quý có nhiều đời làm
quan mà thân sinh chính là Binh bộ Thượng thư Lê Đỉnh ở
triều Tự Đức.
Cùng
với người anh là Lê Đình Dương, ông trực tiếp học chữ
Nho với thân phụ. Cả hai anh em đều tỏ ra thông minh xuất
chúng ngay từ thuở niên thiếu. Trong những năm theo học tại
các trường tiểu học, trung học, ông đã luôn chiếm được
cảm tình cả thầy và bạn. Luôn luôn giành thứ vị thủ
khoa trong các kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp.
Năm
1916, Lê Đình Thám tốt nghiệp Y sĩ Đông Dương (đậu Thủ
khoa) tại Hà Nội. Sau khi ra trường, cùng lúc phong trào Duy
Tân khởi nghĩa bị thất bại, người anh Lê Đình Dương bị
giặc Pháp bỏ tù ở Buôn Mê Thuột. Ông cũng bị tình nghi
và luôn bị mật thám theo dõi. Từ năm 1916 đến năm 1923,
ông Lê Đình Thám được bổ nhiệm làm việc tại các bệnh
viện Hội An, Bình Thuận, Sông Cầu, Quy Nhơn, Tuy Hòa. Thời
gian này, ông đã bỏ công nghiên cứu thêm về chí nguyện
và được thọ tam quy ngũ giới với Hòa thượng Giác Tiên,
pháp danh là Tâm Minh, pháp tự Chiêu Hải. Sang năm 1930, ông
Lê Đình Thám quay trở ra Hà Nội thi lấy bằng Y khoa Bác sĩ.
Khi trở về, ông vừa học Phật vừa làm ngành y mà vẫn vượt
xa các bạn đồng học trong thời gian ấy. Đến năm 1932, Hội
An Nam Phật Học ra đời, do các vị hòa thượng và bản thân
ông đứng ra chịu trách nhiệm gánh vác công cuộc hoằng dương
chánh pháp. Trụ sở hội đầu tiên đặt ở chùa Trúc Lâm,
sau đó là chùa Từ Đàm mà ông làm Hội trưởng. Thời gian
này trở đi, người ta thấy bắt đầu xuất hiện những bài
báo viết của ông trên tờ nguyệt san Viên Âm. Trong đó ông
còn viết cả truyện ngắn (ký tên T.M), truyện dài (ký tên
Châu Hải) và truyện hài hước (ký tên Ba Rảm).
Năm
1946, cuộc chiến tranh chống Pháp bùng nổ, dân chúng Huế
tản cư, ông cũng cùng gia đình di tản về Quảng Nam. Từ
năm 1947-1949, ông làm Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến
miền Nam Trung bộ. Tại liên khu V của vùng kháng chiến, ông
đã tập hợp một số đoàn viên của đoàn Phật học Đức
dục có mặt trong vùng và thành lập tổ chức Phật giáo Dân
chủ mới tại Bồng Sơn, Bình Định, chuyên nghiên cứu việc
tổng hợp giáo lý Phật giáo và triết học Mác - Lê-nin. Vào
mùa hè năm 1949, ông Lê Đình Thám tập kết ra Bắc, sau đó
ông được đề cử làm Chủ tịch Phong trào Vận động Hòa
bình Thế giới. Năm 1956, ông và Hòa thượng Trí Độ được
cử tham dự phái đoàn sang dự Đại hội Phật giáo Buddha
Jayanti tại Ấn Độ.
Năm
1961, toàn bộ kinh Lăng Nghiêm mà ông Lê Đình Thám đã dày
công phiên dịch và chú giải trong nhiều năm, đã được đăng
trên báo Viên Âm và xuất bản tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.
Sau đó, sách còn được tái bản lưu hành rộng rãi ở miền
Nam. Trong những năm sống ở miền Bắc, ngoài ngày giờ làm
việc cho Nhà nước, ông thường tìm đến chùa Quán Sứ để
dịch kinh và giảng kinh, hướng dẫn việc tu học giúp các
nhà chùa. Kết quả của những năm tháng dày công quả vì
đạo pháp và dân tộc ấy còn được thể hiện qua các kinh
sách uyên thâm như: Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Luận Nhân Minh, Đại
Thừa Khởi Tín Luận, Bát Thúc Qui Củ tụng, Phật Học thường
thức, Bát Nhã Tâm Kinh, Lịch sử Phật giáo Việt Nam và Phật
Tổ Thích Ca, Tâm Minh-Lê Đình Thám tuyển tập ( gồm 5 tập).
Ông
Lê Đình Thám qua đời vào ngày 23-4-1969 tại Bệnh viện Việt
- Xô, Hà Nội, hưởng thọ 73 tuổi và 42 năm phụng sự Tam
Bảo. Là một nhà sư kiêm nhà khoa học và tri thức gia trong
giai đoạn chấn hưng Phật giáo giữa thế kỷ XX, Cư sĩ Tâm
Minh - Lê Đình Thám quả là bậc tiền bối với nhiều công
lao sáng chói. Ông đã vượt qua những ranh giới hình thức
để tựu thành đạo nghiệp cao quý cho hàng hậu tấn ngưỡng
vọng cho dù xuất gia hay tại gia...
TRUNG
NGUYÊN
(http://www.baobinhduong.org.vn/detail.aspx?Item=2829)
___________________________________
Tưởng
nhớ
Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
NGƯỜI TRÍ
THỨC PHẬT TỬ ƯU TÚ THẾ KỶ XX
NGƯỜI SÁNG LẬP GIA ĐÌNH
PHẬT TỬ VIỆT NAM
Trong
sự nghiệp chấn hưng Phật giáo nước nhà, tại miền Trung,
vào những năm của thập kỷ 1930, bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình
Thám là người đã cống hiến nhiều công lao xuất sắc, đưa
Phật giáo miền Trung phát triển vững chắc và sâu rộng.
Để
ghi nhớ những công lao của một cư sĩ ưu tú của Phật giáo,
chư vị Tôn Đức Giáo phẩm Thừa Thiên-Huế đã tạc một
bức tượng bán thân cư sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám trong khuôn
viên Tổ đình Từ Đàm, Huế. Có thể nói đây là vị Cư
sĩ duy nhất từ trước đến nay có vinh hạnh lớn được
chư vị Tôn Đức quý mến và dựng tượng tưởng niệm.
Cư
sĩ Tâm Minh không chỉ đã cống hiến nhiều công lao chấn
hưng Phật giáo nước nhà, mà còn là người tiên phong sáng
lập các tổ chức giáo dục Thanh, Thiếu niên Phật giáo, nhờ
vậy Gia đình Phật tử có nhân duyên ra đời và phát triển
như ngày hôm nay.
Bác
sĩ Lê Đình Thám sinh năm Đinh Dậu (1897) tại làng Đông Mỹ
(Phú Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng nam,
xuất thân trong một gia đình khoa bảng, vọng tộc; thân sinh
là cụ ông Lê Đỉnh đã giữ chức Đông các điện Đại
học sĩ (một chức lớn trong Triều) kiêm chức Binh bộ Thượng
thư ( tương đương Bộ Trưởng Quốc phòng ngày nay) dưới
triều Tự Đức; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Hiệu (kế thất);
và người anh ruột là Lê Đình Dương, lớn hơn ba tuổi.
Tuổi
thiếu niên
Lúc
nhỏ, bác sĩ cùng anh trực tiếp học chữ Hán với cụ thân
sinh. Hai người tiếp thu rất nhanh, thông đạt kinh sách, làm
được thi phú, nhưng bác sĩ Thám tỏ ra xuất sắc và nổi
tiếng ở quê nhà.
Thời
kỳ đi học, từ cấp I đến Đại học, bác sĩ luôn đứng
đầu lớp và chiếm giải Khôi nguyên trong tất cả các kỳ
thi. Ông Lê Thanh Cảnh, bạn học của bác sĩ và là hội viên
An Nam Phật học, có đăng bài viết trên tạp chí Quốc Học
- Huế, kể lại câu chuyện: Lê Đình Thám đã giải một bài
toán mà thầy dạy là ông Le Bris, người Pháp, không giải
được, khiến ông này vô cùng thán phục và đã nhấc bổng
trò Thám lên cao mà nói to: “Đây là thầy của tôi”. Cũng
trong bài viết này, ông Lê Thanh Cảnh còn kể lại, bác sĩ
Thám có một thiên năng nhớ bài rất nhanh, chỉ nhẩm qua hai
lần là thuộc không sót một chữ.
Tuy
học hành xuất chúng nhưng cách cư xử của người học trò
Lê Đình Thám với bạn bè cùng lớp rất chân tình, hòa ái,
được thầy yêu, bạn mến.
Đường
đời
Bác
sĩ Lê Đình Thám tốt nghiệp Thủ khoa y sĩ Đông Dương tại
Hà Nội năm 1916. Thời bấy giờ đó là ước mơ của bao người
mong được công thành, danh toại để hưởng phú quý vinh hoa,
nhưng đối với người thanh niên ấy hưởng thụ không phải
là mục đích mà lại luôn trăn trở trước cảnh nước mất,
nhà tan. Thực dân Pháp biết bác sĩ Thám xuất thân trong một
gia đình có truyền thống yêu nước cho nên chúng rất chiếu
cố đến bác sĩ, đã thuyên chuyển bác sĩ đi nhiều tỉnh
như những cuộc lưu đày.
Trong
thời gian từ năm 1916 đến năm 1925, bác sĩ Thám thay đổi
chỗ công tác các bệnh viện như Bình Thuận, Sông Cầu, Quy
Nhơn, Tuy Hòa.
- Năm
1926, bác sĩ lại bị đổi về Hội An, Quảng Nam, tại đây
bác sĩ Lê Đình Thám cùng vớinhững người yêu nước khác
đứng ra làm lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Vì lý do này,
người Pháp lại đẩy bác sĩ ra tỉnh Hà Tĩnh.
- Năm
1928, bác Thám mới được chuyển về Huế giữ chức Y sĩ
trưởng Viện bào chế và Vi trùng học Pasteur.
- Năm
1930, bác sĩ đỗ thêm bằng bác sĩ Y khoa ngạch Pháp quốc.
- Năm
1933, làm Giám đốc bệnh viện Bài lao Huế.
- Năm
1945, Chính phủ Trần Trọng Kim mời bác sĩ Thám giữ chức
Giám đốc Y tế Trung phần kiêm Giám đốc Bệnh viện Huế.
-
Mùa Đông năm 1946, bác sĩ về quê ở Quảng Nam tham gia kháng
chiến
chống Pháp.
- Năm
1947, bác sĩ Thám giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến
miền Nam Trung bộ tại Liên khu V.
- Mùa
hè năm 1949, bác sĩ được mời ra Bắc và được đề bạt
giữ chức Chủ tịch Phong trào Vận động Hòa bình Thế giới
của Việt Nam.
Tinh
thần phục vụ xã hội
Bác
sĩ Lê Đình Thám được bạn bè và những người đồng liêu
đánh giá là người làm việc rất tận tụy, quên mình. Đối
với các bệnh nhân, ông đối xử ân cần, bình đẳng, không
phân biệt địa vị xã hội, người giàu, kẻ nghèo…
Là
một bác sĩ, bác Thám không ngừng trau dồi nghề nghiệp, đã
cùng bác sĩ người Pháp, ông Normet, Giám đốc Y tế Trung kỳ,
phát minh ra Sérum (dịch truyền) Normet cùng một số dược
liệu khác được y giới Pháp-Việt thời đó rất trọng vọng.
Năm
1933, trong thời gian giữ chức Giám đốc Bệnh viện Bài lao
Huế, bác sĩ Thám đã làm việc hết sức tận tình, nổi tiếng
là một danh y chẩn đoán và điều trị giỏi.
Cơ
duyên đến với đạo Phật
Các
tài liệu viết về tiểu sử của bác sĩ Lê Đình Thám đều
có đề cập đến giai thoại về cơ duyên bác sĩ đến với
Đạo Phật. Vào thời gian làm việc tại bệnh viện Hội An
năm 1926, khi đi tham quan thắng cảnh chùa Tam Thai (thường gọi
là chùa Non Nước), Đà Nẵng, bác sĩ đã đọc được bài
kệ của Tổ Huệ Năng khắc trên vách chùa:
Bồ
đề bổn vô thọ,
Minh
cảnh diệc phi đài.
Bổn
lai vô nhất vật,
Hà
xứ nhạ trần ai.
Phụng
sự Chánh pháp
Từ
đó, bài kệ này ăn sâu vào tâm thức, làm cho bác sĩ Lê Đình
Thám suy nghĩ và thôi thúc phải tìm hiểu cặn kẽ hơn. Vì
vậy, vào năm 1928, khi bác sĩ được đổi từ nhiệm sở ở
Hà Tĩnh về Huế giữ chức Y sĩ trưởng Viện Bào chế và
Vi trùng học Pasteur, bác sĩ đã lên chùa Trúc Lâm xin yết
kiến Hòa thượng Giác Tiên, được Hòa thượng khai ngộ về
ý nghĩa và nguyên nhân phát sinh bài kệ trên. Hoát nhiên tâm
đạo bừng sáng, bác sĩ đã thành kính xin quy y với Hòa thượng
Giác Tiên, được Hòa thượng ban cho pháp danh là Tâm Minh.
Từ khởi điểm này, cuộc đời của bác sĩ Thám gắn bó
với Phật giáo và hết mình phụng sự Chánh pháp.
Tiếp
theo từ năm 1929 đến năm 1932, với tinh thần tha thiết cầu
học, bác sĩ Lê Đình Thám còn thọ giáo với Hòa thượng
Phước Huệ, một bậc Cao Tăng đức độ và uyên thâm ở
chùa Thập Tháp, tỉnh Bình Định. Vào thời điểm này, ở
Trung Quốc, ngài Thái Hư Đại sư đang phát động công cuộc
chấn hưng Phật giáo nên đã tác động mạnh đến Phật giáo
Việt Nam, và thôi thúc bác sĩ Thám phải làm sao vực dậy
Phật giáo nước nhà đang bị ngủ quên.
Năm
1932, vâng lời của Chư tôn Thiền đức: Phước Huệ, Giác
Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Hạnh, Tịnh Khiết, bác sĩ Tâm Minh
- Lê Đình Thám đã quy tụ một số đồng lữ, những người
tha thiết với đạo, có địa vị và uy tín trong xã hội như
các cụ: Ưng Bàng, Nguyễn Đình Hòe, Nguyễn Khoa Tân, Viễn
Đệ, Nguyễn Khoa Toàn, Ưng Bình, Bửu Bác… (gồm 18 người),
đã đi đến việc thành lập Hội An Nam Phật Học (ANPH) (thời
Pháp đô hộ, miền Trung từ Thanh Hóa trở vào Bình Thuận
gọi là An Nam) do bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám là Hội trưởng.
Ban đầu Hội đặt trụ sở tại chùa Trúc Lâm, sau đó, khi
chùa Từ Đàm đại trùng tu xong, Hội dời văn phòng về đây.
Mấy năm tiếp theo, Hội ANPH mở rộng hệ thống tổ chức
đến các Chi hội, Khuôn hội rồi hầu hết các tỉnh miền
Trung và Cao nguyên (bây giờ là Tây nguyên)...
Mở
các trường Phật học
Trong
các hoạt động của mình, Hội ANPH rất chú trọng đến việc
đào tạo Tăng tài, do vậy các trường Phật học được thành
lập như sau:
- Năm
1933, mở trường ANPH tại chùa Vạn Phước, sau đó dời về
chùa Báo Quốc do HT. Trí Độ làm Đốc giáo.
- Năm
1935, mở trường Sơn Môn Phật Học, lớp Đại học mở tại
chùa Trúc Lâm do HT. Giác Tiên làm Giám đốc; lớp Trung học
mở tại chùa Tường Vân do HT. Tịnh Khiết làm Giám đốc.
Bác
sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám là người mẫn tiệp, uyên thâm
triết học Đông-Tây, nhất làvề Kinh Luận, do vậy được
Chư vị Cao Tăng mời dạy các trường nói trên. Trong cuốn
Việt Nam Phật giáo sử luận (tập III), trang 89 có ghi: “Lê
Đình Thám có lẽ là người cư sĩ đầu tiên ở thế kỷ
XX đã dự phần vào việc đào tạo Tăng tài. Phật học của
Ông được các bậc Tôn túc công nhận là thâm uyên, cho nên
Ông đã được mời vào giảng dạy trong các Phật học đường
Trúc Lâm và Tường Vân…”. Mặc dù có một kiến thức cao
rộng, nhưng cung cách của bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám rất
khiêm nhã và trân trọng, mỗi lần có giờ giảng, bác sĩ
luôn mặc áo tràng và đảnh lễ Chư Tăng trước khi lên bục
giảng.
Tốt
nghiệp khóa học đầu tiên của Phật học đường Báo Quốc
gồm có các Học Tăng tiêu biểu như Thiện Siêu, Trí Quang,
Thiện Minh, Thiện Hoa, Trí Tịnh, Nhật Liên… Chư vị này
về sau trở thành những vị giáo phẩm lãnh đạo cao cấp,
lèo lái con thuyền Phật giáo Việt Nam vượt qua phong ba bão
táp trong thời kỳ bị chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp năm
1963.
Nhà
sáng lập các tổ chức giáo dục Thanh Thiếu niên Phật tử
Vào
ngày 14 tháng 8 năm 1938, trong kỳ Đại hội đồng của Tổng
hội ANPH tại Huế, bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám đã phát
biểu: “Không có thành tựu bền vững nào lại không nhắm
tới hàng ngũ Thanh Thiếu niên. Họ là những người tiếp
nối chúng ta trong ngày mai…”. Một câu nói xuất phát từ
suy nghĩ sâu xa và có tầm nhìn chiến lược mà sau đó đã
hình thành các tổ chức giáo dục Thanh Thiếu niên Phật tử.
Bắt
nguồn từ mối quan tâm trên, vào mùa Thu năm 1940, bác sĩ Tâm
Minh - Lê Đình Thám đã thành lập Đoàn Thanh niên Phật học
Đức dục (ĐTNPHĐD) do đích thân bác sĩ điều khiển. Thành
phần Đoàn ĐTNPHĐD đầu tiên gồm có: Cố vấn: Bác sĩ Tâm
Minh Lê Đình Thám; Đoàn trưởng: anh Phạm Hữu Bình; Đoàn
phó: anh Đinh Văn Nam (nay là HT. Minh Châu); Thư ký: anh Ngô Điền;
và các ủy viên: anh Ngô Thừa, Võ Đình Cường, Đinh Văn Vinh,
Nguyễn Hữu Quán, Nguyễn Khải, Lê Kiểm, Phạm Quỵ, Hoàng
Ngọc Phu, Lê Đình Duyên. Năm sau có các anh mới: Ưng Hội,
Tráng Thông, Lâm Công Định.
Đoàn
TNPHĐD thành lập Phật học Tùng thư để xuất bản kinh sách
mà phần lớn do ĐTNPHĐD biên soạn.
Ngày
Phật đản 8 tháng 4 năm Giáp Thân - 30.04.1944 (đến năm 1952
mới thống nhất làm lễ Phật đản vào ngày Rằm tháng Tư
theo Nghị quyết của Hội Liên Hữu Phật giáo Thế giới),
Đại hội Thanh Thiếu niên Phật tử tại rừng Quảng Tế,
Huế, đã đi đến thành lập Gia đình Phật Hóa Phổ (GĐPHP).
Các GĐPHP đầu tiên gồm có Gia đình Tâm Minh (do bác sĩ Lê
Đình Thám là Phổ trưởng); Gia đình Thanh Tịnh (do bác sĩ
Tôn Thất Tùng làm Phổ trưởng); Gia đình Tâm Lạc (do bác
Phạm Quang Thiện làm Phổ trưởng) và Gia đình Sum Đoàn (do
bác Nguyễn Hữu Tuân làm Phổ trưởng). Đến năm 1951, đại
hội GĐPHP tại chùa Từ Đàm, Huế đã quyết định đổi
danh xưng thành Gia đình Phật tử, như vậy GĐPHP là tiền
thân tiếp cận của Gia đình Phật tử Việt Nam.
Chủ
trương thành lập báo Viên Âm
Nhằm
truyền bá giáo lý Phật đà và thông tin các hoạt động Phật
sự, bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám đã chủ trương Nguyệt
san Viên Âm (nghĩa là tiếng nói tròn đầy), số đầu tiên
ra mắt độc giả vào ngày 01.03.1933, với chức danh Chủ nhiệm
kiêm chủ bút, các thành viên trong ĐTNPHĐD nói trên đều tham
gia viết bài. Đến tháng 5 năm 1942, bắt đầu từ số 48,
bác sĩ Lê Đình Thám giao hẳn tờ Viên Âm cho ĐTNPHĐD quản
lý và phụ trách biên tập.
Cuộc
đời bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám từ ngày quy y Tam bảo
ở chùa Trúc Lâm, Huế cho đến lúc trái tim nhân ái của Bác
sĩ ngừng đập vào ngày 23.04.1969 (nhằm ngày 07 tháng 03 năm
Kỷ Dậu), mộ táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội, trong
bất cứ hoàn cảnh nào, ở đâu, bác sĩ cũng đã thể hiện
một Phật tử tài năng và chân chính. Sự nghiệp phụng sự
Chánh pháp và công lao sáng lập các tổ chức giáo dục Thanh,
Thiếu niên Phật tử của bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám thật
rực rỡ, trường tồn mãi với Phật giáo nước nhà cũng
như với Gia Đình Phật Tử Việt Nam.
Gia
đình Phật tử Việt Nam
(http://giadinhphattu.vn)
_________________________________
VIẾNG
MỘ CỤ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM
Trí
Năng
Nghĩa
Trang Mai Dịch, nằm trên đường Hồ Tùng Mậu, phường Mai
Dịch, quận Cầu Giấy, nhìn toàn cảnh khu nghĩa trang không
thật rộng lắm nằm ngay trong nội đô Hà Nội, có khung cảnh
tươi vui, đẹp.
Hai
bên tả hữu có hai hồ nước xanh biếc, mỗi hồ rộng chừng
hơn 1.000m2, mặt hồ phẳng lặng, có con đường trải nhựa
với hai hàng cây xanh che mát có cảm giác như một công viên,
hay tựa tựa như một khu nghỉ dưỡng của những người cao
tuổi chứ hoàn toàn không có chút âm khí nào của một nghĩa
trang.
Các
phần mộ ở đây được xây cất cùng một kiểu dáng, mỗi
phần mộ được xây ba cấp bằng đá xanh, giữa trồng cỏ
vuông vức chừng khoảng 8m2 trên những tấm bia khắc hình,
tên tuổi, chức vụ..., đúng là nơi an nghỉ dành cho những
nhân vật có đóng góp to lớn cho đất nước: các ủy viên
trung ương Đảng trở lên; các nhà khoa học, nhà văn hóa,
nhà văn, nhà thơ được giải thưởng Hồ Chí Minh; các tướng
lĩnh xuất sắc; anh hùng lực lượng vũ trang v.v...
Tôi
đến viếng phần mộ của Cụ Tâm Minh - Lê Đình Thám nằm
ở khu nghĩa trang bên tay phải (hướng từ ngoài vào) xung quang
còn có nhiều ngôi mộ của nhiều "danh nhân" khác.
Phần
mộ của Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám tại Nghĩa trang Mai Dịch
(Hà Nội)
Tôi
cắm hoa, đặt trái cây lên mộ cụ, đốt hương để tưởng
niệm mà lòng trào dâng bao niềm xúc động. Ngồi bên bia mộ
cụ, lòng tôi thầm niệm "trong cuộc đời thật muôn sự tình
cờ, có ngờ đâu hôm nay tôi lại được về bên mộ cụ,
mặc dầu tôi đã được đọc nhiều về cụ, nghe nhiều về
cụ và cũng biết nhiều về cụ nhưng chưa một lần nào dám
nghĩ là sẽ có duyên được về trước mộ phần của cụ
để dâng nén hương lòng."
Từ
trước đến nay tôi chỉ biết gởi gắm lòng kính ngưỡng
của mình lên cụ tại tượng đài kỷ niệm của cụ trong
khu vườn xinh đẹp tại chùa Từ Đàm.
Bây
giờ thật tình cờ tôi được về ngồi bên mộ cụ, mãi
mê nhìn hình cụ và đọc những dòng chữ trên bia mộ " Bác
sĩ Lê Đình Thám (Cư sĩ Tâm Minh, Uỷ viên đoàn Chủ tịch
Uỷ Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Chủ tịch
Uỷ Ban Bảo Vệ Hoà Bình Thế Giới của Việt Nam, Uỷ viên
Hội đồng Hoà bình Thế Giới, Phó Chủ tịch Hội Phật giáo
Thống nhất Việt Nam, Huân chương độc lập hạng ba, huân
chương kháng chiến hạng nhất. Quê quán, Điện Quang, Điện
Bàng, Quảng Nam. Sinh ngày 1.5.1897, mất ngày 23.4.1969", Lòng
tôi vô cùng xúc động".
Tác
giả bài viết bên phần mộ cư sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám
Trước
mộ cụ, tôi ôn lại những gì mình đã biết về cụ. Từ
những năm 1929 -1932, khi cụ vâng lời của chư Đại lão hoà
thượng lúc bấy giờ là HT. Phước Huệ, HT. Giác Nhiên, HT.
Tịnh Khiết, HT. Tịnh Hạnh đứng ra triệu tập 18 vị đồng
lữ thảo điều lệ xin thành lập hội An Nam Phật Học.
Và
tôi nhớ chính cụ đã cho khởi công xây dựng chùa Từ Đàm
để làm trụ sở Trung ương của Hội. Nhớ hơn hết cụ chính
là người đầu tiên tổ chức đại lễ Phật đản đầu
tiên (trong thời hiện đại) vô cùng trọng thể tại chùa
Diệu Đế Huế.
Và
trong các thư viện Phật giáo tôi cũng đã đọc và tham khảo
nhiều Nguyệt San Viên Âm do cụ chủ trương xuất bản, đấy
là cơ quan ngôn luận (đầu tiên) và truyền bá giáo lý-văn
hoá Phật giáo do chính cụ làm Chủ nhiệm, Chủ bút.
Và
tôi vẫn còn nhớ ngôi trường Phật học Báo Quốc, nơi ngày
đầu tiên tôi bước chân vào học Phật lại chính là nơi
ngày xưa do cụ thiết lập lên với danh xưng là Trường Cấp
Trung tiểu học do HT. Thích Trí Độ làm Đốc Giáo để đào
tạo tăng tài...
Và
tôi biết, cụ đã xúc tiến thành lập các Tỉnh hội, Khuôn
hội khắp cả miền Trung phần mà điển hình là Thừa Thiên
Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam... cùng với vô vàn những Phật
sự khác như giảng kinh, viết báo, điển hình nhất và để
lại cho đạo, cho đời, bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm xuất bản
đầu tiên vào mùa Xuân năm Tân Sửu (1961) tại chùa Quán Sứ,
Hà Nội...
Chính
vì vậy mà người Huế đến nay vẫn còn nhắc đến cụ với
danh xưng "Pháp sư Cư sĩ" và nhiều nhiều nữa những gì tôi
đã học, đã đọc và đã biết về cụ bây giờ đây, trước
mộ cụ tôi mường tượng nhớ lại như một lời tưởng
niệm dâng lên cụ.
Tưởng
niệm công đức của cụ, vừa tài thí vừa pháp thí cùng
với những chủ trương đúng đắn của cụ mà Phật giáo
Việt Nam (Hội An Nam Phật học, Nguyệt San Viên Âm...) trong
những năm đầu thế kỷ XX vượt qua khỏi mọi thăng trầm,
mọi chướng ngại thế gian để gây dựng được một thanh
thế lớn giữa trào lưu phục hưng đạo pháp, phục hưng dân
tộc, từng bước đưa Phật giáo nước nhà từ chỗ đang
bị quên lãng đến vị thế lớn trong lòng dân tộc và thế
giới.
Hôm
nay, trước phần mộ của cụ, trong lòng tôi miên man bao nỗi
suy tư về Phật giáo Việt Nam. Lòng mừng mừng tủi tủi bên
mộ phần của cụ - một người có thể nói là ngọn cờ
đầu trong công cuộc chấn hưng ngôi nhà Phật giáo.
Trí
Năng
(http://phattuvietnam.net/)
_________________________________
LỄ TƯỞNG
NIỆM LẦN THỨ 38
CƯ
SĨ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM
TẠI THIỀN
VIỆN VẠN HẠNH
Ngày
22/04/2007, tại Thiền Viện Vạn Hạnh, P.BHD GĐPT TW Giáo hội
Phật giáo Việt Nam đã tổ chức lễ tưởng niệm lần thứ
38 Cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, người sáng lập tổ chức
GĐPT Việt Nam và lễ mừng thọ 90 tuổi Hòa Thượng Thích
Minh Châu, Huynh Trưởng Nguyên Hùng Võ Đình Cường, Huynh Trưởng
Tâm Bửu Tống Hồ Cầm.
Đến
chứng minh và tham dự buổi lễ có Hòa Thượng Thích Trí Quảng,
Trưởng BTS Thành hội PG TP.HCM; Thượng Tọa Thích Đạt Đạo,
Trưởng Ban HDPT TP.HCM, cùng chư vị Tôn Túc trong BTS THPG TP.HCM
và đại diện Chính quyền. Cùng góp mặt tại buổi lễ có
gần 1000 Huynh Trưởng và Đoàn sinh từ nhiều vùng xa xôi đến
tham dự với tấm lòng kèm hoa và quà tặng đến Chư vị sáng
lập viên GĐPT.
TT
Thích Đạt Đạo đã tuyên đọc tiểu sử Cư sĩ Tâm Minh Lê
Đình Thám, người sáng lập Đoàn Phật học Đức Dục, tiền
thân của Gia đình Phật tử Việt Nam.
Nhân
dịp này, P.BHD GĐPT cũng tổ chức lễ mừng thọ 90 tuổi chư
vị sáng lập viên GĐPT: Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện
Trưởng học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM, Huynh Trưởng
Võ Đình Cường, Huynh Trưởng Tống Hồ Cầm. Trong và sau buổi
lễ, đã có rất nhiều tâm tình rất xúc động mà Gia đình
Phật tử xem như là những món quà quý giá cần trao nhau để
làm ấm lên tình Lam được truyền trao từ thế hệ sáng lập
đến thế hệ đàn em luôn có tâm nguyện nối tiếp xây dựng
mối hòa hợp yêu thương theo đúng tinh thần của GĐPT.
Dưới
đây là một số hình ảnh của buổi lễ. Chúng tôi sẽ cập
nhật thêm các liên quan.
Huynh
Trưởng và Đoàn sinh GĐPT làm hàng rào danh dự cung thỉnh
Chư
Tôn Đức quang lâm chánh điện.
Quang
cảnh lễ tưởng niệm lần thứ 38 ngày mất Cư Sĩ Tâm Minh
Lê Đình Thám
Chư
Tôn Đức niệm hương cầu nguyện
Quang
cảnh lễ tưởng niệm
Thượng
Tọa Thích Đạt Đạo tuyên đọc tiểu sử Cư sĩ, bác sĩ
Tâm Minh Lê Đình Thám
Toàn
cảnh buổi lễ
Cung
nghinh Chư Tôn Đức chứng minh lễ mừng thọ
Chư
Tôn Đức chứng minh lễ mừng thọ, Hòa Thượng Thích Minh
Châu,
Huynh
Trưởng Võ Đình Cường, Huynh Trưởng Tống Hồ Cầm
Toàn
cảnh lễ mừng thọ
Hòa
Thượng Thích Trí Quảng, Huynh Trưởng Thiện Điều Nguyễn
Thắng Nhu
dâng
quà tới Hòa Thượng Thích Minh Châu
Huynh
Trưởng Võ Đình Cường và Huynh Trưởng Tống Hồ Cầm
Nguồn: Gia Đình Phật Tử Vĩnh Nghiêm
___________________________Ngoài
ra, có có sự hiện diện của đại diện các cơ quan ban ngành
của tỉnh và địa phương, Chư tôn đức Tăng Ni trụ trì
các tự viện trong toàn tỉnh, các anh chị Huynh trưởng Phân
ban Hướng dẫn GĐPT TƯ, một số tỉnh thành khu vực miền
Nam, miền Trung, Tây Nguyên và đông đảo huynh trưởng, đoàn
sinh, tỉnh Quảng Nam.
Tại
buổi lễ, đại diện Phân ban đã dâng lời tưởng niệm nhắc
lại những đóng góp to lớn của cư sĩ Tâm Minh Lê Đình
Thám đối với đạo pháp và dân tộc, đặc biệt là đối
với tổ chức GĐPT. Qua đó, khẳng định: “….Hơn 60 năm
qua, tuổi trẻ áo lam luôn lắng nghe, học tập và rèn luyện,
vâng lời và hết mình phục vụ Đạo pháp dân tộc, để
xứng đáng với hoài bão là những người tiếp nối ngày
mai. Anh Cường, anh Chuẩn, chị Cúc và nhiều nhiều huynh trưởng
nữa chắc đã không có gì hổ thẹn khi gặp bác, vì tập
thể chúng con đã biết luôn giữ tâm mình là Tâm Minh.
Ngày
nay tổ chức Gia đình Phật tử đang được hoàn thiện và
lớn mạnh vững chắc. Áo lam yêu đã vượt biên giới quốc
gia để khoát lên mình của các màu da: đỏ, vàng, đen, trắng...
Vì ở đâu có loài người, sớm muộn ở đó sẽ có đạo
Phật – và ở đâu có Đạo Phật cũng đều cần có tổ
chức Gia đình Phật tử, bởi vì sẽ không có một thành tựu
vững bền nào mà không nhắm đến hàng ngũ thanh thiếu nhi
...”
Cố
đạo hữu Tâm Minh Lê Đình Thám, sanh năm Đinh Dậu (1897)
tại làng Đồng Mỹ (Phú Mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là một người lại tinh thông giáo
lý Phật đà, đã cùng với các HT. Thích Trí Độ,
Thích Mật Thế, Thích Mật Khế… hưởng ứng phong
trào chấn hưng đạo pháp của Thái Hư Đại Sư và tiếp
nối truyền thống yêu nước của dân tộc, các ngài
đã đứng ra thành lập An Nam Phật học hội, xuất bản
Nguyện san Viên Âm, thiết lập cở sở đào tạo Tăng
tài, như: Trường Trung - Tiểu Phật học tại chùa Bảo
Quốc, Đại học Phật học tại chùa Tây Thiên - Huế.
Xúc tiến thành lập các tỉnh hội, chi hội, khuôn hội
Phật giáo tại trung phần; cử hành Đại lễ phật đản
đầu tiên vô cùng trọng thể tại chùa Diệu Đế - Thừa
thiên Huế. Đặc biệt thành lập Gia đình Phật hóa
phổ, tổ chức tiền thân Gia đình Phật tử Việt Nam.
Đối với xã hội, cố đạo hữu Tâm Minh, ngoài việc
làm bác sĩ tại bệnh viện Hội An - Quảng Nam còn giữ
các chức vụ Giám đốc Y tế trung phần, kiêm Giám đốc
bệnh viện Huế, làm chủ tịch Ủy ban hành chánh kháng
chiến miền Nam Trung bộ và chủ tịch phong trào vận
động hòa bình thế giới.v.v...trong thời kì kháng chiến
chống pháp.
Trong
lời đạo từ, HT. Thích Thiện Duyên đã nhắc nhở toàn thể
huynh trưởng và đoàn sinh GĐPTVN phải học tập tấm gương
của cư sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám bằng những hành đông
thiết thực như là đóng góp tài lực, vật lực cho
sự nghiệp phát triển của Giáo hội hiện tại, nhằm
tương ứng với tâm nguyện mà cư sĩ đã phát nguyện
trước Linh đài thầy bổn sư lúc còn sinh tiền “Chánh
pháp cần phải truyền, chúng sanh cần phải độ, lời
di huấn đó con nguyện xin gánh vác.”
Trước
đó, trong khuôn khổ lễ tưởng niệm, Phân ban Hướng dẫn
GĐPT tỉnh Quảng Nam còn tổ chức lễ phóng sanh, phóng đăng
trên nhánh sông Thu Bồn, đêm văn nghệ Tâm Minh – Sáng mãi
tình Lam và lễ thọ cấp Tập, cấp Tín cho 188 huynh trưởng
đến từ các đơn vị GĐPT trong toàn tỉnh.