Lớn lên, năm 16 tuổi (1274), Ngài được lập làm Đông cung Thái
tử và cùng năm Ngài kết duyên cùng công chúa Quyên Thánh, trưởng nữ
Hưng Đạo Đại Vương. Vua Trần Thánh Tông đã mời các bậc lão thông Nho
giáo, Tứ thư, Ngũ kinh để dạy cho Ngài như Lê Phụ Trần, Nguyễn Thánh
Huấn, Nguyễn Sĩ Cố v.v… tất cả đều hết lòng dạy dỗ. Chính Vua cha cũng
đã soạn Di hậu lục để dạy dỗ cho Thái tử cách xử thế, chuẩn bị nối
nghiệp sau nầy.
Về Phật pháp, Ngài học đạo với Tuệ Trung Thượng Sĩ, được Thượng Sĩ hết
lòng hướng dẫn và trao đổi những yếu nghĩa Thiền tông. Ngài tâm đắc nhất
là câu: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc” (Quan sát lại
chính mình đó là bổn phận, không do người khác làm được) và tôn thờ Tuệ
Trung Thượng Sĩ làm Thầy. Ngài thường tới lui chùa Tư Phúc trong kinh
thành để tụng kinh, tọa thiền, lễ bái Tam bảo.
Năm 21 tuổi (1279), Ngài được Trần Thánh Tông truyền ngôi, trị vì thiên
hạ Đại Việt, lấy đức trị vì, dân chúng an cư lạc nghiệp, lấy niên hiệu
là Thiệu Bảo.
Trước thảm họa ngoại xâm, quân Nguyên - Mông chuẩn bị xâm chiếm nước
Nam. Năm 1282, Ngài chủ trì Hội nghị Bình Than để lấy ý kiến toàn dân
trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Năm 1284, trước khi cuộc chiến
tranh diễn ra, Ngài chủ trì Hội nghị Diên Hồng, lấy ý kiến các vị Bô
lão, những người đứng đầu các Bộ lạc. Toàn thể hội nghị già trẻ, gái
trai đều một lòng tung hô quyết chiến.
Năm 1285, với tinh thần bảo vệ dân tộc, Tổ quốc của toàn dân, Ngãi đã
lãnh đạo và chiến thắng cuộc xâm lăng Nguyên – Mông lần thứ nhất.
Với ý đồ bành trướng Phương Nam, tiến chiếm Chiêm Thành, làm bàn đạp
thôn tính Đại Việt, Trần Nhân Tông lại một lần nữa lãnh đạo cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại, với sự quyết tâm chiến thắng của toàn quân, toàn
dân, Ngài đã chiến thắng quân Nguyên – Mông lần thứ hai năm 1288. Cảm
hứng trước sự chiến thắng của dân tộc, Ngài đã làm hai câu thơ lưu lại:
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông muôn thuở vững âu vàng”
(Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu)
Sau khi đất nước thanh bình, dân chúng an cư lạc nghiệp, Ngài đã củng cố
triều đình, phủ dụ, đoàn kết toàn dân, xây dựng và phát triển đất nước
trong thời hậu chiến. Với mục đích chủ hòa, Ngài đã bỏ qua những lỗi lầm
đã có của quần thần cũng như thân tộc.
Năm 41 tuổi (1293), Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông lên làm Thái Thượng Hoàng.
Năm 1294, Ngài cầm quân sang chinh phạt Ai Lao, giữ yên bờ cõi và làm cho nước Triệu Voi tiếp tục thần phục Đại Việt.
Sau khi chinh phạt Ai Lao, Ngài trở về Hành cung Vũ Lâm – Ninh Bình, cầu
Quốc sư Huệ Tuệ làm lễ Xuất gia, tập sự tu hành tại đây một thời gian.
Năm 1299. Ngài quyết tâm trở lại thăm Kinh sư lần cuối, rồi đi thẳng lên
núi Yên Tử - Quảng Ninnh quyết chí tu hành, tham thiền nhập định, lấy
tên là “Hương Vân Đại Đầu Đà” và độ Đồng Kiên Cương làm đệ tử và ban
pháp hiệu là Pháp Loa.
Năm 1301, Ngài hạ san, đi thăm hữu nghị đất nước Chiêm Thành và nghiên
cứu về tôn giáo, tạo lập mối quan hệ hợp tác, hòa bình, hữu nghị với các
nước lân bang. Trở về chùa Phổ Minh phủ Thiên Trường giảng kinh, thuyết
pháp, mở Hội đại thí vô lượng cho nhân dân.
Năm 1304, Ngài chống gậy trúc dạo đi khắp nước Đại Việt, khuyến khích
muôn dân giữ năm giới, tu hành Thập thiện, dẹp bỏ những nơi thờ cúng
không đúng Chính pháp, loại bỏ những điều mê tín dị đoan v.v… Ngài đến
Bố Chánh – Quảng Bình lập am Tri Kiến và lưu lại đây một thời gian. Sau
đó, được Vua Trần Anh Tông thỉnh vào nội cung để truyền giới Bồ tát cho
Bá quan văn võ, quần thần.
Sau chuyến thăm hữu nghị Chiêm Thành năm 1301, Ngài có hứa đính hôn Công
chúa Huyền Trân cho Vua Chiêm là Chế Mân. Năm 1305, Vua Chiêm Thành sai
Chế Bồ Đài và phái đoàn ngoại giao mang vàng, bạc… sính lễ cầu hôn. Đến
năm 1306, Ngài đứng ra chứng minh hôn lễ giữa Công chúa Huyền Trân và
Chế Mân – Vua Chiêm Thành.
Trước thành quả ngoại giao hôn phối ấy, Vua Chiêm đã dâng hai quận Châu
Ô, Châu Rí cho Đại Việt làm quà sính lễ. Đây chính là điều kiện giúp cho
Đại Việt mở rộng bờ cõi về phương Nam là Thuận Hóa (Huế).
Năm 1307, Ngài truyền Y Bát lại cho Tôn giả Pháp Loa, lên làm Sơ Tổ Trúc
Lâm và Pháp Loa là Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Trong thời gian
đó, Ngài thường lui tới chùa Báo Ân Siêu Loại, Sùng Nghiêm Hải Duơng,
Vĩnh Nghiêm Lạng Giang, chùa Từ Lâm, chùa Quỳnh Lâm Đông Triều để giảng
kinh, thuyết pháp và chứng minh các Lễ hội…
Sau khi truyền Y Bát cho Tôn giả Pháp Loa, Ngài tập trung biên soạn Kinh
sách và Ngữ lục. Qua đó, Ngài đã để lại cho đàn hậu học một số tài liệu
vô cùng quý báu như: Trần Nhân Tôn thi tập, Đại Hương Hải Ấn thi tập,
Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Trung hưng Thực Lục, Truyền Đăng
Lục v.v….
Trước khi nhập diệt, Ngài đã để lại bài kệ Pháp Thân Thường Trụ qua sự
trả lời cho thị giả hầu cận bên Ngài là Bảo Sát: “Tất cả pháp không
sanh. Tất cả pháp không diệt. Ai hiểu được như vầy. Thì chư Phật hiện
tiền. Nào có đến có đi” (Nhất thiết pháp bất sanh. Nhất thiết pháp bất
diệt. Nhược năng như thị giải. Chư Phật thường tại tiền. Hà khứ lai chi
hữu).
Theo sử cũ, Ngài xả báo an tường, thâu thần thị tịch ngày 01/11/Mậu Thân
(1308). Thọ thế 51 năm tại am Ngọa Vân – Đông Triều – Quảng Ninh. Vua
Trần Anh Tông cung thỉnh nhục thân Ngài về kinh đô Thăng Long cử hành
Quốc tang trong thời gian hai tuần. Sau đó, Vua quan, quần thần, văn võ
bá quan, đệ tử Pháp Loa, Bảo Sát và chúng Tăng trong nước cử hành Lễ Trà
tỳ.
Sau khi thu nhặt Xá lợi, Xá lợi được chia làm hai phần, một phần xây
tháp thờ ở Lăng Quý Đức phủ Long Hưng – Thái Bình; một phần xây tháp tôn
thờ tại chùa Vân Yên – Yên Tử, Quảng Ninh, lấy hiệu là Huệ Quang Kim
Tháp, dâng Thánh hiệu: Đại Thánh Trần Triều, Trúc Lâm Đầu Đà, Tịnh Tuệ
Giác Hoàng Điều Ngự Phật Tổ.
Nam Mô Trúc Lâm Sơ Tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, Tổ Sư Tác Đại Chứng minh.