Với những đức tính đặc biệt, tôn giả A Nan được đại
chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức Phật và được đức Phật
hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn theo sát đức Thế Tôn
trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy trong việc chăm sóc đức
Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức Phật dạy bảo; luôn đem đến
niềm an lạc cho mọi người, như chính ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda:
an lành và hạnh phúc.
A Nan sinh trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya
(chiến sĩ giai cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Ðộ thời
bấy giờ), con của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua
Suddhodana (Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật). Trong quan hệ
dòng họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật
trở về Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) để thăm vua cha và thân quyến lần
đầu tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh
đón Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập
tức A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật.
Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật
cho phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đường mà đức Thế Tôn
đang đi.
Với trí thông minh có sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A
Nan đã tiếp thu giáo lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào
cát. Nhân một hôm nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc
được quả thánh Dự Lưu (Sotàpatti - Tu đà hoàn) -- cấp độ đầu tiên
trong 4 cấp độ giải thoát (Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán).
Khi được đề cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận
không tốt có thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều
kiện và được đức Thế Tôn chấp nhận:
1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới hay cũ;
2. Không dùng thực phẩm mà thiện tín dâng cúng đến đức Phật, dù đó là thức ăn thừa;
3. Không ở chung tịnh thất với đức Phật;
4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín chỉ cung thỉnh Phật;
5. Ðức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến nơi mà Tôn giả được mời;
6. Ðược quyền sắp xếp, tiến cử những vị khách đến muốn gặp đức Phật;
7. Ðược phép hỏi đức Phật mỗi khi có hoài nghi phát sinh;
8. Ðức Phật hoan hỷ nói lại những bài pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.
Và kể từ khi trở thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm
năm, Tôn giả A Nan đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính
mộ không hề suy suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong
những lúc thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao
tuổi mà bước chân không ngừng du hóa bốn phương.
Là một thị giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ
siêu phàm, ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người,
đặc biệt là phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó
làm kiêu hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với
đức Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati
của dòng họ Matànga (Ma Ðăng Già) và nhiều chi tiết sinh động được
ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó.
Tuy là một người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ
chính xác, mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là
một vị A la hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức
Phật cho biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau
vô cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những
hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy đầy
trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một mai
đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật khóc
thành tiếng. Ðức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan lại và
ân cần, bảo:
"Không nên than khóc, này Ananda, không nên phiền muộn; Như
Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm dứt bằng
sự biệt ly. Hiện hữu là vô thường, luôn biến dịch. Ðã từ lâu,
con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ,
con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh
tối thượng" (Anguttara Nikàya - Tăng Chi).
Ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, vào đêm trước Ðại hội kết
tập kinh điển lần thứ I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng
lão Ðại Ca Diếp (Maha Kasyapa) chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt
bực, Tôn giả đã chứng đắc A la hán và được tham dự Ðại hội, phụ
trách trùng tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã
lặp lại lời "Như vậy tôi nghe..." (Như thị ngã văn), mà mỗi khi
tiếp xúc với kinh điển, chúng ta đều gặp.
Theo truyền thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi
tuổi. Tôn giả A Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả
rất tận tụy với đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có
học thức uyên thâm; có trí nhớ trung thực và bền lâu; tác phong
cao quý và trí tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn
chuyên chú, cần mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập
(Anguttara Nikàya - Tăng Chi). Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình
ảnh thật đẹp và là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi
theo.
Thích Tâm Hải, 1998