Tổ sư húy thượng Tánh hạ Thiên,
hiệu Nhất Định, thuộc đời thứ 76 từ Tổ Ma ha Ca-diếp ở Tây Trúc, đời thứ 39 Thiền
phái Lâm Tế ở Đông độ và đời thứ 5 Thiền phái Thiệt Diệu Liễu Quán, Việt Nam.
Ngài thế danh là NGUYỄN VĂN NỘI,
sinh năm Giáp Thìn, 1784, tại làng Trung Kiên, tổng Bích La, huyện Đăng Xương,
tỉnh Quảng Trị (nay là thôn Trung Kiên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị).
Năm lên 6 tuổi, Canh Tuất, 1790,
Ngài xin song thân đem vào chùa Huệ Lâm ở Huế, xin xuất gia với Ngài Đạo Minh
Phổ Tịnh.
Đến năm 19 tuổi, Quý Hợi, 1803
Ngài được Bổn sư thế độ và ban pháp danh là Tánh Thiên, pháp tự là Nhất Định.
Cũng trong năm này Ngài được Hội đồng thập sư trao giới đặc cách thọ Tam đàn Cụ
túc với Hòa thượng Mật Hoằng ở chùa Quốc Ân, Huế.
Ngài là người học trò được Bổn sư
thế độ thứ tư sau các pháp huynh Tánh Tuệ Nhất Nguyên, Tánh Tâm Nhất Trì, Tánh
Chiếu Nhất Nguyệt.
Năm Mậu Thìn, 1808 Hòa thượng Đạo
Minh Phổ Tịnh được bà Hiếu Khương Hoàng Thái hậu, mẹ của vua Gia Long cung thỉnh
về trú trì chùa Thiên Thọ, tức là chùa Báo Quốc ngày nay. Bấy giờ Ngài Tánh Thiên
Nhất Định cùng đi theo Bổn sư về chùa Thiên Thọ để tiếp tục việc tu học.
Năm Giáp Tuất, 1814 Ngài được Bổn
sư trao kệ đắc pháp:
Nhất Định chiếu quang
minh
Hư không mãn nguyệt
viên
Tổ Tổ truyền phó chúc
Đạo Minh kế Tánh
Thiên.
Nghĩa là: Nhất Định
chiếu sáng tinh
Hư không trăng tròn
xinh
Tổ Tổ trao lời chúc
Tánh Thiên từ Đạo
Minh.
Năm Bính Tý, 1816, Bổn sư viên tịch,
Ngài cư tang để hầu Thầy và cũng trong năm này Ngài được Tông môn cung thỉnh
trú trì chùa Thiên Thọ.
Trong suốt 14 năm làm trú trì
chùa Thiên Thọ, hằng năm cứ vào mùa Xuân và mùa Thu, Ngài chuyên tâm nghiên cứu
Tam tạng giáo điển để giảng dạy cho đồ chúng. Còn mùa Hạ và mùa Đông là Ngài bặt
dứt duyên hóa độ để chuyên tâm Thiền quán.
Năm Canh Dần, 1830, Ngài được triều
đình Minh Mạng trao tặng “Giới đao độ điệp”, khiến Ngài Ngài an tâm duy trì Phật
giáo và chứng ngộ Thiền cơ.
Năm Quý Tỵ, 1833, triều đình Minh
Mạng cung thỉnh Ngài về trú trì Linh Hựu Quán. Đến năm Ất Mùi, 1835 (ngày 01.10
niên hiệu Minh Mạng thứ 16) lại cung thỉnh Ngài lên giữ chức Tăng Cang.
Năm Kỷ Hợi, 1839, triều đình Minh
Mạng lại cung thỉnh Ngài sang làm Tăng Cang chùa Giác Hoàng (khu Tam tòa cũ ở Nội
thành Huế).
Trong suốt thời gian đảm nhiệm chức
vụ ở các ngôi chùa của quốc gia, ngoài việc dạy đạo cho các vương tôn công tử,
thì giờ còn lại Ngài dành hết vào việc tụng niệm và Thiền quán. Do đó, Tương An
Công Miên Bửu, vị hoàng tử thứ bảy của vua Minh Mạng đã vô cùng kính trọng đức
hạnh của Ngài, nên đã có bài thơ dâng tặng Ngài như sau:
“Dạ tụng Pháp hoa
kinh
Chân tâm bách luyện
tinh
Phòng vô phiến trần
nhập
Bích quải điểm đăng
minh
Tích hữu Uyên Minh đức
Tâm như Huệ Viễn
thinh
Chúng nhân đồ ngột ngột
Yên đắc thấu sinh
sinh.”
Nghĩa là: Đêm tụng
kinh Pháp hoa,
Chơn tâm tinh luyện đa
Không còn vi trần hoặc
Vách treo ánh đèn pha
Dấu tích Uyên Minh biết
Tâm đồng Huệ Viễn xưa
Người đời nhiều phiền
lụy
Khó hiểu lẽ sinh ra!
Không chỉ có nhà vua, các hoàng tử,
mà các quan đại thần cũng rất mến mộ tài năng và đức hạnh của Ngài. Tiêu biểu
như vị Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Đăng Giai dưới hai triều vua Thiệu Trị và Tự Đức.
Trong bi ký tại chùa Từ Hiếu, ông đã ghi lại những lời tán thán như sau: “Thiền
sư Nhất Định phụng hành Phật pháp, giáo hóa từ bi, tiếp độ chúng sanh. Ở trong
hàng tín chúng đã có nhiều người hoặc đã bước lên cửa ngõ nhiệm mầu nơi thế giới
Hoa tạng, hoặc đã đi vào biển tính giác ngộ của đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Há không
phải là hạnh từ bi của Ngài đó sao?”.
Trong những năm hành hóa tại chùa
Thiên Thọ và các ngôi chùa của Quốc gia, Ngài đã tiếp nhận và thọ ký cho 41 vị
đệ tử xuất gia, trong đó có 15 vị được Ngài trao kệ đắc pháp và trong số này, lại
có 3 vị nổi tiếng là đạo cao đức trọng . Đó là quý Ngài Hải Thuận Lương Duyên,
trú trì chùa Báo Quốc, Ngài Hải Thiệu Cương Kỹ, trú trì chùa Từ Hiếu và Ngài Hải
Toàn Linh Cơ, trú trì chùa Tường Vân.
Cũng trong thời gian này, Ngài viết
bài “Phổ khuyến niệm Phật”, theo thể thơ Lục bát để khuyến hóa mọi người thực
hành pháp trì danh niệm Phật.
Năm Quý Mão, 1843, Ngài nhận thấy
tuổi đã cao, nên Ngài gửi đơn lên triều đình Thiệu Trị xin từ nhiệm chức vụ
Tăng cang chùa Giác Hoàng. Được vua Thiệu Trị chuẩn nhận, Ngài rất vui mừng, liền
cảm tác hai câu thơ:
“Hạnh phùng tấu đắc nhân hồi lão
Nhất bát cô thân, vạn lý du!”
Nghĩa là: "Già rồi lại được
vua thương
Một thân, một bát rộng đường vân
du!”
Cũng vào năm này, Ngài trao chức
vụ trú trì chùa Báo Quốc cho pháp đệ là Thiền sư Tánh Chiêu Nhất Niệm, rồi chống
gậy vân du lên núi Dương Xuân (thuộc huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên).
Như vậy, hạnh phúc của Ngài lúc
này là ánh trăng vằng vặc, là núi rừng thênh thang, là suối reo róc rách, là tiếng
chim hót giữa bầu trời tự do. Ngài cũng được tự do bưng cơm, nấu nước, xoáy trầu
và chăm sóc đời sống tinh thần cho mẹ già.
Tuy Ngài sống giản dị, khiêm tốn
giữa chốn núi rừng mà mùi hương Đạo hạnh vẫn lan tỏa khắp nơi. Các công tôn
vương tử, văn nhân thi sĩ của đất Kinh đô vẫn thường xuyên tìm đến để thăm viếng
và học hỏi đạo nơi Ngài.
Năm Bính Ngọ, 1846, thi bá Tùng
Thiện Vương Miên Thẫm đã lên thăm Ngài và ở lại tại An Dưỡng am, để được ngồi
chung trên Thiền sàng với Ngài, cùng uống nước trà, cùng ngồi lắng yên nghe suối
hát... Bỗng nhiên, trong lòng khởi sinh ý tưởng liền hỏi Ngài rằng: “Thưa Thượng
nhân, ở trong chỗ này, đối với sở đắc là cái gì?”.
Nghe hỏi, Ngài chỉ mỉm cười, im lặng
không nói, khiến Tùng Thiện Vương Miên Thẫm kính trọng Ngài một cách lạ lùng.
Sau đó, Tùng Thiện Vương đem quà dâng tặng, Ngài từ chối và nói: “Tôi đã có hai
người đệ tử chăm sóc, trồng rau đậu, sớm tối đủ dùng, không mong cầu nhiều”.
Qua lời nói ấy, càng khiến Tùng
Thiện Vương kinh ngạc đức hạnh của Ngài, đến nỗi phải thốt lên rằng: “Ôi, Thượng
nhân quá kỳ lạ và đặc biệt làm sao!”. Rồi cũng đêm ấy, nơi An Dưỡng am, giữa
núi rừng tịch mịch, mưa gió lất phất, hồn thơ Miên Thẫm bỗng dưng trào hứng:
“Tứ sơn phong vũ dạ
trì trì
Mính uyển thiền sàng
tĩnh tọa nghi
Bất thị kim triêu quá
trúc viện
Văn chung vô hạn bích
vân ty!”
Nghĩa là: " Non
khuya mưa gió bốn bề
Giường thiền tĩnh lặng
chén trà bốc hương
Ước chi am trúc ghé
thường
Nghe chuông vô hạn
mây sương một màu!”
Trong những ngày Ngài an trú tại
am An Dưỡng, các quan đại thần thường lui tới thăm viếng và nhất là các quan
Thái giám: Dương Oai, Đặng Tín, Nguyễn Khanh, Nguyễn Đức, Trần Lung, Trần Ngôn,
Ngô Siêu... và chính các quan Thái giám này, đã nhiều lần tha thiết xin Ngài
cho phép họ xây dựng ngôi Phạm vũ tại đây. Nhưng Ngài nhất mực từ chối và còn
có lời khuyên họ rằng: “Nếu tôi muốn ở chùa to Phật lớn, có nhiều danh lợi thì
tôi ở chùa Linh Hựu, Giác Hoàng, Báo Quốc chứ lên đây để làm gì?. Thôi, mong
quý vị để cho tôi được sống cuộc đời an bần, thanh tịnh, nhàn nhã với núi
mây!”.
Ngài sống cuộc đời tu hành nhàn
nhã ở núi Dương Xuân được năm năm, đến ngày Mồng 07 tháng 10 năm Đinh Mùi, 1847
thì Ngài viên tịch. Hưởng thọ 63 tuổi đời với 44 hạ lạp.
Bảo tháp của Ngài được Môn đồ tôn
trí trong khuôn viên An Dưỡng am.
***
Sau khi Ngài viên tịch được môt
năm, tức là vào năm Mậu Thân, 1848, người Cao đệ thứ hai của Ngài là Thiền sư Hải
Thiệu Cương Kỹ cùng các quan Thái giám trong Nội viện đã tôn tạo An Dưỡng am
thành một ngôi chùa rộng lớn, để tỏ lòng ngưỡng mộ đức Từ bi, hạnh hiếu thuận
và tâm nguyện độ tha của Ngài.
Cũng trong năm này (niên hiệu Tự
Đức nguyên niên, 1848) Dực Tông Hoàng đế cảm nhận tâm Từ bi và hạnh hiếu thuận
lớn lao của Ngài, nên đã sắc phong chùa là “Từ Hiếu Tự”. Vì thế cho nên ngày
nay thường gọi là An Dưỡng am Từ Hiếu.
***
Suốt 63 năm ứng hiện giữa hồng trần,
Ngài là bậc đã chứng đạt được nguồn tâm, suốt thông tự tánh, nên Ngài đã từng
khai thị:
“Liễu ngộ tức tâm,
tâm thị Phật
Tương thừa tục diệm
vĩnh xương long”
Nghĩa là: Giác ngộ được
tâm, tâm là Phật
Muôn đời đèn tuệ tiếp
trao nhau!
Hoặc Ngài dạy:
“Tảo giác mê vân lung
hạo nguyệt
Tuệ phong xuy tán kiến
quang minh”.
Nghĩa là: Sớm biết
mây mờ che bóng nguyệt
Tâm mê gió tuệ quét
sáng trưng!
Ngài không chỉ là bậc liễu đạt
Thiền cơ mà còn là bậc suốt thông Tịnh độ về cả hai mặt Lý tính và Hành sự, cả
tự lực và tha lực nữa.
Đối với thể tính hay tự lực, Ngài
dạy: “Nếu không làm bung vỡ cốt tử Di Đà, thì làm sao nhận ra được bộ mặt xưa
nay của chính mình!”.
Còn đối với hành sự hay tha lực,
Ngài dạy: “Cầm chuỗi một xâu, thề chết mới thôi, vịn hàng cây bảy dãy, trông thẳng
mà bước đi”. Hoặc trong bài Phổ khuyến niệm Phật, Ngài dạy:
“Niệm Phật thì phải ân cần,
Thức khuya dậy sớm tay lần hạt
châu.
Niệm Phật ngay thẳng làm đầu,
Ân cao cũng trả, nghĩa sâu cũng đền.
Niệm Phật thọ mạng tăng diên,
Phật vô lượng thọ ta liền khác
chi!
Niệm Phật nhớ chữ Từ bi,
Tham lam bớt bớt, sân si vừa vừa...”
Bởi vậy, trong thời đại triều
Nguyễn, Ngài là một trong những Tăng sĩ không chỉ tiêu biểu cho sự chứng ngộ
tâm linh siêu việt, mà còn là bậc có khả năng dung hóa trộn lẫn giữa Thiền tông
và Tịnh độ, tạo thành pháp môn bất nhị để hòa quang đồng trần, nhằm chuyển hóa
hêt thảy căn cơ, đưa tất cả đều đi vào biển tính giác ngộ.
Do đó, Ngài là bậc kế thừa mạch đạo
từ Hội Linh Sơn, nơi đức Phật đưa cành hoa khai thị, tôn giả Ca Diếp đắc ý mỉm
cười, cho đến Bồ đề Đạt ma khi qua Động độ, mắt sâu hun hút, đập vỡ kiến thức,
đốt cháy ngôn từ, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật.
Đến Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền, treo
cao nguyên lý vô tâm, Phật và chúng sanh bất nhị - Đánh thức tự tánh giác ngộ,
khai mở sức sống rạt rào qua tiếng hét rợn người, hoặc chiếc gậy sắt quơ đánh
ngang tàng hùng liệt.
Xuống Tổ Hoán Bích Nguyên Thiều,
đem đèn Lâm Tế thắp sáng vùng đất Bình Định, Phú Xuân vượt ngoài năng sở:
“Lặng yên gương không
ảnh
Ngọc sáng soi không
hình
Rõ ràng vật không vật
Mênh mông không chẳng
không!”.
Qua Tổ Thiệt Diệu Liễu Quán, phải
buông tay trên hố thẳm để tự khẳng định lấy chính mình và rồi công án vỡ toang,
mặt trời tâm linh bừng sáng:
“Búp măng trên đá dài
hơn trượng
Cây chổi lông rùa nặng
mấy cân!”
Hoặc: “Dây đứt đàn
tranh chơi suốt buổi
Gảy sừng trâu đất rống
thâu đêm”.
Và rồi từ Tổ sư Thiệt Diệu Liễu
Quán, xuống đến Ngài Tánh Thiên Nhất Định đã qua Năm đời truyền thừa, đèn tuệ
trao nhau cùng đi trên con đường lớn thực tiễn, biển tính lắng trong, nguồn tâm
nhuần khắp, cội đức gió lành... đến nay trải qua Một Trăm Năm Mươi Năm, với tám
thế hệ truyền thừa: “Tánh, Hải, Thanh, Trừng, Tâm, Nguyên, Quảng, Nhuận”.
Đèn tuệ của những thế hệ ấy,
không chỉ thắp sáng một vùng mà trên nhiều vùng. Không chỉ thắp sáng một quốc
gia mà ngày nay đã tỏa chiếu khắp hơn ba mươi quốc gia trên thế giới, không những
thắp sáng cho thế hệ hiện tại mà còn thắp sáng tâm linh cho nhiều thế hệ tương
lai, từ “Giới định phước huệ” đến “Đạt ngộ chơn không”.
NAM MÔ HÚY THƯỢNG TÁNH HẠ THIÊN,
HIỆU NHẤT ĐỊNH TỔ SƯ
Thùy từ chứng giám
Tỳ kheo THÍCH THÁI HÒA