TIỂU SỬ
ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TỪ NHƠN
(1926 - 2013)
- Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
- Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
- Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN.
- Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Nguyên Phó Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự THPG Tp. Hồ Chí Minh.
- Trụ trì Việt Nam Quốc Tự, số 244 đường 3 tháng 2, P. 12, Q. 10, Tp. HCM.
- Viện chủ chùa Phước Thạnh, thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
I. Thân thế
Hòa
thượng Thích Từ Nhơn, thế danh Nguyễn Văn Sáu, sinh năm Bính Dần (1926)
tại Sa Đéc, nay là tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Diệu,
pháp danh Thiện Đạo húy Hồng Diệu. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Tuất,
pháp danh Diệu Minh.
II. Thời kỳ xuất gia học Đạo
Vốn
sinh ra trong gia đình thượng lưu trí thức, Phật tử thuần thành, nhiều
đời tin kính Tam bảo, nên khi còn nhỏ, Hòa thượng đã có cơ duyên ở trong
chùa đi học. Ngài được thân sinh là Hòa thượng Hồng Diệu hiệu Thiện Đạo
Trụ trì Phước Thạnh Cổ Tự đưa về Tổ đình Phi Lai xuất gia với Sư bá
Hồng Pháp hiệu Thiện Minh (chú ruột), Trưởng tử Tổ Phi Lai, được Hòa
thượng ban pháp húy Nhựt Sáu, hiệu Từ Nhơn, nối pháp dòng Lâm Tế Gia Phổ
đời thứ 41.
Năm
1936, Hòa thượng được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại Giới đàn chùa Vĩnh
Hòa, Xã Vĩnh Lợi, huyện Thạnh Hòa, tỉnh Bạc Liêu do Hòa thượng Huệ Viên
tổ chức và cung thỉnh Tổ Vạn An (Hòa thượng Thích Chánh Thành) đương vi
Chứng minh, Hòa thượng Bửu Chung chùa Phước Long đương vi Pháp sư, Hòa
thượng Chánh Quả chùa Kim Huê đương vi Bố tát.
Từ
năm 1944 – 1946, Hòa thượng theo học lớp Phật học tại chùa Long An, Sa
Đéc, do Quý Hòa thượng Thích Khánh Phước, Thới An, Hành Trụ, Thiện
Tường… chủ giảng.
Năm
1945, để viên mãn Tam đàn giới pháp, Hòa thượng đã đăng đàn thọ Đại
giới Tỳ Kheo Bồ tát tại Tổ đình Vạn An, rạch Cái Xếp, nay thuộc xã An
Nhơn, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp, do đại lão Hòa Thượng Luật sư
Thích Chánh Quả, Trụ trì Kim Huê cổ Tự làm Đàn đầu Hòa Thượng.
Sau
khi trở thành Pháp khí trong ngôi Tam bảo, để mở mang kiến thức Phật
học, Hòa thượng đã tiếp tục theo học Kinh luật luận với các Trưởng lão
Hòa thượng tại Trường Gia giáo Phi Lai - Châu Đốc, Tổ đình Thiên Thai –
Bà Rịa, Lưỡng Xuyên Phật học – Trà Vinh, Tổ đình Vạn An, Tổ đình Kim
huê, Long An Cổ tự - Sa Đéc v.v…
III. Thời kỳ hành đạo:
Năm
1951, Giáo hội Tăng già Nam Việt được thành lập tại chùa Hưng Long –
Chợ Lớn, Văn phòng đặt tại chùa Ấn Quang, do Hòa thượng Đạt Từ làm Trị
sự trưởng. Năm 1952, Hòa thượng được Giáo hội cử làm Trị sự trưởng Giáo
hội Tăng già Nam Việt tỉnh Sa Đéc kiêm giảng sư Tỉnh hội trong nhiều
nhiệm kỳ.
Năm 1953, Hòa thượng được Bổn sư giao trọng trách Trụ trì Phước Thạnh Cổ Tự.
Từ
năm 1953 – 1963, Hòa thượng đảm nhiệm chức Trị sự Trưởng Giáo hội Tăng
già Nam Việt tỉnh Sa Đéc, kiêm Cố vấn Giáo lý – Trưởng ban Hoằng pháp
tỉnh Sa Đéc. Là một vị Pháp sư danh tiếng, Hòa thượng đi hoằng pháp khắp
nơi trong tỉnh và các tỉnh miền Tây Nam bộ.
Năm
1961, Hòa thượng khởi công xây dựng tượng đài Quan Âm lộ thiên và trang
nghiêm hậu Phật điện Phước Thạnh Cổ Tự. Đến năm 1970, Ngài trùng tu
ngôi Chánh điện bằng vật liệu kiên cố.
Sau
ngày Cách mạng 01/11/1963 thành công, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất được thành lập ngày 04/01/1964, Hòa thượng là Trưởng đoàn Giáo hội
Tăng già Nam Việt tỉnh Sa Đéc tham dự Đại hội thành lập Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất, Ngài được suy cử chức Ủy viên Tài chánh Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất kiêm Phó tổng vụ Tăng sự liên khóa cho
đến năm 1975. Cùng năm, Ngài được Hòa thượng Thiện hoa, Hòa thượng
Thiện Hòa giao chức Tổng Thủ bổn Viện Hóa Đạo và lưu trú tại chùa Ấn
Quang cho đến năm 1993.
Năm
1965, Hòa thượng lại được Viện Hóa Đạo bổ nhiệm làm Trụ trì Việt Nam
Quốc Tự, số 16 đường Trần Quốc Toản, nay là số 244 đường 3 tháng 2, quận
10, Tp. Hồ Chí Minh, thay cho Hòa thượng Thiện Hoa vì bận nhiều Phật
sự.
Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975, Miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất
nước, Bắc Nam sum họp một nhà, các Tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo
họp nhất tại chùa Quán Sứ, Thủ đô Hà Nội, thành lập Giáo hội Phật giáo
Việt Nam ngày 07/11/1981. Đại hội suy cử Hòa thượng Thích Trí Thủ làm
Chủ tịch Hội đồng Trị sự đầu tiên của Giáo hội. Cũng tại Đại hội nầy,
Hòa thượng Thích Trí Tịnh được suy cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội
đồng Trị sự kiêm Trưởng ban Tăng sự Trung ương; và Hòa thượng được Hòa
thượng Thích Trí Tịnh mời làm Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tăng sự
Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho đến ngày về cõi Phật.
Năm
1990, sau khi Hòa thượng Thích Huệ Hưng – Tổng lý Hội đồng Quản trị Tổ
đình Ấn Quang viên tịch, Hòa thượng được Ban Quản trị Tổ đình suy cử làm
Tổng lý Hội đồng Quản trị cho đến ngày viên tịch.
Trong
quá trình thành lập Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm
1982, tại Đại hội lần thứ nhất, Hòa thượng được cử làm Phó Ban Trị sự
kiêm Trưởng ban Tăng sự Thành hội Phật giáo trong nhiều nhiệm kỳ từ năm
1982 – 1997.
Năm 1992, tại Đại hội kỳ III Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hòa thượng đã được Đại hội suy cử làm Ủy viên Hội đồng Trị sự.
Tại
Đại hội kỳ IV (1997), Hòa thượng được suy tôn làm thành viên Hội đồng
Chứng minh, suy cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Phó Trưởng ban
Thường trực Ban Tăng sự Trung ương GHPGVN.
Tại
Đại hội kỳ V, VI và VII, Hòa thượng đã được Đại hội suy cử làm Phó Chủ
tịch Thường trực Hội đồng Trị sự cho đến ngày xả bỏ báo thân.
Từ
năm 1984 – 1993, Hòa thượng đã cùng chư Tôn đức Thành hội Phật giáo Tp.
Hồ Chí Minh, nhất là Hòa thượng Thích Trí Tịnh, Hòa thượng Thích Thiện
Hào đã cùng xin lại phần đất và Tháp Việt Nam Quốc Tự để sinh hoạt tín
ngưỡng tôn giáo, là đơn vị Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật
giáo Tp. Hồ Chí Minh; đồng thời ghi lại dấu ấn lịch sử đấu tranh và hy
sinh gian khổ của Tăng Ni, Phật tử miền Nam trước năm 1975. Đáp ứng
nguyện vọng chính đáng của Thành hội Phật giáo, ông Nguyễn Viết Thanh –
Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Tp. Hồ Chí Minh đã ký Quyết định số
2677/QĐ.UBND ngày 22/11/1992, chấp thuận giao lại một phần diện tích đất
là 3.712m2 và ngôi Bảo tháp Việt Nam Quốc Tự cho Thành hội Phật giáo quản lý.
Trên
cơ sở đó và tiếp tục truyền thống lịch sử mang tính kế thừa của Giáo
hội Phật giáo Việt Nam, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh đã tiếp tục
bổ nhiệm Hòa thượng đảm nhiệm chức vụ Trụ trì Việt Nam Quốc Tự cho đến
ngày xả báo an tường.
Sau
khi nhận lãnh trách nhiệm và với vai trò trụ trì Việt Nam Quốc Tự, Hòa
thượng đã tiếp tục hoàn chỉnh ngôi Bảo tháp và xây dựng thêm các hạng
mục, tôn tạo nhiều Thánh tượng trong khuôn viên chùa cảnh, góp phần
trang nghiêm cơ sở của Giáo hội và Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh
trong lòng thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu.
Ngoài
ra, Hòa thượng còn tổ chức Đạo tràng tu Bát Quan Trai, khai giảng lớp
Giáo lý hằng tuần, do Giảng sư Ban Hoằng pháp Thành hội Phật giáo đảm
trách, mỗi đêm có đến hằng trăm Phật tử tụng kinh Pháp Hoa tại Chánh
điện. Trong các ngày lễ của Phật giáo, có hàng ngàn Phật tử, đồng bào
các giới đến chiêm lễ và tụng niệm.
Đối
với công đức làm Giới sư các Đại Giới đàn, từ năm 1964 đến ngày viên
tịch, Hòa thượng đã từng được cung thỉnh làm Giới sư, Đường đầu Hòa
thượng, Yết ma, Giáo thọ A Xà Lê tại các Giới đàn, để truyền trao giới
pháp cho các giới tử như Sài gòn, Gia Định, Tp. Hồ Chí Minh, Bà Rịa –
Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Đồng Tháp v.v…
Tại
Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ VII, Hòa thượng được Đại hội
suy cử làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiệm kỳ
2009 – 2014.
Với
những công đức đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc, Hòa thượng đã được Nhà
nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương vì sự
nghiệp Đại đoàn kết toàn Dân tộc, Bằng tuyên dương công đức của Giáo
hội.
IV. Thời kỳ viên tịch:
Với
Báo thân dị thục, hiện hữu trên cõi đời theo duyên giả họp, sau hơn 80
năm hoạt động liên tục, chắc chắn cũng đến ngày hao mòn, suy yếu, do đó
trong những năm tháng sau cùng của cuộc đời, tuy sức khỏe của Hòa thượng
có phần suy yếu nhưng lúc nào Hòa thượng cũng vẫn giữ chánh niệm bằng
câu Niệm Phật, tay lần tràng hạt Bồ đề.
Thế
rồi, theo duyên tan họp, Hòa thượng đã thuận thế vô thường, thu thần
viên tịch vào lúc 07 giờ ngày 25 tháng 4 năm 2013, nhằm ngày 16 tháng 3
năm Quý Tỵ tại Việt Nam Quốc Tự, đường 3 tháng 2, phường 12, quận 10,
Tp. Hồ Chí Minh. Trụ thể 88 năm, Hạ lạp 68 năm.
Như
vậy là Hòa thượng đã viên mãn hóa duyên cõi Ta bà, trở về thế giới Niết
bàn vô tung bất diệt, nhưng công đức và đạo nghiệp của Hòa thượng vẫn
còn sống mãi trong tâm tư ký ức của người con Phật và trang sử muôn màu
của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.
Nam
Mô Việt Nam Phật giáo Giáo hội Chứng minh Hội đồng Thành viên, Trị sự
Hội đồng Phó Chủ tịch Thường trực, Việt Nam Quốc Tự đường thượng Từ Lâm
Tế Gia Phổ, Tứ thập nhất thế pháp húy Nhựt Sáu hiệu Từ Nhơn, Nguyễn công
Hòa thượng tác đại chứng minh.