Đạo sư hỏi lại: "Thế anh có hành lý gì không?"
Anh đáp: "Dạ có một va li".
Đạo sư hỏi: "Sao anh có ít đồ vậy?"
Anh đáp: "Vì đi du lịch nên đem ít đồ".
Đạo sư nói: "Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều".
Chúng ta thường quên mất mình chỉ là
khách du lịch qua cuộc đời này, lầm tưởng mình sẽ ở mãi nơi đây, nên
tham lam, ôm đồm, tích trữ quá nhiều đồ vật, tài sản. Đàn bà thì chất
chứa quần áo, vòng vàng, nữ trang. Đàn ông thì máy móc, xe hơi, ti vi,
máy điện tử.
Tranh Chấp
Mỗi khi có sự tranh chấp, buồn phiền, chúng ta thường có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác. Sau đây là ba trường hợp:
a. Người chưa biết đạo thì luôn cho mình đúng và người kia lỗi 100%.
b. Người bắt đầu học đạo, biết tu thì thấy cả hai bên đều có lỗi 50%.
c. Người hiểu đạo thì thấy mình lỗi 100%.
1/
Người chưa biết đạo thì luôn cho mình đúng 100%. Do vô minh và chấp ngã
quá lớn, cho mình là người quan trọng nhất, nghĩ cái gì cũng phải, cũng
đúng, nên xảy ra chuyện gì trái ý cái ngã (cái ta) thì tức giận bắt lỗi
người khác. Thí dụ một chuyện thật xảy ra ở Hoa Kỳ, có một bà già vào
mua cà phê tại tiệm Starbucks, không biết vì lý do gì, bà uống ly cà phê
bị phỏng miệng. Thế là bà nổi giận làm đơn kiện tiệm này đã bán cho bà
ly cà phê quá nóng khiến bà bị phỏng miệng và đòi bồi thường hai triệu
đô la. Bà ta không thấy lỗi mình là khi cầm ly cà phê lên, nếu thấy nóng
thì phải biết thổi cho nó nguội rồi mới uống, đàng này có thể vì tham
ăn, tham uống, thấy ly cà phê bốc mùi thơm phức, mờ mắt húp cái ực nên
bị phỏng miệng. Trong khi đó biết bao nhiêu người khác uống đâu có bị
phỏng? Không những không biết lỗi mình mà còn đi kiện người ta!
Một chuyện khác có thật cũng xảy ra tại
Hoa Kỳ. Một ông nọ đưa bộ đồ vét (veste, suit) đến một tiệm giặt ủi. Khi
lấy bộ đồ về thì nhận ra cái quần không phải của mình. Ông đem trả lại
tiệm và khiếu nại. Khoảng một tuần sau, chủ tiệm đưa cho ông một quần
khác, nhưng ông vẫn không công nhận là quần của ông. Thế rồi ông làm đơn
kiện tiệm giặt ủi. Chủ tiệm đề nghị bồi thường ông 12.000 đô la nhưng
ông không chịu mà đòi 54 triệu. Đương nhiên là quan tòa đã bác đơn của
ông ta.
2/ Người bắt đầu học đạo và biết tu thì
thấy cả hai bên đều có lỗi 50%. Ở đây nói 50% là nói tượng trưng, vì có
thể là 40% và 60%, hoặc 30% và 70%, hoặc 20% và 80%, v.v... Khi xảy ra
một sự tranh chấp, cãi nhau thì đương nhiên phải có một người bắt đầu.
Thí dụ như ông A và bà B cãi nhau. Ông A là người bắt đầu, nhưng nếu bà B
im lặng bỏ đi, không chửi lại thì ông A không thể đứng đó chửi mãi.
Nhưng nếu ông A nói một câu và bà B nói lại hai câu thì ông A sẽ tức lên
nói ba câu hoặc năm, sáu câu liên tiếp. Và nếu bà B không biết ngừng
thì cuộc cãi nhau sẽ leo thang. Nếu bà B biết ngừng thì cuộc khẩu chiến
sẽ chấm dứt. Nhưng sau đó cả hai bên đều mang vết thương lòng và hận
nhau. Về nhà, nếu bà B là người hiểu đạo thì sẽ nhận ra mình cũng có lỗi
trong chuyện cãi nhau, và nếu nhận ra mình có lỗi 40% thì cơn giận của
bà sẽ giảm xuống 40%. Nếu bà B nhận ra mình có lỗi 60% thì cơn giận của
bà sẽ hạ xuống 60%.
3/ Người hiểu đạo thì thấy mình lỗi
100%. Trong một cuộc tranh chấp mà thấy mình lỗi 100% thì coi bộ lỗ quá.
Nhưng nếu hiểu đạo, đạo ở đây là luật nhân quả và nhân duyên thì biết
là không thể nào tự nhiên vô cớ mà người kia lại gây sự với mình. Có
thể mình đã nói hoặc đã làm điều gì tổn thương người ta mà mình không
nhớ. Và nếu xét cho kỹ mà vẫn không thấy mình làm gì sai quấy thì có thể
đời trước, hay nhiều kiếp trước mình đã não hại người ta, nên bây giờ
họ gặp lại mình thì gây sự, kiếm chuyện trả thù.
Thấy mình lỗi đã là quý, nhưng nếu biết xin lỗi thì càng quý hơn vì có thể giải tỏa ân oán và oan gia.
Hạnh phúc xả ly
Ở đời người ta thường cho hạnh phúc là
có được cái này, cái kia: Có nhà lầu, xe hơi, có vợ đẹp, con ngoan, có
tài sản, quyền thế, v.v... Khi chưa có thì muốn có, làm đủ mọi cách để
cho có. Có rồi thì sợ mất hoặc xem thường rồi lại muốn có cái khác. Nếu
không được thì buồn phiền, bất mãn, khổ sở.
Người biết tu thì thấy "không có" là một
hạnh phúc. Không có ở đây là do trí tuệ quán chiếu thấy mọi sự phiền
toái đều do ham muốn mà ra. Bởi thế người tu không muốn có, nếu đã có
rồi thì tập xả ly. Vì những thứ "có" trên thế gian này đều là ràng buộc.
Tuy nhiên đối với những người chưa có,
chưa thỏa mãn được những mong ước, thèm khát, còn mải mê chạy theo vật
chất thì xả ly là một việc thật khó làm, vì họ chưa có thì lấy gì mà xả
bỏ.
Ðức Phật khi còn là thái tử đã có vợ
con, vàng bạc, của cải, cung phi mỹ nữ, đầy đủ vật chất mà trong lòng
vẫn nặng trĩu âu lo, không cảm thấy hạnh phúc. Do đó Ngài mới xả bỏ ra
đi tìm chân lý, tìm hạnh phúc chân thật. Trong khi đó có những người tu
lại chạy theo vật chất, của cải, tài sản, danh lợi bởi vì trong đời họ
chưa được thỏa mãn, chưa cảm thấy có đầy đủ. Chỉ khi nào có được rồi và
trải qua kinh nghiệm thấy những thứ mà họ đã nhọc công tìm kiếm chỉ đem
lại phiền toái và khổ đau thì lúc đó ý nghĩ xả ly mới xuất hiện.
Trước hết có thân thì phải lo cho thân
ăn, mặc, ở, sống. Phải đi làm kiếm ăn, phải mua quần áo mặc, phải thuê
nhà ở tránh mưa nắng. Khi thân đau ốm phải lo thuốc men, chạy chữa. Nếu
có gia đình thì phải lo làm ăn buôn bán kiếm tiền nuôi vợ con. Suốt ngày
chỉ lo suy nghĩ và làm đủ mọi chuyện cho cái ta và những thứ của ta.
Hạnh phúc xả ly tương đương với thiểu
dục tri túc, có nghĩa là tâm không ham muốn, và luôn cảm thấy đầy đủ dù
trong tay không có gì hết. Với người tu, không có sở hữu gì thật là một
hạnh phúc. Nói như vậy có vẻ ngược đời, nhưng người tu là kẻ đi ngược
dòng đời kia mà!
Xả ly giống như người đang mang gánh
nặng trên vai mà đi, nay bỏ được gánh nặng xuống thì cảm thấy nhẹ nhàng
sung sướng vô cùng. Người tu cần tập xả ly, vì xả nhiều chừng nào thì
nhẹ chừng nấy. Xả ly không có nghĩa là phải vứt bỏ hết tài sản, của cải
đang có.
Xả ly trước hết là xả bỏ sự ham muốn và
buồn giận trong tâm, kế đến là xả bỏ sự bám víu vật chất bên ngoài. Tuy
sống giữa tài sản, vật chất, nhưng tâm không còn nhớ nghĩ những thứ đó
là của ta, nếu có ai xin hoặc mất thì xem như nhẹ gánh nặng.
Tập xả ly tới mức cùng cực thì khi chết,
ta xem như trút hết gánh nặng, nhất là cái thân tứ đại già yếu, bệnh
hoạn. Ta đã phải mang nó trên vai suốt cả cuộc đời, nay bỏ được nó, há
không phải là sung sướng lắm sao? Vì thế các thiền sư đắc đạo, khi chết
đều vui vẻ an nhiên tự tại ra đi.
Khi đói thì ta thèm ăn, nhưng khi ăn thì
đòi thứ này thứ kia rồi ăn cho cố, đau bụng, nặng bụng, khó thở. Khi
khát thì thèm uống, nhưng khi uống thì thích những thứ độc hại như rượu
bia, rồi say mèm, ói mửa. Nhiều khi sinh ra ung thư hay sưng gan.
Người tu là người đi tìm hạnh phúc chân
thật, hạnh phúc này chỉ có khi tâm không còn bám víu, dính mắc, thèm
khát mọi sự vật trên đời này. Như vậy hạnh phúc chính là sự giải thoát
của tâm ý. Và muốn có giải thoát thì phải tập xả ly. Hãy nhìn vào tự
tâm, xem mình còn bám víu, dính mắc, ưa ghét cái gì không? Có người xả
bỏ được vợ con nhưng lại dính mắc vào chùa chiền, xả bỏ được tài sản
nhưng lại dính mắc vào danh lợi, địa vị. Xả bỏ được cái này nhưng rồi
lại dính mắc vào cái khác!