Trong cuộc sống văn minh hiện đại, điều kiện vật chất tăng
dần, nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, dẫn đến phát sinh nhiều điều mới
lạ. Để xã hội tiến kịp theo trào lưu hiện đại đó, người ta thường thay
đổi cơ chế làm việc, ê kíp nhân viên, cán bộ lãnh đạo phải năng động,
luôn có tinh thần cầu tiến, và cũng từ đó từ “trẻ hóa” ra đời. Đi đến
đâu, đọc thông tin gì, chúng ta cũng đều thấy, nghe cụm từ ngữ “trẻ hóa
đội ngũ công nhân, trẻ hóa đội ngũ nhân viên và cán bộ”. Có lẽ vì thế mà
ai nấy đều lo sợ mình bị cái già bám lấy và đổ xô nhau tìm cách chống
“lão hóa” để mình được xếp vào hàng “trẻ hóa”.
Người ta vui mừng, phấn khởi khi bước vào một công ty, một cơ quan
hành chính, thấy một ê kíp cán bộ nhân viên đa số thuộc thế hệ “8x” đang
làm việc năng nổ, sôi động và có phần ngần ngại khi thấy toàn các “cụ”
hiện diện. “Trẻ hóa” và “lão hóa” hai hình thức đối lập này dần dần đã
trở thành nỗi ám ảnh ngầm trong tư tưởng của mỗi người. Người đang thời
“trẻ hóa” thì hớn hở vui tươi, công việc thăng tiến, đường công danh
rộng mở; người đang vào giai đoạn “lão hóa” thì bắt đầu nhen nhúm nỗi ưu
tư sầu muộn, khép mình trong viễn cảnh xế chiều, đơn côi chiếc bóng.
Thật thú vị trước những điều có thể và không thể luôn diễn ra hằng
ngày trong cuộc sống chúng ta. Người ta sợ “lão hóa” nên có thể “trẻ
hóa” lại con người trên hình thức, đi ngược dòng thời gian bằng sự can
thiệp của ngành y học, thẩm mỹ, v.v. nhưng người ta không thể “trẻ hóa”
mãi thân tứ đại đang đến hồi suy giảm cơ năng của các tế bào vốn đã thủy
chung với quy luật biến đổi muôn đời thành, trụ, hoại, không. Vậy thì
phương thuốc nào giúp chúng ta chống “lão hóa” bền lâu?
Đối với xã hội hiện nay để phù họp với cơ chế thị trường văn minh
hiện đại, các chuyên gia cũng đã chế ra nhiều phương thuốc đặc trị chống
“lão hóa” nhưng có công hiệu hay không thì còn tùy vào sự kiên trì của
người sử dụng.
Thứ nhất, chống “lão hóa” về hình thể, đây là sở trường của các nhà
thẩm mỳ và các chuyên gia bào chế dược phẩm làm đẹp. Phương thuốc này
chỉ cần tốn vài mươi triệu sẽ có công hiệu trong khoảng thời gian ngắn,
song cũng có phần hên xui, may rủi và vấn đề này cũng đã được các cơ
quan truyền thông nhắc nhở, vì có thể để lại di chứng về sau, cũng có
khi đánh đổi bằng cả mạng sống.
Thứ hai, chống “lão hóa” về tri thức, đây thuộc về phạm vi giáo dục
đào tạo của các nhà “kĩ sư tâm hồn”. Phương thuốc này luôn được hoan
nghênh trong mọi thời đại. Để củng cố địa vị, để không lỗi thời với thế
hệ kế thừa, hoặc muốn nâng cao tri thức, mở rộng tầm nhìn trong xã hội
làm phong phú tâm hồn, mọi người đều cố gắng thu xếp gánh nặng gia đình,
bươn chải kiếm tiền, tham gia các khóa học bồi dưỡng trí tuệ; tùy theo
cấp học hai năm, ba năm, v.v. mà có sự phân bố thời gian khác nhau. Và
rồi, thân phận của mồi người sẽ được đánh giá từ một mảnh bằng “ưu,
giỏi, khá”. Vì thế, có ai đó đã hóm hỉnh nhận xét: “chiếc áo không làm
nên thầy tu, nhưng bằng cấp làm nên tất cả”.
Nhìn chung, hai phương thuốc này cũng có công dụng giúp người ta hạ
sốt hoặc cắt được cơn sốt “kim tiền” một cách hiệu quả, đem lại sự an
tâm cho người đã đến thời “lão hóa” và làm bệ phóng cho những ai đang
thời “trẻ hóa”. Tuy nhiên về phương diện Phật giáo thì đó chỉ là phương
thuốc tạm thời khống chế mức độ lạm phát nhu cầu ăn, mặc, ở của mọi
người, hoàn toàn không phải là phương thuốc vĩnh cừu chống được tất cả
tác dụng phụ sau khi dùng thuốc. Bởi vì, nó vẫn không chừa lành được
chứng bệnh un sầu, đau khổ của con người trong đời sống hiện tại và mai
sau. Sau khi thẩm mỹ, “đẹp” được nhiều người thương yêu, vây quanh chưa
hẳn là việc đáng mừng. Có được địa vị cao cũng chưa hẳn là điều đáng
vui, bởi lẽ “lớn thuyền thì lớn sóng”.
Thực tế, hiện tượng “lão hóa” ngoài hình thức về mặt mũi hay bằng cấp
kiến thức không quan trọng bằng sự “lão hóa” ở tâm hồn. Sự băng hoại
đạo đức, tha hóa phấm chất nhân cách mới là điều đáng lo sợ và cần phải
được nâng cấp chăm sóc. Vì nó không chi gây tác hại cho chính cá nhân mà
còn là tác nhân gây sụp lở xã hội hiện tại và gieo mầm bệnh cho những
thế hệ kế thừa mai sau. Xã hội lên tiếng báo động nào là “cứu lấy hành
tinh xanh của chúng ta, cứu lấy con em của chúng ta, v.v.” nhưng rồi
không ai khống chế nổi sức tàn phá từ sự “lão hóa” tâm hồn kém đạo đức,
quá nhiều chất đốt phiền não của con người gây ra. Trước hiện trạng đó
chúng ta phải làm sao đây?
Đức Phật Thích Ca, bậc thầy vĩ đại, một nhà giáo dục ưu tú, một bác
sĩ thẩm mỹ đại tài chống “lão hóa” suốt hơn 25 thế kỷ qua. Phương thuốc
do Ngài bào chế không phải là dược phẩm thiên nhiên qua quá trình điều
chế theo công nghệ của con người mà do tự thân chứng nghiệm sau 49 ngày
thiền tọa nơi cội bồ đề. Ngài đã khám phá ra con người vốn có sẵn “kháng
thể”[1]
miễn nhiễm với tất cả loại bệnh và không bao giờ bị lão hóa. Chỉ vì con
người mãi chạy theo thứ trang sức giả tạo bên ngoài nên nhất thời không
nhận ra. Song để bảo vệ, phát huy được công dụng của kháng thể đó, hằng
ngày mọi người đều phải tự lập ra nguyên tắc sống đạo đức cho chính
mình, vui tươi an lạc, từ bi thương xót mọi loài một cách bình đẳng
không phân biệt thân sơ, đặc biệt là phải biết nhẫn nhục.
Có thể nói trong sáu phương thuốc Ba la mật của hàng Bồ tát mà đức
Phật đã điều chế, mỗi pháp đều là phương thuốc thần diệu chống lão hóa
và giữa các phương thuốc này có sự tương quan lẫn nhau. Tùy theo con
người bị lão hóa ở phần cơ thể, tâm lý nào thì ứng dụng phương thuốc đó.
Từ góc độ lão hóa tâm hồn thì nhẫn nhục là phương thuốc ứng dụng mang
lại hiệu quả cao nhất, ngăn ngừa được các tác dụng phụ có khả năng di
căn sang các bộ phận tâm lý khác của con người. Ví dụ, giảng sư bố thí
pháp mà học trò lơ đãng, chậm lụt không tiếp thu tốt, giảng năm lần bảy
lượt mà chẳng hiểu, nếu không nhẫn nhục thì tức khắc bị lão sân giận,
bực bội chế ngự. Tọa thiền mà cứ nghe tiếng nói tự tâm thì thầm văng
vẳng “ngủ đi, nghỉ ngơi cho khỏe, ngày nay làm việc mệt quá rồi”; hay
niệm Phật chi một xâu thì đã hết bày, tám lần tạp niệm xen vào hoặc mơ
hồ không nhớ rõ từng danh hiệu Phật, v.v.. Vì muốn những việc làm của
mình luôn hoàn hảo mà không được như ý, nên người ta thường dễ nảy sinh
tâm lý khó chịu. Cái tâm bất an này chính là phiền não, một chứng bệnh
lão hóa nan y đã theo con người từ vô thi kiếp. Vì vậy đề phát huy được
công dụng của kháng thể miễn nhiễm lão hóa đòi hỏi con người phải dùng
thuốc Nhẫn nhục.
Phương thuốc này giúp chúng ta luôn giữ được nét thanh xuân tươi trẻ,
dù cho số tuổi con người cứ cao dần theo năm tháng nhưng nó có công
hiệu “cải lão hoàn đồng”, khiến cho con người thư thái không rơi vào
cảnh huống “sống trong cảnh giải thoát mà khởi tâm ràng buộc, trong trí
bồ đề mà lại thấy không thanh tịnh”. Đây cũng là phương thuốc mà lúc còn
tại thế đức Phật Thích Ca từng khuyến khích các đệ tử nên dùng để thanh
lọc nội tâm, thoát ly phiền não. Và chính đức Phật đã tự mình làm gương
cho các đệ tử noi theo, như có lần đi khất thực, Ngài bị một bà la môn
bỏ đất vào bát; có lần lại bị người ta đuổi xô, mắng chửi bằng nhiều
ngôn từ thô bỉ, đến mức tôn giả A Nan không chịu nổi và phải thinh cầu
đức Phật đi sang nơi khác. Nhưng Ngài vẫn nhẫn nhục, kiên trì tiếp nhận,
dùng tự thân cảm hóa người. Kết quả, đối phương phải cúi đầu qui thuận.
Thật vô cùng thú vị cho con người của chúng ta, cái đáng sợ thì không
sợ, còn cái vốn dĩ như chiếc áo khoác che thân đến hồi sờn rách phải
thay đối thì lại sợ. Dù biết vậy nhưng phàm phu chúng ta mấy ai thoát
được nỗi lo sợ này, vì “lão hóa” là hồi chuông báo động tiến trình ta
sắp sửa chia tay với nhũng gì đang có “tình yêu, danh vọng, sự nghiệp”,
để đến một cảnh giới nào đó mà bản thân con người chưa được tu luyện,
chưa thể nghiệm. Đó cũng là một trong số những lý do để người ta bám
víu, lưu luyến tìm mọi phương cách kéo lại tuổi thanh xuân được ngày nào
hay ngày ấy. Và thế là chúng ta mải lo chạy chữa bệnh “lão hóa” ngoài
hình thức mà quên đi chứng bệnh “lão hóa” tư tường đang gặm nhấm dần tâm
não cùa chúng ta.
Trong tất cả các phương thuốc, nhẫn nhục là phương thuốc không gây
tác dụng phụ, có nhiều chất dinh dưỡng cho nội tạng, có công năng ngừa
bệnh rối loạn tiêu hóa, chống tăng huyết áp, giúp chúng ta khôi phục
năng lượng cơ thể sau những phen va chạm tổn thương, làm trẻ hóa lại tâm
hồn của chúng ta.
Về phương diện thời gian, so với các phương thuốc của Đông y hay Tây y
đều có lượng thời gian nhất định để dùng thuốc, song với phương thuốc
nhẫn nhục thì ngoại lệ, càng dùng càng có ích cho thân tâm, càng cao
tuổi càng chín chắn, nhiều kinh nghiệm sống. Vì vậy, dù ở bất kỳ trường
hợp nan giải nào, nhờ nhẫn nhục nên con người ta bao giờ cũng ung dung
tự tại, không bị stress. Từ lau nhà, dọn phòng vệ sinh, quét rác cho đến
làm chủ tọa một hội đồng v.v. chúng ta đều cảm nhận được sự an lạc vô
tư. Ví như, một ngôi nhà được lọp kín thì nước mưa không thể lọt vào,
một cội cây có bộ rễ ăn sâu vào lòng đất thì không còn lo sợ bão giông
hay hạn hán, vì nó luôn được nền đất vững chắc bảo vệ và mạch nước ngầm
trong lành nuôi dưỡng.
Đức Phật thành đạo đã để lại cho chúng sinh rất nhiều giáo lý nhiệm
mầu và nhiều phương thuốc thần diệu, tùy theo căn bệnh của mồi người mà
sử dụng phương thuốc khác nhau. Hơn nữa, đức Phật thành đạo không phải
để Ngài an ngự trên một cảnh giới xa xôi, xa lạ với con người mà để hòa
nhập vào cộng đồng dân dã, sống đời bình dị, thanh thoát, như cánh hoa
sen tuy sống giữa đầm lầy vẫn nhẹ nhàng vươn lên, tỏa hương tinh khiết.
Do đó, các phương thuốc do Ngài chế ra có điểm đặc biệt là chỉ cần siêng
năng dùng một vị thì có thể điều trị lành các chứng bệnh liên quan. Vì
vậy để khống chế lão hóa và vô hiệu hóa các mầm bệnh tự kỷ, tạo điều
kiện cho đời sống vật chất, tinh thần được an lạc, mỗi người chúng ta
nên dùng thuốc Nhẫn nhục.
Chiếc áo thời gian vùn vụt đi qua, thay đổi theo bốn mùa, đến đi
trong chóp mắt, hạnh phúc chưa kịp hưởng thụ, nỗi buồn chưa kịp phôi
pha, thoáng chốc cụ bà lão hóa đã đến bên mình, vậy tại sao chúng ta lại
để cho những chứng bệnh vô bổ được mất, vinh nhục, khen chê, lấp đầy
tâm não làm tổn hại, tàn phai “nhan sắc”?
Nhẫn nhục là phương thuốc kì diệu, chỉ có nhẫn nhục tự thân mới cảm
nhận và chia sẻ được nỗi khó khăn mà người khác vướng phải, mới có thể
vượt qua mọi chướng ngại để bước vào đời sống “trẻ mãi không già”, không
còn trạng thái âu lo lão hóa!
Trên bến đỗ sinh, già vô định
Ta lang thang đi mãi không ngừng
Ao tứ đại bao lần ta khoác
Buồn vui, vinh nhục mấy gian truân
Nào hay bến cũ còn neo đợi
Lữ khách quay về dưới nắng xuân
Chiếc áo năm nao giờ đã bạc
Mỏi bước phiêu lưu, bến cũ dừng.
Kỷ niệm ngày đức Phật thành đạo, Tân Mão tháng 11 năm 2011
TNTP
Nguồn: Suối Nguồn tập 3&4
[1] Tính Phật sẵn có trong mỗi con người.