Niệm, tiếng Phạn là smṛti, có nghĩa
là nhớ. Theo Duy thức học, niệm là tác dụng của tâm nhằm ghi nhớ rõ
ràng, không để quên mất một đối tượng nào đó. Thông thường, chúng ta hay nói là
hoài niệm, tức là chỉ cho cái tâm nhớ về cảnh giới quá khứ, nhớ những chuyện đã
qua.
Phẩm loại túc luận nói “niệm là rõ tâm, nhớ tính”. Câu-xá luận nói
“niệm là nhớ rõ đối tượng không quên”. Đại thừa quảng ngũ uẩn luận ghi:
“Niệm là gì? Tự tính của nó là nhớ rõ không quên mất của tâm đối với việc đã
từng quen thuộc. Việc đã từng quen thuộc nghĩa là những việc đã từng được huân
tập (đã từng trải qua trước kia). Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho sự không
tán loạn (sở y cho định)”.
Thành duy thức luận cũng định nghĩa: “Niệm là gì? Tự tính của nó là sự ghi
nhớ rõ ràng không quên mất của tâm đối với cảnh đã từng quen thuộc. Nghiệp dụng
của nó là làm sở y cho định. Tức là thường xuyên ghi nhớ cảnh đã từng được tiếp
nhận không để cho quên mất thì có thể dẫn đến định. Đối với cảnh mà thể và loại1
của nó chưa hề được tiếp nhận, niệm hoàn toàn không phát khởi. Giả sử đối tượng
đã từng được tiếp nhận nhưng không được ghi nhận rõ ràng, niệm cũng không phát
sanh”.
Định nghĩa này cho chúng ta thấy
rõ rằng, muốn “niệm” phải có cảnh, và cảnh này phải là cảnh đã từng tiếp nhận,
từng huân tập, từng ghi nhớ dấu ấn trong tâm, tức là những cảnh đã được huân
tập thành chủng tử. Như vậy, niệm là nhớ những cảnh ở trong tâm, hay nói cách
khác là nhớ những hạt giống đã gieo trồng trong tâm.
Cảnh có hai loại. Một là thể cảnh,
là đối tượng mà mình có thể nhận thức trực tiếp, mắt thấy, tai nghe, gọi là thể
cảnh (cảnh hiển bày trước mắt). Hai là loại cảnh, là đối tượng được nhận thức
do loại suy, tức là dựa vào những hình ảnh, những cảnh giới… được miêu tả trong
kinh sách mà tưởng tượng ra những hình ảnh, những cảnh giới giống như đã miêu
tả, gọi là loại cảnh. Đối với cả hai cảnh này, tâm phải từng tiếp nhận, từng
huân tập, từng huấn luyện sao cho đối tượng in dấu trong tâm thức rõ ràng, trở
thành chủng tử, thành hạt giống nằm ở trong tâm thức thì chúng ta mới có thể
“niệm” nó được. Bởi vì, như luận đã nói, “đối tượng đã từng được tiếp nhận
nhưng không được ghi nhận rõ ràng, niệm cũng không phát sanh”, huống chi là đối
tượng mà mình chưa từng tiếp nhận, chưa từng huân tập làm sao “niệm” (nhớ) cho được?!
Nhưng những điều mình nhớ đa phần
là vọng tưởng. Bởi những nỗi nhớ đó làm cho mình đánh mất hiện tại, nó kéo mình
về quá khứ, để vui, để buồn với những chuyện đã qua… Mà cuộc sống hiện thực là
bây giờ và ở đây, ngay trong giờ phút hiện tại. Cho nên, nhớ về quá khứ hay mơ
tưởng về tương lai đều không giúp gì được cho mình hết. Nếu mình biết sống
trong hiện tại cho thật hạnh phúc, cho thật chánh niệm và tỉnh giác thì mình
biết quá khứ hay tương lai đều đang có mặt trong từng phút giây hiện tại, mình
không cần phải nhớ hay mơ ước gì hết. Cho nên, niệm ở trong đạo Phật là nhớ
những gì đưa mình tới an lạc và giải thoát mà thôi, còn những gì làm cho mình
mệt, mình khổ, mình phiền não, thì mình không cần phải nhớ.
Những cái mình nhớ mà đưa tới an
lạc giải thoát, đưa tới ly dục, ly bất thiện pháp, thì Phật chỉ cho mình niệm.
Như Phật dạy mình nhớ hơi thở. Thực tập theo dõi và đếm hơi thở ra vào gọi là
quán sổ tức, hay còn gọi là an ban niệm; mình nhớ Phật, nhớ Pháp, nhớ Tăng, nhớ
bố thí, nhớ giữ Giới, nhớ cõi Thiên thì gọi là lục niệm… Còn nhiều thứ Đức Phật
chỉ dạy mình nhớ, để mình thoát khổ, như nhớ Tứ niệm xứ, nhớ Tứ vô lượng
tâm…Khi mình nhớ những cái đó gọi là niệm. Niệm như vậy là một pháp môn tu tập.
Muốn niệm được thành công thì mình
phải có ước muốn, tức là phải làm cho tâm sở dục phát sanh. Tâm sở dục là gì? Câu-xá
luận định nghĩa: “Đặc tính của nó là hy vọng ở nơi đối tượng đáng yêu
thích. Đối tượng đáng được yêu thích là những gì muốn thấy, muốn nghe… thì hy
vọng, mong cầu. Nghiệp dụng của nó là sở y cho tinh thần”.
Chẳng hạn, mình muốn
niệm Phật thành công thì mình phải có ước muốn, ưa thích Tịnh độ, điều mà trong
kinh Vô lượng thọ gọi là “tín nhạo”: “nhược hữu chúng sanh, dục sanh ngã
quốc, chí tâm tín nhạo” (nếu có chúng sanh nào ưa muốn được vãng sanh về cõi
nước của Ta, thì hãy hết lòng tin tưởng và ưa thích). Hết lòng tin tưởng và ưa
thích không phải là điều kiện của Phật A-di-đà đưa ra để ai tin tưởng và ưa
thích Ngài thì Ngài tiếp dẫn về thế giới Cực lạc; mà đó là điều kiện để mình có
thể tu Pháp môn Niệm Phật được. Tâm mình có tin tưởng, ước muốn và ưa thích rồi
thì nó mới có thể ghi dấu lên tâm thức, tức làm cho đối tượng thành chủng tử,
mà thuật ngữ gọi là thắng giải.
Thắng giải là, Câu-xá luận
định nghĩa: “Đặc tính của nó là ghi dấu ấn trên đối tượng đã được xác định,
nhận thức đúng như bản chất của nó. Nói ‘xác định’ tức là duy trì dấu ấn trên
sự thể đã được xác định. Nghiệp dụng của nó là không bị dẫn chuyển, vì nó có
tăng thắng, không thể bị dịch chuyển bởi cái khác”. Khi mình “nhớ Phật” (tức là
niệm Phật) là mình ghi dấu ấn Đức Phật cùng với những phẩm tính vô cùng thù
thắng, hy hữu của Ngài lên tâm thức của mình. Tâm thức một khi đã “xác định”,
đã duy trì dấu ấn Đức Phật, cũng như cảnh giới Tây phương Cực lạc rồi thì không
có gì dẫn chuyển tâm của mình đi về hướng khác được; nó nhất định đưa mình tới
Niệm - Định - Tuệ, và nhất định thành Phật.
Như vậy, tuần tự của quá trình tu
tập Pháp môn Niệm Phật nói riêng, tu học theo Phật pháp nói chung, để đạt được
định, từ định mà có tuệ thì lộ trình của nó
phải là: Dục - Thắng giải - Niệm - Định - Tuệ.
Lẽ hẳn nhiên là mình không thể
“niệm”, tức là không thể nào “nhớ” được cảnh giới mà mình chưa từng nhìn thấy,
chưa từng tiếp nhận, chưa từng được ghi dấu trong tâm thức. Đối với những cảnh
giới, những hình ảnh, những sự kiện mình mới nghe qua, thấy qua… một đôi lần mà
không ấn tượng gì thì mình cũng khó nhớ, hoặc nhớ một cách mơ hồ, tức là tâm sở
niệm không thể phát sanh. Tâm sở niệm không phát sanh thì không có định; nếu
niệm mơ hồ thì cũng khó đắc định.
Đây là lý do vì sao chúng ta phải
học thuộc lòng kinh A-di-đà. Học thuộc lòng để cảnh giới Tây phương Cực
lạc được giới thiệu trong kinh in sâu vào trong tâm, làm cơ sở cho tâm niệm
loại suy ra cảnh giới đó, để khi nghe đến tên kinh, nghe đến thất trùng lan
thuẫn, thất trùng hàng thọ, thất trùng la võng, hoa sen lớn như bánh xe v.v…
thì cảnh giới Tây phương Cực lạc lập tức hiện tiền trước mắt liền. Danh hiệu
của Phật A-di-đà cũng vậy, chúng ta phải huân tập, phải niệm làm sao mà khi tâm
vừa khởi niệm hay nghe đến danh hiệu Phật A-di-đà thì lập tức hình ảnh của Phật
A-di-đà đầy đủ tướng hảo, công đức thù thắng, bổn nguyện độ sanh… đều hiển hiện
rõ ràng trong tâm, như thấy trước mặt, thì như vậy là niệm Phật thành công.
Như vậy, với một người suốt đời
không tin Tam bảo, tạo tội ngũ nghịch, làm mười việc ác… gây đủ mọi thứ tội lỗi
thì hẳn là chưa từng huân tập hình ảnh và công đức của Phật, tức là đối với
cảnh mà thể và loại của nó chưa hề được tiếp nhận, thì người ấy không thể niệm
Phật được, vì tâm sở niệm hoàn toàn không phát khởi. Nói một cách khác, đối với
một người chưa bao giờ biết đến chùa, chưa từng tụng kinh, niệm Phật, thì hẳn
chưa từng biết đến thế giới của chư Phật, chưa từng biết có cảnh Tây phương,
cũng không hề biết có Phật A-di-đà, tức là họ chưa từng huân tập những hạt
giống Tây phương Tịnh độ, thì đối với những người này không thể niệm Phật được.
Giả sử có người đã từng đi chùa,
cũng có đôi ba lần tụng kinh, niệm Phật, cũng từng nghe nói đến thế giới Tây
phương Cực lạc, nghe nói đến công đức của Phật A-di-đà, tức là đã từng được tiếp nhận đối tượng, nhưng những đối tượng đó
không được ghi nhận rõ ràng, thì tâm sở niệm cũng không phát sanh, người ấy cũng không thể niệm Phật được.
Để đạt được định thì bắt buộc phải
tu niệm, do niệm mà dần đi vào định. Trong kinh có nói, tâm của chúng ta phiền
não tán loạn, khi nghĩ cái này khi nghĩ cái kia, không một sát-na dừng nghỉ,
cho nên cần phải cho nó một đối tượng để cho nó duyên vào đó, để cột nó lại,
khiến cho nó từ từ an trụ. Cũng giống như con trâu cứ chạy đông chạy tây, nếu
mình lấy sợi dây xỏ mũi và cột nó lại dưới gốc cây, bấy giờ nó có chạy cũng chỉ
chạy lui chạy tới một chỗ dưới gốc cây thôi, chạy một hồi nó sẽ mệt, nó sẽ dừng
lại và sẽ nằm xuống. Cái tâm của mình cũng giống như vậy, nếu mình buộc nó vào
một chỗ thì từ từ nó sẽ đi vào định.
Không những mình tu định cần phải có niệm, mà ngay cả khi
tu quán, tu huệ cũng cần phải có niệm. Cho nên, ở trong Phật pháp, niệm là một
pháp vô cùng quan trọng. Niệm có nhiều loại, tùy theo đối tượng mình niệm mà có
tên gọi khác nhau, như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Tứ đế…
Bây giờ mình
nói niệm Phật, tức là lấy Đức Phật làm cảnh giới, làm đối tượng để mà niệm, mà
nhớ. Khi mình niệm Phật thì tâm của mình chuyên chú vào danh hiệu Đức Phật hoặc
cảnh giới của Phật, niệm cho đến khi đắc định thì gọi là niệm Phật tam-muội.
Nhưng mà phải niệm cho thật chuyên chú, chứ nếu niệm không chuyên chú thì cái
tâm sở niệm không dễ gì hiện ra rõ ràng, định không dễ gì thành tựu. Nếu có thể
làm cho tâm hết tán loạn, tâm không chạy theo những đối tượng khác, mà chuyên
chú tập trung vào một cảnh thôi thì tu niệm mới có khả năng thành công.
Trong kinh có nói một thí dụ như
sau: Có một người nọ đắc tội với quốc vương, đáng phải xử tử. Bấy giờ quốc
vương sai lấy một bát đựng đầy dầu, bắt người tội bưng lấy bát dầu đi ra đường
phố đến một địa điểm đã quy định, nếu như anh ta có khả năng giữ bát dầu không
rơi ra ngoài một giọt thì quốc vương sẽ miễn tội chết cho. Kẻ phạm tội đó trong
khi tính mạng đang bị uy hiếp mà tìm thấy con đường sống, cho nên đã để hết tâm
ý vào tay bưng bát dầu. Trên đường đi có biết bao nhiêu màn ca múa hát xướng
anh ta cũng không nghe không thấy; có biết bao trò đánh đá cãi vã ồn ào anh ta
cũng mặc kệ; cho đến những đoàn xe ngựa chạy tới chạy lui, biết bao cảnh vật
xung quanh tác động vậy mà anh ta đều không để mắt tới, chỉ duy nhất tập trung
tâm ý vào việc giữ gìn bát dầu sao cho khỏi rơi ra ngoài dù chỉ một giọt. Cuối
cùng thì anh ta cũng bưng được bát dầu đi đến nơi quy định mà không để rơi một
giọt nào, nhờ vậy anh được thoát khỏi tội chết.
Cũng như anh tử tù, chúng sanh
đang bị chìm đắm trong thế gian vô thường, đang bị bức bách bởi sanh tử khổ
nạn, đang bị thiêu đốt trong nhà lửa Tam giới... Trong khi sự sống mong manh,
vô thường như ngàn cân treo đầu sợi tóc ấy thì mình tìm thấy con đường sống
bằng cách niệm Phật, như anh tử tù tìm thấy đường sống bằng việc làm sao bưng
bát dầu không bị đổ trên suốt hành trình nghiệp lực quy định. Chúng ta nếu muốn
thoát ly sanh tử, thoát khỏi sự trói buộc trong ba cõi thì phải tu niệm, phải
buộc niệm cho chuyên tâm nhất ý, không để cho cảnh giới ngũ dục đáng ưa, đáng
thích, đáng yêu trói buộc, đối với cảnh đáng sân mà không nổi sân, trong hoàn
cảnh biến động, tán loạn mà giữ tâm bất động, như vậy gọi là buộc niệm chuyên
nhất. Tham, sân, si… các thứ phiền não không khởi thì tâm sẽ gom về một chỗ, sẽ
an trú trong trạng thái yên lặng, trong suốt, tức là đắc định. Có định thì sẽ
phát tuệ, từ đó, vô lượng công đức đều được thành tựu.
Ngược lại, nếu không tu niệm, sẽ
không được định tâm. Mà tâm không có định thì dù có đọc kinh, học Phật pháp, bố
thí, cúng dường, trì giới… đều không thể đạt được công đức thù thắng trong Phật
pháp, chỉ có thể đạt được một chút tri thức, một chút phước nghiệp, hưởng phước
báo trời người mà thôi.
Xưa nay, người tu theo pháp môn
niệm Phật, đại đa số mọi người chỉ biết niệm bằng cái miệng, cũng giống như nhà
thiền nói chuyện thiền trên lưỡi, gọi là ‘khẩu đầu thiền’, có rất ít người biết
được ý nghĩa thâm sâu của pháp môn niệm Phật. Nếu niệm Phật mà chỉ niệm bằng
cái miệng suông, trong tâm không có Phật, không tưởng nhớ công đức của Phật,
không quán tưởng về Phật và cảnh giới của Phật thì cũng như máy niệm Phật thôi!
Cho nên, nếu chỉ niệm Phật bằng
cái miệng suông, tâm không nhớ Phật thì không thể gọi là niệm Phật được, mà chỉ
có thể gọi là ‘kêu tên của Phật’, ‘phụ họa niệm Phật’... Niệm Phật chân chính
là phải tâm tâm buộc niệm vào cảnh giới Phật, cột tâm vào danh hiệu Phật, ghi
nhớ rõ ràng, không để xao lãng, không để quên mất. Nói một cách đơn giản, niệm
Phật là phải nhớ Phật. Phật là người như thế nào, có những công đức gì, tướng
hảo trang nghiêm ra sao… mình phải ghi nhớ rõ ràng trong tâm khi đọc đến, nghe
đến, niệm đến danh hiệu của Ngài.
Về phương
pháp niệm Phật thì chính Đức Bổn sư Thích-ca mâu-ni Phật đã hướng dẫn: “Tỳ-kheo
chánh thân, chánh ý, ngồi bắt tréo chân, cột niệm ở trước, chuyên
tinh niệm Phật, không có niệm tưởng nào khác. Quán hình của Như Lai, mắt
không hề rời. Trong khi mắt không rời, niệm tưởng công đức Như Lai”. Đoạn
kinh này chỉ dẫn ba cách niệm Phật:
- Chuyên tinh niệm Phật, không
có niệm tưởng nào khác là Trì danh niệm Phật hay Xưng danh niệm Phật. Hành
giả buộc tâm vào câu Phật hiệu Nam-mô A-di-đà Phật, niệm niệm liên tục, niệm
trước tiếp nối niệm sau không dứt, không để bất cứ một ý niệm nào khác xen tạp
vào. Niệm như vậy trong vòng năm mười phút mà không bị gián đoạn, không có vọng
tưởng, thì đạt được định, gọi là niệm Phật tam-muội. Nếu niệm được từ một đến
bảy ngày liên tục không gián đoạn, không xen tạp, nhất tâm bất loạn thì ngay
hiện tiền chứng được bất thối chuyển, lúc lâm chung được Phật A-di-đà và Thánh
chúng đến đón về Tịnh độ.
- Quán hình của Như Lai, mắt
không hề rời là Quán tượng niệm Phật. Hành giả thỉnh một tượng Phật, hoặc
hình Phật, hoặc bức tranh Tây phương Cực lạc… thiết trí nơi trang nghiêm. Mỗi
ngày để ra năm mười phút ngồi ngay thẳng trước tôn tượng, tập trung tâm ý, mắt
nhìn tượng Phật, nhìn thật chăm chú, ngắm nhìn từ nét mặt đến nếp y, hình dáng…
sao cho hình ảnh của Đức Phật A-di-đà in đậm trong tâm thức đến nỗi khi rời
khỏi Phật điện, đi đến bất cứ đâu và ở bất cứ lúc nào, hễ khởi tâm nhớ Phật,
niệm Phật thì lập tức hình ảnh Đức Phật hiện ra rõ ràng trước mắt, lúc nào
trong tâm cũng thấy Phật. Trong tâm lúc nào cũng thấy Phật thì bao nhiêu tội
lỗi, nghiệp chướng đều tiêu trừ, bao nhiêu công đức thù thắng đều thành tựu,
ngay trong hiện đời cảm được pháp lạc vô dư.
- Niệm tưởng công đức của Như
Lai là Quán tưởng niệm Phật. Hành giả nhớ nghĩ đến công đức của Phật
A-di-đà, Ngài có 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh, từ bi nguyện lực sâu rộng… Dù
trong đời này hay đời khác, hay trên thiên giới, không có tài bảo vi diệu nào
sánh với Đức Như Lai. Ở đây, Phật là tài bảo tối thắng vi diệu. Bằng sự thực
này, ước nguyện tất cả đều được an lành, lâm chung đều được sanh về cảnh giới
của Phật A-di-đà.
Trên đây là ba phương pháp niệm
Phật căn bản, được Tăng Ni, Phật tử thực tập rất thịnh hành ngay thời Phật còn
tại thế. Trong các phương pháp niệm Phật, thì phương pháp ‘Xưng danh niệm Phật’
là giản dị nhất.
Nhưng ‘Xưng danh niệm Phật’ tuyệt
đối không phải chỉ là xưng niệm trên miệng. Xưa nay chúng ta trì tụng kinh
A-di-đà của ngài Cưu-ma-la-thập dịch, trong bản kinh này nói ‘chấp trì danh
hiệu’, tức niệm danh hiệu Phật liên tục, không gián đoạn; nhưng trong một bản
dịch khác của ngài Huyền Trang thì câu kinh đó là ‘tư duy niệm Phật’, tức thiền
quán về danh hiệu Phật.
Từ đó chúng ta thấy rằng, ‘Xưng danh niệm Phật’ tuyệt
đối không phải chỉ là niệm Phật bằng cái miệng, mà phải niệm bằng cái tâm, để
danh hiệu Phật vào trong tâm, buộc niệm vào danh hiệu Phật rồi tư duy thiền quán.
Nhờ xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, và nhờ danh hiệu mà thể hội được công
đức, thật tướng của Phật; buộc niệm tư duy về công đức và thật tướng của Phật
mới gọi là niệm Phật.
Cho nên, điều quan trọng nhất của
hành giả Tịnh độ là khi xưng niệm danh hiệu Phật là đừng bao giờ dừng lại ở chỗ
chỉ xướng tụng bằng cái miệng, niệm Phật trên miệng mà trong tâm rỗng tuếch thì
không khác gì máy niệm Phật!
Văn Thù Sư Lợi sở thuyết ma-ha
bát-nhã ba-la-mật kinh dạy rằng: “Ai muốn
nhập vào tam-muội nhất hạnh, nên đến ở một chỗ trống vắng, bỏ hết những loạn ý,
không duyên vào tướng mạo, buộc tâm vào một Đức Phật mà chuyên đọc danh tự của
Đức Phật ấy; tùy theo phương hướng xứ sở của Đức Phật ấy mà ngồi thẳng xoay mặt
về phương hướng xứ sở đó”.
Đoạn kinh trên cho thấy, nếu hành
giả niệm Phật muốn đạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn thì phải ‘đến ở một chỗ
trống vắng, bỏ hết những loạn ý, không duyên vào tướng mạo (bên ngoài), cột tâm
vào một Đức Phật, chuyên niệm danh hiệu Phật ấy’. Nếu hành giả muốn vãng sanh
Tịnh độ của Phật A-di-đà thì phải ngồi ngay thẳng, xoay mặt về hướng Tây,
chuyên niệm danh hiệu ‘Nam-mô A-di-đà Phật’.
Để niệm Phật
dễ đắc định, hành giả vừa niệm vừa nghe lại âm thanh niệm Phật của mình. Phương
pháp này gọi là phản văn niệm Phật, cũng gọi là Kim cang trì. Hành giả niệm thư
thả, tiếng không lớn cũng không nhỏ quá, vừa niệm vừa
lắng tai nghe
lại tiếng niệm của mình từng chữ một: Miệng niệm, tai nghe, tâm tưởng, ba yếu
tố này phải đồng thời tương ưng với nhau. Khi niệm Phật phải niệm cho rõ ràng,
bình tĩnh, không ồn ào, không hoảng hốt. Quan trọng nhất là, khi niệm Phật
không phải niệm bằng cái miệng, mà cần phải lắng tai để nghe âm thanh niệm Phật
của mình, nghe thấy rõ ràng, chú tâm mà nghe, tức là trong tâm của mình cũng
đồng thời vừa niệm vừa nghe danh hiệu Phật, mỗi niệm mỗi niệm rõ ràng, trong
sáng.
Mục đích của niệm Phật là đạt đến cảnh
giới nhất tâm bất loạn, mà muốn đạt đến cảnh giới đó cần phải mặc niệm, tức là
phải niệm thầm, niệm bằng ý thức, mà nói chính xác là niệm bằng tâm sở tầm và
tâm sở tứ, tức niệm bằng ngôn ngữ của ý.
Mặc niệm, hay niệm thầm, còn gọi là Kim
cang trì, tức là đem danh hiệu Phật đặt vào trong tâm, niệm bằng ngôn ngữ của
tâm, miệng không phát ra âm thanh. Tuy không niệm ra tiếng nhưng tâm lại nghe
được tiếng, đó là tiếng nói hay ngôn ngữ của tâm, gọi là ý ngôn, mỗi chữ mỗi
câu đều nghe được rất rõ ràng. Niệm Phật bằng cách này thì từ từ tâm sẽ hướng
về một cảnh, ngoại duyên từ từ bị cắt đứt, khi đó chúng ta mới đạt được định.
Hai yếu tố tâm sở tầm và tứ rất quan
trọng trong quá trình tu niệm. Tầm là nắm lấy danh hiệu Phật, khởi niệm niệm
Phật; tứ là duy trì chánh niệm trong suốt quá trình niệm Phật, tức là khi nào
cũng ý thức, chánh niệm, tỉnh giác biết rõ mình đang niệm Phật, chỉ có tâm với
danh hiệu Phật, ngoài ra không có bất kỳ một ý niệm nào khác.
Niệm Phật theo
cách này thì chỉ cần năm mười phút là mình có được hỷ lạc liền, như trong kinh
Phật nói: “Một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ”.
Thích Nguyên Hùng ________________
(1) Có hai loại đối tượng (cảnh): đối tượng được
nhận thức trực tiếp, gọi là thể cảnh. Đối tượng nhận thức do loại suy, gọi là
loại cảnh.